Bản án số 162/2025/HC-PT ngày 24/02/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 162/2025/HC-PT

Tên Bản án: Bản án số 162/2025/HC-PT ngày 24/02/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM
Quan hệ pháp luật:
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại TP.HCM
Số hiệu: 162/2025/HC-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 24/02/2025
Lĩnh vực: Hành chính
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Chấp nhận một phần kháng cáo của ông Trương Chí T; Sửa bản án hành chính sơ thẩm.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 162/2025/HC-PT
Ngày 24 tháng 02 năm 2025
V/v: “Khiếu kiện quyết định hành chính,
hành vi hành chính trong lĩnh vực quản
lý đất đai”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Trần Thị Hòa Hiệp
Các Thẩm phán: Ông Phạm Văn Công
Ông Ngô Mạnh Cường
- Thư phiên toà: Nguyễn Thị Châu Loan - Thư Toà án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên toà: Ông Phạm Công Minh - Kiểm sát viên cao cấp.
Ngày 18 và ngày 24 tháng 02 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao
tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai ván hành chính phúc
thẩm thụ số: 990/2024/TLPT-HC ngày 08 tháng 11 năm 2024 về “Khiếu kiện
quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”.
Do Bản án hành chính thẩm số: 438/2024/HC-ST ngày 13 tháng 9 năm
2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 47/2025/QĐ-PT ngày
03 tháng 02 năm 2025 giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Ông Trương Chí T, sinh năm 1964 (vắng mặt);
Địa chỉ: B Marshall St Apt B S, CA 91776 C, L, USA.
Địa chỉ liên lạc: Số A đường số A, khu phố F, phường B, quận B, Thành
phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện:
+ Ông Nguyễn Văn V, sinh năm 1967; Địa chỉ: Số A đường số A, khu phố
F, phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt);
2
+ Thị Ánh T1, sinh năm 1985; Địa chỉ: Số A T, Phường H, Quận D,
Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt lúc tuyên án);
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện:
+ Nguyễn Thị Kim V1 Luật của Công ty L, thuộc Đoàn Luật
Thành phố H (vắng mặt);
+ Ông Nguyễn Phan Hùng K là Luật sư của Công ty L, thuộc Đoàn Luật sư
Thành phố H (vắng mặt lúc tuyên án);
+ Ông Phạm Thiện Tấn P Luật của Công ty L, thuộc Đoàn Luật sư
Thành phố H (vắng mặt lúc tuyên án);
Cùng địa chỉ: Số D Đ, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Người b kin: y ban nhân dân quận B, Thành phố Hồ Chí Minh
Người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện: Ông Đặng Minh N Chức
vụ: Phó Ch tịch (theo Giấy ủy quyền số 08/GUQ-UBND ngày 14/01/2025)
(vắng mặt);
Địa chỉ: Số F P, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện:
+ Hồ Thị H, sinh năm 1981 - Phó Trưởng phòng Phòng Tài nguyên
Môi trường quận B (vắng mặt);
+ Ông Trần Vĩnh T2, sinh năm 1975 - Chuyên viên Phòng Tài nguyên
và Môi trường quận B (vắng mặt);
+ Ông Nguyễn Vĩnh T3, sinh năm 1975 - Chuyên viên Phòng Tài
nguyên và Môi trường quận B (vắng mặt lúc tuyên án).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Đ;
Người đại diện theo pháp luật: Ông Thanh H1 Chức vụ: Tổng giám
đốc (vắng mặt);
Địa chỉ: Số F N, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh;
2. Bà Hà Thị B, sinh năm 1953 (vắng mặt);
Địa chỉ thường trú: Số B L (nay là A T), Phường A, quận B, Thành phố Hồ
Chí Minh.
- Người kháng cáo: Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện
ông Nguyễn Văn V.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo Bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Theo đơn khởi kiện, đơn khởi kiện sửa đổi, bổ sung, bản tự khai tại
phiên tòa, đại diện người khởi kiện ông Nguyễn Văn V bà Thị Ánh T1
trình bày:
3
Phần đất diện tích 47m
2
gồm các ô 14m
2
+17m
2
trong khuôn viên nhà đất số
B đường Đ (nay thuộc đường T) và 16m
2
bên ngoài khuôn viên nhà được xác
định tại Bản đồ hiện trạng vị trí số 94877/ĐĐBĐ-VPTT ngày 02/7/2007 do
Trung tâm đo đạc bản đồ Sở Tài nguyên Môi trường Thành phố H lập, theo
nội dung Bản án hành chính thẩm số 1211/2019/HC-ST ngày 23/9/2019 của
Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh Bản án hành chính phúc thẩm số
505/2020/HC-PT ngày 09/9/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố
Hồ Chí Minh hiệu lực pháp luật đã xác định phần diện tích đất của ông T
nhưng Ủy ban nhân dân quận B đã lấy làm cống thoát nước cho tòa nhà chung
cư, tuy nhiên bản án chưa buộc Ủy ban nhân dân quận B phải thực hiện bồi
thường. Vì vậy, sau khi bản án phúc thẩm đã có hiệu lực pháp luật, Ủy ban nhân
dân Thành phố H cũng đã có văn bản chỉ đạo giải quyết bồi thường hỗ trợ nhưng
Ủy ban nhân dân quận B vẫn không thực hiện việc bồi thường. Ông T làm
đơn và đến ngày 28/10/2022, Ủy ban nhân dân quận B lại ra Văn bản số
3914/UBND-TNMT với nội dung thể hiện không giải quyết bồi thường/đền
47m
2
đất cho ông Trương Chí T, tiếp tục yêu cầu ông T khởi kiện Công ty
TNHH MTV Đ nếu có tranh chấp. Nhận thấy quyền và lợi ích bị xâm phạm, ông
T khởi kiện yêu cầu:
- Hủy Văn bản số 3914/UBND-TNMT ngày 28/10/2022 của Ủy ban nhân
dân quận B;
- Buộc y ban nhân dân quận B trách nhiệm bồi thường 47m
2
thuộc
quyền sở hữu và sử dụng hợp pháp của ông Trương Chí T tại số B đường Đ (nay
Văn D), Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định pháp
luật.
Người bị kiện Ủy ban nhân dân quận B tại Văn bản số 3033/UBND-TNMT
ngày 26/7/2024 trình bày:
Phần đất 47m
2
nêu trên một phần 31m
2
thuộc khuôn viên nhà, đất số A
T, Phường A (số cũ 02 Đ) do Hà Thị B sử dụng, hiện trạng sân trống, là phần
diện tích đất không được công nhận theo Giấy chứng nhận quyền sdụng đất,
quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số CS00295 do ST cấp
ngày 11/7/2022, không thuộc Dự án thực hiện đường kênh N - T. ng ty Đ đã
thi công đường cống thoát nước ra kênh N - T (thay thế mương thoát nước hở tự
nhiên) vào năm 1999, chưa bồi thường, hỗ trợ theo quy định đối với phần diện
tích 31m
2
có nguồn gốc do ông T sử dụng.
Căn cứ Bản đồ địa hình năm 1982, Bản vẽ hiện trạng do Phòng Xây dựng
quận B lập ngày 25 tháng 3 năm 1991, Bản đtỷ lệ 1/500 do Chi cục bản đồ
khảo sát thuộc Sở y dựng lập vào tháng 5 năm 1994 Bản đồ hiện trạng vị
trí số 94877/ĐĐBĐ-VPTT do Trung tâm Đ1 bản đồ lập ngày 02 tháng 7 năm
2007, thể hiện: Phần diện tích đất 47m² ông Trương Chí T yêu cầu bồi thường
nguồn gốc là rạch thoát nước tự nhiên, trong phần diện tích 47m² có
31m²/47m² thuộc khuôn viên nhà đất tại số B đường Đ, Phường A; phần diện
tích 16m²/47m² có hiện trạng rạch thoát nước không thuộc khuôn viên nhà số
B Đ, Phường A.
4
Từ các nội dung nêu trên, Ủy ban nhân dân quận B nhận thấy phần diện
tích 16m²/47m² có hiện trạng rạch thoát nước không thuộc khuôn viên nhà số
B Đ, Phường A; phần diện tích 31m
2
có nguồn gốc do ông T sử dụng, Công ty Đ
(nay là Công ty TNHH MTV Đ) đã sử dụng làm đường thoát nước cho chung cư
B Đ tnăm 1999 đến nay nhưng chưa thỏa thuận bồi thường, hỗ trợ cho ông T.
Ủy ban nhân dân quận B không chủ trương ban hành quyết định trưng dụng
hoặc thu hồi đất đối với phần diện tích trên để làm đường thoát nước công cộng.
Do đó, việc Ủy ban nhân dân quận B ban hành Văn bản số 3914/UBND-
TNMT ngày 28/10/2022 trả lời ông Trọng liên Q nội dung nêu trên đúng quy
định pháp luật. Ủy ban nhân dân quận B không trưng dụng hoặc thu hồi đối với
phần diện tích trên nên không nghĩa vụ thực hiện bồi thường. Đề nghị Hội
đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu của người khởi kiện.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Thị B tại biên bản lấy lời
khai ngày 02/8/2024 trình bày:
nhận chuyển nhượng toàn bộ nhà đất số A T, Phường A, quận B từ ông
Trương Chí T, mọi quyền lợi trong trường hợp Ủy ban nhân dân quận B bồi
thường đối với phần đất trong khuôn viên bà phải được hưởng.
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một
thành viên Đông Huỳnh Thanh P1 làm đại diện trình bày:
Công ty đã ý kiến thể hiện tại các Bản án trước đây, công ty được ủy
nhiệm thi công trong toàn thể dự án đường K - T chứ không phải là chủ đầu tư.
Tại Bản án hành chính thẩm số: 438/2024/HC-ST ngày 13 tháng 9 năm
2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:
Căn cứ các Điều 3, 30, 32, 116, 157, 158, 193 206 Luật Tố tụng hành
chính năm 2015;
Căn cứ Điều 66, 69 và 82 Luật Đất đai năm 2013;
Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý
và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Trương Chí T về việc:
- Yêu cầu hủy Văn bản s3914/UBND-TNMT ngày 28/10/2022 của Ủy
ban nhân dân quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Buộc Ủy ban nhân dân quận B thực hiện hành vi: Lập phương án bồi
thường, hỗ trợ cho ông Trương Chí T đối với diện tích 47m
2
thuộc tờ bản đsố
22 Bộ địa chính Phường A, quận B theo bản đồ hiện trạng vị trí số Hợp đồng
94877/ĐĐBĐ-VPTT ngày 02/7/2007 của Trung tâm đo đạc bản đồ Sở Tài
nguyên và Môi trường Thành phố H lập.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và thông báo quyền
kháng cáo theo quy định pháp luật.
5
Ngày 18/9/2024, người đại diện theo y quyền của người khởi kiện ông
Nguyễn Văn V kháng cáo sửa bản án thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của ông Trương Chí T.
Tại phiên tòa phúc thẩm,
Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện là ông Nguyễn Văn V, bà
Thị Ánh T1 người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện
ông Nguyễn Phan Hùng K, ông Phạm Thiện Tấn P thống nhất trình bày:
Nguồn gốc của nhà đất toạ lạc tại số B đường Đ (nay số A đường T),
Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh là do ông Trương Chí T nhận
chuyển nhượng từ ông Hồ Chí T4 theo Văn tự mua bán nhà ngày 03/12/1991 và
Tờ cam kết ngày 07/01/1992. Trong đó phần diện tích 47m
2
đã được Ủy ban
nhân dân quận B thu hồi để làm cống thoát nước. Theo đó, chỉ 31m
2
/47m
2
được UBND quận B xác nhận thuộc khuôn viên nhà đất tại số B Đ; còn 16m
2
còn lại được xác nhận là nằm ngoài khuôn viên, có hiện trạng là rạch thoát nước,
không thuộc khuôn viên nhà đất nêu trên nên Ủy ban nhân dân quận B cho rằng
phần diện tích đất 47m
2
này của ông T không đủ điều kiện để được bồi thường,
hỗ trợ. Do đó, xuyên suốt khoảng thời gian từ năm 2000 đến nay, ông T đã liên
tục gửi đơn khiếu nại đến Ủy ban nhân dân quận B Ủy ban nhân dân Thành
phố H về vấn đề này.
Đối với phần diện tích 31m
2
nằm trong khuôn viên nhà đất nêu trên, ông T
không chuyển nhượng cho bà Hà Thị B, bà B cũng có Tờ cam kết ngày
12/08/2024 xác nhận phần diện tích nêu trên Ủy ban nhân dân quận B làm
cống thoát nước thuộc quyền sử dụng của ông T cam kết nếu bà nhận được
tiền bồi thường thì sẽ giao trả toàn bộ cho ông T. Ngày 04/12/2008, Ủy ban nhân
dân Thành phố H ban hành Quyết định số 5256/QĐ-UBND về việc giải quyết
tranh chấp đất tại Phường A giữa ông Trương Chí T, Công ty TNHH T6 và
Công ty Đ, theo đó Ủy ban nhân dân đã xác nhận ông T chỉ được bồi thường đối
với phần diện tích 31m
2
. Nhưng thời điểm đó ông T không biết rõ phần diện tích
đất này bao nhiêu trên bản vẽ không thhiện vị trí số liệu cụ thể. Trong
quá trình giải quyết vụ án, Sở Tài nguyên Môi trường Thành phố H đã cung
cấp cho Toà án cấp thẩm Bản v hiện trạng số 94877/DDBD-VPTT ngày
02/7/2007. Bản vẽ này đã thể hiện phần diện tích 31m
2
làm cống thoát nước
thuộc khuôn viên nhà đất của ông T, tuy nhiên Toà án cấp thẩm lại căn cứ
theo Bản đồ địa hình năm 1982, Bản đồ khảo sát thuộc Sở Xây dựng lập năm
1994 thể hiện vị trí phần diện tích 47m
2
không số thửa trên bản đồ không
căn cứ. Hai bản đồ nêu trên chỉ bản photo, không được công chứng/chứng
thực nên không đủ sở để đáp ứng điều kiện về hình thức của tài liệu, chứng
cứ.
Đối với phần diện tích 16m
2
nằm cùng thửa đất ông T được cấp giấy,
căn cứ Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số
12383/2001 thể hiện phần diện tích nêu trên là phần không công nhận thuộc
thửa đất s43-1 của giấy chứng nhận này. Bản vẽ hiện trạng số 94877/DDBD-
VPTT cũng thể hiện phần diện tích 16m
2
có hiện trạng là cống thoát nước.
6
Ủy ban nhân dân quận B cho rằng trách nhiệm bồi thường thuộc về Công ty
Đ nhưng tại Bản án hành chính phúc thẩm số 505/2020/HC-PT ngày 09/9/2020
của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã xác định trong
trường hợp Công ty Đ sử dụng phần diện tích nêu trên làm cống thoát nước theo
chtrương của Nnước thì Ủy ban nhân dân quận B phải trách nhiệm bồi
thường
Việc Ủy ban nhân dân quận B không hỏi ý kiến hay làm việc với ông T mà
đã trưng dụng phần diện tích đất của ông vi phạm nghiêm trọng thủ tục hành
chính, làm ảnh hưởng quyền lợi ích hợp pháp của ông. Do đó, đề nghị Hội
đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của ông T, sửa bản án sơ thẩm.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người bị kiện ông Nguyễn
Hà Vĩnh T3 trình bày:
Các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án đã thể hiện phần diện tích đất bị
thu hồi cống thoát nước từ trước đến nay nên ông Trương Chí T không được
xác định là chủ sử dụng. Ủy ban nhân n quận B không trưng dụng phần diện
tích đất của ông T nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của
ông T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ
Chí Minh tham gia phiên toà:
Về tố tụng: Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Luật Tố
tụng hành chính vphiên tòa phúc thẩm. Những người tham gia tố tụng đã thực
hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định.
Về nội dung: Xét kháng cáo của ông Trương Chí T, căn cứ vào các tài liệu
trong hồ vụ án diễn biến tại phiên toà phúc thẩm, Giấy chứng nhận
quyền shữu nquyền sử dụng đất số 12383/2001 ngày 26/3/2001 của
Ủy ban nhân dân Thành phố H cấp cho ông T không thể hiện phần diện tích đất
47m
2
bị thu hồi nằm trong khuôn viên n đất của ông. Tờ cam kết ngày
07/01/1992, Bản đđịa hình năm 1982 Bản đkhảo sát thuộc Sở Xây dựng
lập năm 1994 cũng không thể hiện nội dung nêu trên. Ủy ban nhân dân quận B
cũng xác nhận trong các văn bản rằng không trưng dụng phần diện tích đất này
của ông T. Xuyên suốt khoảng thời gian từ những năm 1990 đến nay, Ủy ban
nhân dân quận B đều xác nhận đây là phần diện tích đất ranh. Từ những tài liệu,
chứng cứ trong hồ vụ án nêu trên, sở xác định phần diện tích đất bị
thu hồi làm cống thoát nước không thuộc quyền sử dụng của ông T, tại phiên tòa
phúc thẩm, người khởi kiện cũng không cung cấp được các tài liệu, chứng cứ
mới. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông
Trương Chí T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Hội đồng xét xử căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên
tòa, kết quả tranh tụng công khai tại phiên tòa, đủ sở để kết luận: Toàn bộ
diễn biến vụ án như phần tóm tắt nội dung đã được viện dẫn trên. Xét kháng
7
cáo của ông Trương Chí T, trên sở xem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu,
chứng cứ, ý kiến của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên như sau:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Tại phiên toà phúc thẩm, người bị kiện là Ủy ban nhân dân quận B,
người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Công ty TNHH Một thành viên Đ
đơn xin xét xử vắng mặt; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là bà Thị
B đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt. Căn cứ vào khoản 2, khoản 4
Điều 225 Luật Tố tụng hành chính, Tòa án tiến hành phiên tòa phúc thẩm xét xử
vắng mặt người tham gia tố tụng trên.
[1.2] Về đối tượng khởi kiện, thời hiệu khởi kiện và thẩm quyền giải quyết:
Ngày 09/01/2023, ông Trương Chí T khởi kiện yêu cầu hủy Văn bản số
3914/UBND-TNMT ngày 28/10/2022 của Ủy ban nhân dân quận B, Thành phố
Hồ Chí Minh về việc không bồi thường, hỗ trợ, đồng thời yêu cầu thực hiện việc
bồi thường, hỗ trợ đối với phần đất 47m
2
bị thu hồi. Xét yêu cầu khởi kiện của
ông T là yêu cầu hủy quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai, thuộc
đối tượng khởi kiện của vụ án hành chính, còn trong thời hiệu khởi kiện
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh theo
quy định tại khoản 1 Điều 30, khoản 4 Điều 32 điểm a khoản 2 Điều 116
Luật Tố tụng hành chính năm 2015.
[2] Về nội dung: Xét tính hợp pháp của Văn bản số 3914/UBND-
TNMT ngày 28/10/2022 của Ủy ban nhân dân quận B
[2.1] Về trình tự, thủ tục, thẩm quyền ban hành
Ông Trương Chí T kiến nghị, yêu cầu được bồi thường, hỗ trợ đối với phần
đất diện tích 47m
2
gồm các ô 14m
2
+17m
2
trong khuôn viên nhà đất số B đường
Đ (nay số A đường T) 16m
2
bên ngoài khuôn viên nhà được xác định tại
Bản đồ hiện trạng vị trí số 94877/ĐĐBĐ-VPTT ngày 02/7/2007 do Trung tâm
Đo đạc bản đồ Sở Tài nguyên Môi trường Thành phố H lập. Ngày
28/10/2022, Ủy ban nhân dân quận B, Thành phố Hồ Chí Minh ban hành Văn
bản số 3914/UBND-TNMT trả lời kiến nghị của ông Trương Chí T là đúng trình
tự, thủ tục, thẩm quyền theo quy định tại Điều 66, Điều 69 Luật Đất đai năm
2013.
[2.2] Về nội dung
[2.2.1] Xét nguồn gốc, quá trình quản lý và sử dụng phần đất 47m
2
ông
T yêu cầu được bồi thường
Nhà đất số 176 đường T (trước đây là nhà số B đường Đ), Phường A, quận
B nguồn gốc thuộc một phần các lô: từ số 1 đến S, 17a, 17b 17c, tờ
bản đồ số 13, Bằng khoán số 1425, B do Làng B đứng bộ. Năm 1966, ông
Trương C thành lập cơ sở Q1 tại số B đường Đ với chức năng xẻ gỗ để bán sỉ, lẻ
và mua bán phụ tùng sửa chữa đồ nghề cưa xẻ. Sau năm 1975, xưởng cưa Quảng
Sanh Tường chuyển sang loại hình công hợp doanh giữa ông Trương C với
8
Ty Lâm nghiệp Thành phố theo Quyết định số 3547/QĐ-UB ngày 04/11/1978
của Ủy ban nhân dân Thành phố H.
Ngày 04/6/1980, Ủy ban nhân dân Thành phố H ban hành Quyết định số
219/QĐ-UB về việc tạm quản toàn bộ tài sản của ông Trương C (đã trốn ra
nước ngoài). nghiệp chế biến gỗ Thắng Lợi (trực thuộc Liên hiệp nghiệp
khai thác chế biến lâm sản Thành phố) tiếp quản Xưởng cưa Quảng Sanh T sau
đó chuyển nhượng nhà xưởng nêu trên lại cho ông Hồ Chí T4 theo Giấy phép
mua bán, chuyển dịch nhà số 2567/GP-MB7 ngày 01/6/1991 của Sở Nhà đất với
diện tích 2.300m
2
.
Tại Văn tự mua bán nhà ngày 03/12/1991, ông Hồ CT4 tiếp tục chuyển
nhượng lại cho ông Trương Chí T nhà đất nêu trên với diện tích đất sử dụng
3.200m
2
xác nhận của Ủy ban nhân dân Phường A1, quận B (BL275). Sở
diện tích đất tăng lên so với diện tích đất ông T4 nhận chuyển nhượng trước
đó từ nghiệp C2, do ông T4 sử dụng thêm một phần diện tích đất nằm
trong quy hoạch kênh rạch Cầu B. Do đó, sau khi nhận chuyển nhượng từ ông
T4, ngày 07/01/1992, ông Trương Chí T phải lập Tờ cam kết sử dụng phần đất
nêu trên đến khi quy hoạch chung kênh rạch Cầu Bông thì ông sẽ chấp hành
theo quy hoạch chung của Nhà nước (BL274). Do thêm phần diện tích đất
này nên ngày 29/01/1992, Sở Nhà đất Thành phố cấp Giấy phép công nhận
quyền sở hữu nhà số 26/GP-CS cho ông Trương Chí T, trong đó không ghi nhận
diện tích đất sử dụng nhưng ghi chú: “Vị trí không ổn định, sát rạch Cầu
Bông cần cải tạo; Khi quy hoạch chung phải tháo dỡ điều kiện từ mép
rạch hiện hữu vào 20m” (BL276). Ngày 10/7/1992, ông Trương Chí T chỉ nộp
lệ phí trước bạ với diện tích 2.125m² đất đóng thuế nhà đất với diện tích
2.508m
2
(không bao gồm phần diện tích đất phía ngoài thuộc quy hoạch rạch).
Ngày 23/9/1999, ông T Tờ đăng ký nhà - đất với diện tích 3.200m
2
(bao gồm
cả phần diện tích đất phía ngoài thuộc quy hoạch rạch) xác nhận của Ủy ban
nhân dân Phường A1, quận B (BL272).
Ông Trương Chí T sử dụng nhà đất đến năm 1999 thì một phần nhà đất của
ông T thuộc ranh giải tỏa kênh N - T nên Ủy ban nhân dân quận B đã ban hành
Quyết định số 2324/QĐ-UB ngày 15/10/1999 buộc ông T tháo dỡ toàn bộ cấu
trúc nhà theo vạch mốc quy định với diện tích khuôn viên là 1.032,41m
2
, diện
tích sàn xây dựng 80m
2
để giao mặt bằng thi công xây dựng công trình hạ
tầng kỹ thuật kênh N - T. Sau đó, ông T khởi kiện tại Tòa án vì Ủy ban nhân dân
quận B giải quyết không thỏa đáng việc đền bù, hỗ trợ đối với diện tích đất này.
Trên sở Bản án phúc thẩm số 55/2003/HCPT ngày 07/8/2003 của Tòa án
nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Ủy ban nhân dân Thành phố H đã Công
văn số 3265/UB-PC ngày 02/6/2005 chấp thuận bồi thường cho ông Trương Chí
T với tổng số tiền 3.159.646.000 đồng. Ông Nguyễn Văn V (đại diện y quyền
của ông Trương Chí T) đã nhận tiền bồi thường vào ngày 22/7/2005.
Ngày 26/3/2001, Ủy ban nhân dân Thành phố H cấp Giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 4283/2001 cho ông Trương Chí T
đối với nhà đất tại số B đường Đ, Phường A, quận B, diện tích đất công nhận là:
9
1.410m². Ngày 08/02/2002, ông Trương Chí T lập Hợp đồng số 05970/HĐ-
MBN chuyển nhượng diện tích 1.410m² đất đã được cấp giấy chứng nhận nêu
trên cho bà Hà Thị B.
Năm 2008, ông Trương Chí T đơn tranh chấp với ng ty TNHH T6
Công ty Đ đối với diện tích đất khoảng 700m² nằm ngoài diện tích đã được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên (trong đó diện tích 47m² đất ông
T đang kiến nghị bồi thường trong vụ án này).
Ngày 04/12/2008, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố H ban hành Quyết
định số 5256/QĐ-UBND về việc giải quyết tranh chấp đất tại Phường A giữa
ông Trương Chí T, Công ty TNHH T6 và Công ty Đ, với nội dung:
- Bác nội dung đơn của ông Trương Chí T tranh chấp quyền sử dụng
phần đất diện tích 700m² với Công ty TNHH T6 và Công ty Đ.
- Giao Ủy ban nhân dân quận B chủ trì phối hợp với Sở T7 lập thủ tục bồi
thường cho ông Trương Chí T đối với phần diện tích 31m² thuộc một phần các
thửa 39, 43, tờ bản đsố 22 bộ địa chính Phường A, quận B (tài liệu năm
2002) theo quy định pháp luật (vị trí, ranh giới khu đất xác định theo Bản đồ
hiện trạng vị trí số 94877/ĐĐBĐ-VPTT ngày 02 tháng 7 năm 2007 của Trung
tâm đo đạc bản đồ).
- Giao Ủy ban nhân dân quận B thực hiện thu hồi đất thu hồi Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Nguyễn Anh C1 (công nhân của
Công ty Trách nhiệm hữu hạn T6) Hoàng Thị A (vợ ông C1) theo quy
định.”
Không đồng ý với quyết định nêu trên, ông Trương Chí T tiếp tục đơn
gửi đến B T8. Ngày 22/4/2014, Bộ trưởng Bộ T8 ban hành Quyết định số
704/QĐ-BTNMT công nhận quyết định của Ủy ban nhân dân Thành phố
đúng quy định pháp luật.
Không đồng ý, ông T khởi kiện tại Tòa án. Tại Bản án hành chính phúc
thẩm số 505/2020/HC-PT ngày 09/9/2020, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh đã hủy Quyết định số 5256/QĐ-UBND ngày 04/12/2008 của
Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố H Quyết định số 704/QĐ-BTNMT
ngày 22/4/2014 của Bộ trưởng Bộ T8 do giải quyết tranh chấp đất sai thẩm
quyền.
Sau khi các quyết định giải quyết tranh chấp đất đai đối với diện tích 700m
2
bị hủy do giải quyết tranh chấp sai thẩm quyền, thì ông T tiếp tục khiếu nại đến
Ủy ban nhân dân quận B yêu cầu được bồi thường đối với phần diện tích 47m
2
đất gồm các ô 14m
2
+17m
2
trong khuôn viên nhà đất số B đường Đ (nay số A
đường T) 16m
2
bên ngoài khuôn viên nhà được xác định tại Bản đồ hiện
trạng vị trí số 94877/ĐĐ-VPTT ngày 02/7/2007 do Trung tâm đo đạc bản đồ
Sở Tài Nguyên và Môi trường Thành phố H lập Ủy ban nhân dân quận B đã
lấy để làm cống thoát nước công cộng từ năm 1999 nhưng chưa bồi thường.
10
Xét thấy, tại Quyết định số 5256/QĐ-UBND ngày 04/12/2008 của Chủ tịch
Ủy ban nhân dân Thành phố H, Quyết định số 704/QĐ-BTNMT ngày 22/4/2014
của Bộ trưởng Bộ T8 (mặc dù đã bị hủy do ban hành sai thẩm quyền); đồng thời,
tại chính Văn bản số 3914/UBND-TNMT ngày 28/10/2022 của Ủy ban nhân
dân quận B (đối tượng khởi kiện của vụ án) Văn bản số 3033/UBND-TNMT
ngày 26/7/2024 trình bày ý kiến của Ủy ban nhân dân quận B đều khẳng định
sau khi tiến hành xác minh hồ lưu trữ khu đất thì: Theo Bản đồ hiện trạng vị
trí số 94877/ĐĐ-VPTT ngày 02/7/2007 do Trung tâm đo đạc bản đồ Sở Tài
Nguyên và Môi trường Thành phố H lập lồng ghép với Bản vẽ hiện trạng
hiệu KT1 ngày 25/3/1991 của Phòng Xây dựng quận B, thể hiện phần đất 47m
2
ông T khiếu nại một phần 31m
2
/47m
2
thuộc khuôn viên nhà, đất sA đường
T, Phường A (số 02 đường Đ) nguồn gốc do ông T sdụng, Công ty Đ
(nay là Công ty TNHH MTV Đ) đã sử dụng làm đường thoát nước cho chung
B Đ tnăm 1999 đến nay nhưng chưa thỏa thuận bồi thường, hỗ trợ cho ông T.
Do đó, việc ông T cho rằng Công ty Đ lắp đặt cống thoát nước bên dưới phần
đất làm ảnh hưởng đến quyền lợi của ông là có cơ sở.
Tòa án cấp thẩm dựa vào các tài liệu, chứng cứ sau để khẳng định phần
đất ông T khiếu kiện là rạch tự nhiên là không chính xác: (1) Tài liệu Bản đồ địa
hình năm 1982 thể hiện phần vị trí diện tích 47m
2
này không có số thửa trên bản
đồ (không chứng minh được phần đất này rạch tự nhiên); (2) Bản đồ hiện
trạng tỷ lệ 1/500 do Chi cục Bản đồ khảo sát thuộc Sở Xây dựng lập tháng
5/1994 thể hiện vị trí phần đất 47m
2
thuộc Rạch (được lập sau thời điểm ông T
nhận chuyển nhượng đất từ ông T4 sau thời điểm Phòng Xây dựng quận B
lập Bản vẽ hiện trạng ký hiệu KT1 ngày 25/3/1991 nên không đủ cơ sở phủ nhận
giá trị pháp của Bản vẽ hiện trạng hiệu KT1 thể hiện đất nằm trong khuôn
viên nhà số B Đ); (3) Bản vhiện trạng vị trí số hợp đồng 94877/ĐĐBĐ-VPTT
ngày 02/7/2007 của Trung tâm đo đạc bản đồ Sở T thể hiện phần đất này hiện
trạng cống thoát nước của chung cư; (4) Bản vẽ xây dựng lập ngày
15/01/1999 (5) Bản vẽ hồ hoàn công công trình xây dựng các công trình
kỹ thuật hạ tầng dọc kênh Nhiêu Lộc Thị Nghè lập ngày 01/7/2000 (đoạn Cầu
Bông đến cầu Đ) đều thể hiện hiện trạng phần đất 47m
2
này thuộc bờ kênh, rạch,
ao hiện hữu... Tuy nhiên, tất cả các tài liệu, chứng cứ này đều được lập sau khi
Công ty Đ thi công cống thoát nước cho chung B Đ, sau thời điểm ông T
nhận chuyển nhượng, quản lý, sử dụng đất hiện trạng đất hiện nay vẫn nằm
trong khuôn viên nhà số B đường Đ (nay là số A đường T). (6) Tờ cam kết của
ông T lập ngày 07/01/1992 thể hiện phần đất ông T mua của ông T4 một
phần nằm trên kênh rạch Cầu B khi quy hoạch ông T sẽ chấp hành theo
quy định chung của Nhà nước. Tuy nhiên, phần đất nằm trong quy hoạch kênh
rạch Cầu Bông này vị trí lộ giới phía ngoài mặt tiền khu đất diện tích
1.032,41m
2
đã bị thu hồi năm 1999 được bồi thường vào năm 2005, không
liên quan đến phần phía trong của khu đất.
Từ những tài liệu, chứng cứ nêu trên căn cứ xác định 31m
2
/47m
2
đất
ông Trương Chí T kiến nghị bồi thường, hỗ trợ khi bị thu hồi để lắp đặt cống
thoát nước từ chung cư B đường Đ ra đường T, Phường A, quận B có nguồn gốc
11
nằm trong khuôn viên nhà, đất do ông T quản lý, sử dụng từ năm 1991 đến năm
2002 thì chuyển nhượng lại cho bà Hà Thị B.
[2.2.2] Về chủ thể bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất
Tại chính Văn bản số 3914/UBND-TNMT ngày 28/10/2022 (đối tượng
khởi kiện của vụ án), y ban nhân dân quận B xác định “trong phần 47m
2
31m
2
/47m
2
thuộc khuôn viên nhà đất tại số B đường Đ, Phường A, quận B;
nhưng cho rằng: “theo hồ sơ lưu trữ tại quận: không hồ pháp lý liên quan
đến việc thi công đường cống thoát nước trên (cụ thể: chủ trương, chính sách,
phương án thi công thực hiện…)”. Do đó, Ủy ban trả lời ông T: “Trường hợp
ông đề nghị bồi thường, hỗ trợ đối với phần diện tích đất do Công ty Đ (nay là
Công ty TNHH MTV Đ) thi công đường cống thoát nước của chung B Đ, đề
nghị ông liên hệ Công ty TNHH MTV Đ để được xem xét, giải quyết”. Như vậy,
Ủy ban nhân dân quận B thừa nhận nguồn gốc 31m
2
/47m
2
đất nằm trong khuôn
viên nhà, đất do ông T sử dụng nhưng cho rằng trách nhiệm bồi thường, htrợ
thuộc về Công ty TNHH MTV Đ (đơn vị thi công đường cống thoát nước).
Tuy nhiên, theo Văn bản số 22/ĐOBT ngày 14/01/2025 của Công ty
TNHH MTV Đ gửi Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh thể
hiện: Căn cứ Công văn số 483/CV-99 ngày 28/4/1999 của Ủy ban nhân dân
quận B ủy nhiệm cho Công ty Quản lý và Phát triển nhà quận Đ (nay Công ty
TNHH MTV Đ) tiếp nhận vốn, tổ chức đấu thầu, thi công, giám sát nghiệm thu,
thanh quyết toán công trình: đường, vỉa hè, bờ kè, cống thoát nước (đoạn từ cầu
B đến cầu Đ, quận B); Dự án xây dựng công trình hạ tầng kỹ thuật kênh N - T
được triển khai xây dựng vào năm 1999 do Ban Q2 thuộc Ủy ban nhân dân quận
B làm chủ đầu và Công ty TNHH MTV Đ chỉ tổ chức thực hiện xây dựng
theo chỉ đạo.
Như vậy, chthể thu hồi, bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất trong trường
hợp này là Nhà nước do Ủy ban nhân dân quận B đại diện. Ủy ban nhân dân
quận B thu hồi đất nguồn gốc của nhân (ông Trương Trí T5) sử dụng từ
trước năm 1991, để thực hiện công trình lợi ích công cộng nhưng không bồi
thường, hỗ trợ cho ông T5 là không phù hợp với quy định của pháp luật.
Từ những căn cứ trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét chấp nhận một
phần yêu cầu kháng cáo của ông Trương Chí T đối với phần diện tích
31m
2
/47m
2
đất ông T kiến nghị bồi thường, buộc Ủy ban nhân dân quận B,
Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo đúng quy định của
pháp luật trong việc lập thủ tục bồi thường, hỗ trợ cho ông Trương Chí T đối với
diện tích 31/47m
2
phần nằm trong khuôn viên nhà đất số B đường Đ (nay số
A đường T) thuộc tờ bản đồ số 22 Bộ địa chính Phường A, quận B, Thành phố
Hồ Chí Minh theo Bản đồ hiện trạng vị trí số hợp đồng số 94877/ĐĐBĐ-VPTT
ngày 02/7/2007 của Trung tâm đo đạc bản đồ Sở Tài nguyên Môi trường
Thành phố H lập. Sửa bản án hành chính sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của ông Trương Chí T, hủy Văn bản số 3914/UBND-TNMT ngày
28/10/2022 của Ủy ban nhân dân quận B, Thành phố Hồ Chí Minh về việc trả
lời kiến nghị của ông T.
12
[3] Về án phí:
- Ủy ban nhân dân quận B, Thành phố Hồ Chí Minh phải chịu 300.000
đồng tiền án phí hành chính sơ thẩm.
- Người khởi kiện ông Trương Chí T không phải chịu án phí hành chính
thẩm và án phí hành chính phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính năm 2015;
Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý
và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận một phần kháng cáo của ông Trương Chí T; Sửa bản án hành
chính sơ thẩm.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trương Chí T;
- Hủy Văn bản số 3914/UBND-TNMT ngày 28/10/2022 của y ban nhân
dân quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Buộc Ủy ban nhân dân quận B, Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện nhiệm
vụ, công vụ trong việc lập thủ tục bồi thường, hỗ trợ cho ông Trương Chí T theo
quy định của pháp luật phù hợp với nhận định của bản án liên quan đến yêu
cầu của người khởi kiện.
2. Về án phí:
- Ủy ban nhân dân quận B, Thành phố Hồ Chí Minh phải chịu 300.000
đồng tiền án phí hành chính sơ thẩm.
- Người khởi kiện ông Trương Chí T không phải chịu án phí hành chính
thẩm án phí hành chính phúc thẩm. H2 lại cho ông Trương Chí T 300.000
(Ba trăm ngàn) đồng tiền tạm ứng án phí hành chính thẩm theo Biên lai thu
tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004005 ngày 09/5/2024 của Cục Thi hành án
dân sự Thành phố Hồ Chí Minh 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng tiền tạm ứng
án phí hành chính phúc thẩm theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án s
0041410 ngày 02/10/2024 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Các quyết định khác của bản án hành chính sơ thẩm không có kháng cáo,
kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSNDCC tại TP. Hồ Chí Minh;
- TAND TP. Hồ Chí Minh;
- VKSND TP. Hồ Chí Minh;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
13
- Cục THADS TP. Hồ Chí Minh;
- Đương sự;
- Lưu HSVA (NTCL)(25).
Trần Thị Hòa Hiệp
Tải về
Bản án số 162/2025/HC-PT Bản án số 162/2025/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 162/2025/HC-PT Bản án số 162/2025/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất