Bản án số 17/2024/HNGĐ-ST ngày 27/09/2024 của TAND huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 17/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 17/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 17/2024/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 17/2024/HNGĐ-ST ngày 27/09/2024 của TAND huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Vĩnh Lộc (TAND tỉnh Thanh Hóa) |
Số hiệu: | 17/2024/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 27/09/2024 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ly hôn, tranh chấp nuôi con |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN ND HUYỆN VĨNH LỘC
TỈNH THANH HÓA
Bản án số: 17/2024/HNGĐ-ST
Ngày: 27/9/2024
V/v: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH LỘC, TỈNH THANH HÓA
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Ngô Thị Tuyết
Các Hội thẩm nhân dân: Bà Nguyễn Thị Tường Vân và ông Lê Trung Kiên.
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Hương Trà – Thư ký Tòa án nhân dân huyện
Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa tham gia
phiên tòa: Bà Trương Thị Thúy- Chức vụ: Kiểm sát viên.
Trong ngày 27 tháng 9 năm 2024 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện
Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh H đã xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 38/2024/TLST-
HNGĐ ngày 31 tháng 5 năm 2024, về việc "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con", theo
quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2024/QĐXXST - HNGĐ ngày 27 tháng 8 năm
2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Anh Trần Văn T – Sinh năm 1992;
Địa chỉ: Thôn QB, xã V H, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh H.
Có mặt.
2. Bị đơn: Chị Nguyễn Thị H – Sinh năm 1996;
Địa chỉ: Thôn Q B, xã V H, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh H.
Có mặt.
3. Người làm chứng:
+ Bà Trịnh Thị L, sinh năm 1971,
+ Bà Lê Thị K, sinh năm 1948.
Cùng Địa chỉ: Thôn Q B, xã V H, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh H.
+ Anh Trịnh Quốc Đ, sinh năm 1999
Địa chỉ: Thôn P L, xã V Y, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh H.
Những người làm chứng đều có mặt.
NỘI DUNG CỦA VỤ ÁN
2
Tại đơn khởi kiện đề ngày 27 tháng 5 năm 2024, quá trình giải quyết vụ án và tại
phiên tòa, nguyên đơn là anh Trần Văn T trình bày:
- Về hôn nhân: Anh Trần Văn T và chị Nguyễn Thị H kết hôn trên cơ sở tự
nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Hòa, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh
Thanh H vào ngày 29/6/2020. Sau khi kết hôn cuộc sống chung của vợ chồng hòa
thuận, hạnh phúc đến cuối năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn
vợ chồng là do tính tình không hợp nên bất đồng quan điểm sống. Anh Trần Văn T và
chị Nguyễn Thị H đã sống ly thân từ năm 2022 đến nay, hai bên không còn quan T
đến nhau nữa. Đến nay anh T xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, hạnh phúc đã
thực sự tan vỡ, nên anh T yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn chị Nguyễn Thị H.
- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên là Trần Gia K - sinh ngày
07/01/2021. Hiện con chung đang được anh T nuôi dưỡng. Khi ly hôn anh T yêu cầu
được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu chị Nguyễn Thị H phải đóng
góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung.
- Về tài sản chung và công nợ chung: Vợ chồng không có tài sản chung và công
nợ chung nên anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại bản tự khai ngày 12/6/2024 bị đơn là chị Nguyễn Thị H trình bày:
- Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H và anh Trần Văn T kết hôn trên cơ sở tự
nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Hòa, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh
Thanh H vào ngày 29/6/2020. Sau khi kết hôn cuộc sống chung của vợ chồng hòa
thuận, hạnh phúc đến cuối năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn
vợ chồng là do tính tình không phù hợp nên thường bất đồng quan điểm sống dẫn đến
vợ chồng hay xảy ra cãi vã, xúc phạm lẫn nhau. Anh Trần Văn T và chị Nguyễn Thị H
đã sống ly thân từ tháng 11/2022 đến nay, hai bên không còn quan T đến nhau nữa.
Nay anh T yêu cầu ly hôn, chị H xét thấy tình cảm vợ chồng vẫn còn nên chị H đề
nghị được đoàn tụ để cùng nhau nuôi dạy con cái.
Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa chị H xác định tình cảm vợ chồng
giữa chị và anh T đến nay không còn vì vậy chị H cũng nhất trí thuận tình ly hôn.
- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên là Trần Gia K - sinh ngày
07/01/2021. Hiện con chung đang được bố mẹ anh T chăm sóc nuôi dưỡng. Khi ly hôn
chị H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và yêu cầu anh T phải đóng góp
tiền cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị mỗi tháng 2.000.000 đồng cho đến khi con
chung đủ 18 tuổi.
- Về tài sản chung và công nợ chung: Vợ chồng không có tài sản chung và công
nợ chung nên chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại bản tự khai ngày 15/8/2024 và tại phiên tòa người làm chứng là bà Trịnh Thị
Loan trình bày:
3
Bà L có mối quan hệ là mẹ đẻ ra anh Trần Văn T và là mẹ chồng của chị Hoá.
Anh T và chị Hoá cưới với nhau từ tháng 7/2020 và đến tháng 01/2021 thì sinh ra cháu
nội là Trần Gia Khiêm. Trước khi hai con bà Loan cưới nhau thì chị H mới học xong
và chưa có việc làm, gia đình bà Loan và anh T chăm nuôi cho đến khi cháu nội bà
Loan được một năm thì chị H xin gia đình lên thăm chồng vì trong quá trình nghỉ đẻ ở
nhà hai con ít gặp nhau. Nghĩ về chuyện T lý cho con trẻ nên gia đình bà Loan đồng ý
cho con dâu đi một tuần, nhưng khi đi lên Thái Nguyên thì chị H không về nữa mà ở
lại tìm việc làm, bỏ con ở lại cho gia đình bà Loan chăm sóc, nuôi dưỡng. Nhiều lần
gia đình bà Loan gọi điện cho chị Hoá về mang con đi để mẹ con được gần nhau
nhưng chị H đều từ chối và không mang, kể cả những khi cháu Khiêm bị ốm cũng
không về, thỉnh thoảng mới về thời gian ngắn. Thậm chí tết về cũng không ở nhà với
con mà bỏ đi vào ngoại chơi vui tết. Những lúc bà Loan ốm phải nằm viện gia đình gọi
điện cho chị H về mang con đi cho chồng bà xuống bệnh viện chăm bà thì chị H đều
trả lời: “Không mang đi vì con không lo được. Nếu con đưa cháu Khiêm lên Thái
Nguyên ở cùng thì bố hoặc mẹ phải lên ở cùng để phụ giúp chăm sóc cháu Khiêm”.
Cháu Khiêm ở nhà được ông bà nội chăm sóc, đưa đón đi học ở trường mầm non xã
Vĩnh Hòa. Cháu Khiêm được bố và ông bà nội chăm sóc chu đáo, đầy đủ nên cháu
Khiêm phát triển tốt về mọi mặt. Mọi chi phí về tài chính từ tiền ăn uống, sinh hoạt,
chi phí học hành đều do bố cháu Khiêm là anh Trần Văn T chu cấp, còn chị H thỉnh
thoảng mới chu cấp. Việc các con ly hôn ai là người nuôi cháu Khiêm thì để cho các
con tự suy nghĩ và quyết định.
Tại bản tự khai ngày 15/8/2024 và tại phiên tòa người làm chứng là anh Trịnh
Quốc Đ trình bày:
Anh Đ có mối quan hệ thân thiết với gia đình anh T chị Hoá nên thường xuyên
qua lại với gia đình anh T. Anh Đạt hay xuống gia đình chơi thì có thấy cháu Khiêm ở
nhà với ông bà nội và được thấy cháu Khiêm được bố và ông bà chăm sóc nuôi dưỡng
kể từ khi cháu K được hơn 1 tuổi đến nay. Chị H bỏ đi làm từ khi cháu Khiêm hơn
một tuổi, không thường xuyên về thăm và chăm sóc cháu Khiêm. Những lần anh Đạt
xuống nhà đều thấy bố mẹ anh T và anh T đưa đón cháu đi học và đi tiêm phòng chứ
không thấy chị Hoá về thăm cháu. Đợt bà Loan đi bệnh viện điều trị bệnh anh Đạt
cũng có nghe cuộc điện thoại bà Loan (mẹ anh T) gọi cho chị Hoá về đưa con đi. Chị
Hoá có trả lời: “ Con bận không về được, nếu con đưa cháu lên đây thì bố hoặc mẹ
(tức ông Đ1 hoặc bà L) phải lên ở với con để chăm cháu K”. Những lần anh Đ xuống
nhà chơi thì đều gặp anh T về chăm cháu Khiêm cả những ngày lễ, tết. Anh T cũng
hay gửi tiền cho anh Đạt và nhờ anh Đ mua quà cho cháu Khiêm những khi không về
được.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 15/8/2024 và tại phiên tòa người làm chứng là bà
Lê Thị K1 trình bày:
Bà Lê Thị K1 là hàng xóm gần nhà bố mẹ đẻ của anh Trần Văn T bố mẹ chồng
chị Nguyễn Thị H. Bà Khuyên thường xuyên đến nhà bố mẹ anh T, chị Hoá chơi. Vợ
chồng anh T chị H tổ chức đám cưới vào năm 2020, chị Hoá ở với bố mẹ chồng từ khi
4
cưới đến năm 2022 thì bỏ đi Thái Nguyên để làm ăn, để con cho bố mẹ anh T nuôi
cháu bé từ khi một tuổi cho đến nay. Hiện nay cháu Khiêm được bố và ông bà nội là
bố mẹ anh T trực tiếp nuôi dưỡng. Bố cháu Khiêm và ông bà nội chăm sóc cháu rất
chu đáo, cháu phát triển tốt về thể lực và trí lực, được bố và ông bà nội cho đi học ở
trường mầm non xã Vĩnh Hòa. Sau khi chị Hoá bỏ đi thì bà K1 không thấy chị H về,
nhưng thời gian gần đây bà K1 thấy chị Hoá về khoảng 2, 3 lần. Bà K1 được biết chị
H về là để giải quyết ly hôn với anh T.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh
Hoa:
- Về Tố tụng: Tòa án thụ lý vụ án đúng thẩm quyền, xác định đúng quan hệ
tranh chấp, xác định đúng tư cách đương sự, vụ án giải quyết đúng thời hạn quy định.
Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Thẩm phán và những người tiến
hành tố tụng đã tuân theo quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự. Những người tham
gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của pháp luật.
- Về nội dung vụ án:
+ Về hôn nhân: Đề nghị xử công nhận sự thuận tình ly hôn giữa anh Trần Văn
T và chị Nguyễn Thị H.
+ Về con chung: Giao con chung Trần Gia K - sinh ngày 07/01/2021 cho anh
Trần Văn T trực tiếp nuôi dưỡng. Chị Nguyễn Thị H không phải đóng góp tiền cấp
dưỡng nuôi con chung.
Chị Nguyễn Thị H có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai
được ngăn cấm, cản trở.
+ Về án phí: Anh T, chị H phải nộp tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo
quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa,
căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]Về tố tụng: Về quan hệ pháp luật tranh chấp, tư cách đương sự và thẩm quyền
giải quyết vụ án: Anh Trần Văn T có đơn khởi kiện về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi
con đối với chị Nguyễn Thị H có hộ khẩu thường trú tại xã Vĩnh Hòa, huyện Vĩnh
Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Căn cứ khoản 1 điều 28, điểm a khoản 1 điều 35, điểm a khoản 1
điều 39, điều 68 Bộ luật Tố tụng Dân sự xác định đây là vụ án: “ Ly hôn, tranh chấp về
nuôi con” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Lộc, tỉnh
Thanh Hóa.
[2] Về hôn nhân: Anh Trần Văn T và chị Nguyễn Thị H kết hôn trên cơ sở tự
nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Hòa, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh
Thanh H vào ngày 29/6/2020, là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống do tính
5
tình không hợp nên vợ chồng bất đồng quan điểm sống. Mâu thuẫn vợ chồng trầm
trọng nhất là từ cuối năm 2021. Vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 11/2022 đến nay.
Hai bên không còn quan T đến nhau nhữa. Anh Trần Văn T và chị Trần Thị H xét thấy
đến nay tình cảm vợ chồng không còn nữa, hôn nhân đã thực sự tan vỡ không thể hàn
gắn được nữa nên anh T, chị H đề nghị Tòa án công nhận sự thuận tình ly hôn.
Hội đồng xét xử xét thấy: Cuộc sống hôn nhân giữa anh Trần Văn T và chị
Nguyễn Thị H đã thực sự tan vỡ, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn
nhân không đạt được. Anh T, chị H đề nghị Tòa án công nhận sự thuận tình ly hôn vì
vậy căn cứ điều 55 Luật hôn nhân và gia đình công nhận sự thuận tình ly hôn giữa anh
Trần Văn T và chị Nguyễn Thị H là phù hợp.
[3] Về con chung: Anh Trần Văn T và chị Nguyễn Thị H thống nhất: Vợ chồng
có 01 con chung tên là Trần Gia K, sinh ngày 07/01/2021. Khi ly hôn anh Trần Văn T
và chị Nguyễn Thị H đều yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung.
Về cấp dưỡng nuôi con: Anh T không yêu cầu chị H đóng góp tiền cấp dưỡng
nuôi con chung. Chị H yêu cầu anh T phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung
cùng chị H mỗi tháng 2.000.000 đồng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.
Căn cứ vào biên bản xác minh UBND xã Vĩnh Hòa ngày 13/6/2024; Bản Ý
kiến của hiệu trưởng trường mầm non xã Vĩnh Hòa; Lời trình bày của người làm
chứng bà Trịnh Thị L, bà Lê Thị K1 và anh Trịnh Quốc Đ thấy rằng: Con chung của
anh T, chị H từ khi cháu bé được hơn 01 tuổi đã không ở cùng với anh T và chị H mà
ở cùng với ông bà nội (Bố mẹ của anh T). Trong thời gian cháu Khiêm ở với ông bà
nội thì anh T thường xuyên đi về thăm nom, chăm sóc, đưa tiền cho bố mẹ anh T chi
phí sinh hoạt và anh T trực tiếp đóng tiền học phí, tiền ăn ở trường mầm non cho cháu
Khiêm. Chị H không thường xuyên về thăm con và thỉnh thoảng mới gửi tiền về cho
bố mẹ anh T nuôi con. Con chung của anh T, chị H hiện nay đang đi học tại trường
mầm non xã Vĩnh Hòa, cháu bé phát triển tốt về thể chất và tinh thần.
Chị H cũng thừa nhận do bận công việc nên chị H không thường xuyên về thăm
con được nhưng chị H thường xuyên gửi tiền sinh hoạt và học hành về cho bố mẹ
chồng chi phí cho cháu K(Chị H sao kê các lần gửi tiền về cho bà Loan là mẹ chồng
chị H).
Xét thấy: Anh Trần Văn T và chị Nguyễn Thị H đều có nguyện vọng được trực
tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, đây là nguyện vọng hoàn toàn chính đáng của
các bên. Tuy nhiên, xét điều kiện, hoàn cảnh của anh T và chị H. Đồng thời nhằm đảm
bảo sự ổn định về cuộc sống sinh hoạt và phát triển về trí lực và thể lực cho con
chung, hạn chế sự xáo trộn môi trường sống và học tập của cháu Trần Gia Khiêm.
Thấy rằng: Hiện nay cháu Khiêm đang được anh T cùng bố mẹ anh T trực tiếp chăm
sóc, nuôi dưỡng. Chị H không trực tiếp nuôi con từ khi cháu Khiêm được hơn 01 tuổi
đến nay. Cháu khiêm phát triển tốt về thể chất và tinh thần. Cuộc sống sinh hoạt và
học tập của cháu Khiêm đang được ổn định. Hiện nay chị H chưa có nhà ở ổn định. Vì
6
vậy giao cháu Trần Gia K cho anh Trần Văn T được trực tiếp nuôi dưỡng là có căn cứ,
phù hợp với quy định tại điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.
- Về đóng góp cấp dưỡng nuôi con: Anh Trần Văn T không yêu cầu chị Nguyễn
Thị H đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung. Đây là sự tự nguyện của anh T, phù
hợp với quy định của pháp luật nên hội đồng xét xử không xem xét.
Chị H được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai
được ngăn cấm, cản trở theo quy định tại điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình.
[4] Về tài sản chung và công nợ chung:
Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Anh Trần Văn T và chị
Nguyễn Thị H thống nhất vợ, chồng không có tài sản gì chung và không có công nợ
chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về án phí: Anh T, chị H phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo
quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều
68; Khoản 4 Điều 147; điều 271, điều 273 Bộ luật tố tụng Dân sự. Điều 51, 55, 57,
58, 81, 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố
tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-
2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa anh Trần Văn T và chị
Nguyễn Thị H.
2. Về con chung:
2.1 Giao con chung Trần Gia K, sinh ngày 07/01/2021 cho anh Trần Văn T trực
tiếp nuôi dưỡng.
2.2. Chị Nguyễn Thị H không phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung.
2.3. Chị Nguyễn Thị H có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không
ai được ngăn cấm, cản trở.
3. Về án phí: Anh Trần Văn T, chị Nguyễn Thị H mỗi người phải chịu số tiền án
phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 75.000 đồng (Bảy mươi lăm nghìn đồng). Anh T
được trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), theo biên
lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0006109 ngày 31/5/2024 của Chi cục thi hành
7
án dân sự huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh H.(Anh T đã nộp đủ tiền án phí ly hôn sơ
thẩm).
Trả lại cho anh T số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 225.000 đồng (hai trăm hai
mươi lăm nghìn đồng).
Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ
ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND huyện Vĩnh Lộc;
- UBND xã Vĩnh Hòa;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Ngô Thị Tuyết
8
Tải về
Bản án số 17/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 17/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 27/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 27/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 14/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Bản án số 175/2024/HNGĐ-PT ngày 12/12/2024 của TAND TP. Hà Nội về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm