Bản án số 15/2025/DSPT ngày 20/05/2025 của TAND tỉnh Quảng Ngãi về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 15/2025/DSPT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 15/2025/DSPT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 15/2025/DSPT
Tên Bản án: | Bản án số 15/2025/DSPT ngày 20/05/2025 của TAND tỉnh Quảng Ngãi về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Quảng Ngãi |
Số hiệu: | 15/2025/DSPT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 20/05/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG NGÃI
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 15/2025/DS-PT
Ngày: 20–5–2025
V/v tranh chấp quyền sử dụng đất,
yêu cầu tuyên bố hợp đồng tặng
cho quyền sử dụng đất vô hiệu.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Đức Dũng.
Các Thẩm phán: Bà Bùi Thị Hồng Ánh
Bà Hoàng Thị Mai Hạnh.
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Quảng Ninh – Thư ký Tòa án, Tòa án nhân
dân tỉnh Quảng Ngãi.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi tham gia phiên tòa:
Bà Bùi Thị Thanh Hiền - Kiểm sát viên.
Ngày 20/5/2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi mở phiên tòa
xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 04/2025/TLPT-DS ngày 13/01/2025,
về việc: “Tranh chấp hợp đồng tặng cho, chuyển nhượng quyền sử dụng đất và
tranh chấp về thừa kế tài sản”
Do bản án Dân sự sơ thẩm số 91/2024/DS-ST ngày 27/9/2024 của Tòa án nhân
dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 35/2025/QĐ-PT ngày
13/3/2025; Thông báo số 123/TB-TA ngày 24/3/2025m Quyết định hoãn phiên
toà số 52/2025/QĐ-PT ngày 24/4/2025 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi,
giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1962, nơi đăng ký thường trú:
Thôn G, xã H, huyện D, tỉnh Lâm Đồng; địa chỉ liên hệ: A P, phường L, thành
phố Q, tỉnh Quảng Ngãi
Bị đơn: Ông Nguyễn Văn T1 (tên gọi khác: Nguyễn T1), sinh năm 1959,
nơi đăng ký thường trú: Đội 3, thôn L, xã T, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi, nơi
cư trú: Số nhà A, thôn G, xã H, huyện D, tỉnh Lâm Đồng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
2
1. Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1948;
2. Bà Nguyễn Thị T2, sinh năm 1949;
3. Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1949.
Cùng cư trú tại: Đ, thôn L, xã T, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.
Người đại diện theo uỷ quyền của bà Nguyễn Thị T, bà Nguyễn Thị H,
Nguyễn Thị T2 và Nguyễn Thị L: Bà Trần Thị H1, sinh năm 1989, địa chỉ: A P,
phường L, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.
4. Bà Trương Thị M, sinh năm 1982;
5. Ông Huỳnh Ngọc Q, sinh năm 1975.
Cùng cư trú tại: Thôn L, xã T, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.
6. Bà Trần Thị T3, sinh năm 1964, cư trú tại: Số nhà A, thôn G, xã H,
huyện D, tỉnh Lâm Đồng.
7. Văn phòng C.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Xuân T4, chức vụ: Trưởng Văn
phòng
Địa chỉ: C N, phường N, thành phố Q
8. Văn phòng C1.
Người đại diện theo pháp luật: Bà Lê Thị Thanh T5, chức vụ: Trưởng
Văn phòng
Địa chỉ: B P, phường N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi
Người kháng cáo: Ông Nguyễn Văn T1 là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, đơn khởi kiện sung đề ngày 25/5/2022, 18/11/2022;
các lời trình bày trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa người đại diện
theo ủy quyền của nguyên đơn là bà Trần Thị H1 trình bày:
Về quan hệ huyết thống: Cụ Nguyễn X (chết năm 2021) và cụ Nguyễn
Thị N (chết 2012) có 05 người con gồm: Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị T2,
Nguyễn Thị L, Nguyễn T1 (tên hiện nay là Nguyễn Văn T1), Nguyễn Thị T.
Ngoài những người con này, hai cụ không có con nuôi, con riêng nào khác.
Về di sản thừa kế: Sinh thời hai cụ được ông bà lưu hạ thửa đất số 856, tờ
bản đồ số 5, diện tích 755 m
2
, tại xã T, huyện S (nay là thành phố Q), tỉnh
Quảng Ngãi (sau đây viết tắt là thửa 856) được Ủy ban nhân dân huyện S cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số K435414, số vào sổ 01685 QSDĐ/174
QĐ-UB vào ngày 23/5/1997 cho cụ Nguyễn Xí . Thửa đất này cụ X và cụ N
quản lý, sử dụng xây dựng nhà ở và chung sống cùng các con từ trước năm
1975.
3
Đến năm 2012, cụ Nguyễn Thị N chết, không để lại di chúc và cũng
không để lại nghĩa vụ nào về tài sản.
Năm 2020, các bà T, L, T2 và H nghe ông T1 nói cha mẹ đã tặng cho ông
T1 thửa 856 nên quyền sử dụng hợp pháp thửa đất thuộc về vợ chồng ông T1
nên bà T làm đơn gửi Ủy ban nhân dân xã T hòa giải nhưng kết quả không
thành.
Qua buổi hòa giải nguyên đơn được biết thửa 856 cụ Nguyễn Xí T6 cho
ông T1 vào năm 2015 theo Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất do Văn phòng
C1 chứng thực số 4183, quyển số 13 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 16/9/2015, thời
điểm này cụ Nguyễn X đã 99 tuổi. Sau đó, ông T1 đã thực hiện thủ tục đăng ký
biến động chủ sử dụng đất, tách thửa đất số 856 thành 02 thửa đất: Thửa đất số
604, diện tích 385,3m
2
và thửa đất số 605, diện tích 380,4m
2
cùng tờ bản đồ số
24, xã T được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Q cấp 02 Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cùng ngày 12/7/2021 cho ông T1 (sau đây viết tắt là thửa 604
và thửa 605)
Ngày 19/4/2022, ông T1 ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất thửa 605 cho bà Trương Thị M được Văn phòng C chứng thực. Ngày
09/5/2022 bà Trương Thị M đã được Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Q – Chi
nhánh thành phố Q chỉnh lý thông tin chủ sử dụng đất tại trang 03 Giấy chứng
nhận. Bà Trương Thị M tiếp tục thực hiện thủ tục tách thửa 605 thành 03 thửa
đất: Thửa đất số 640, diện tích 116,1m
2
; thửa đất số 641, diện tích 131,8m
2
; thửa
đất số 642, diện tích 132,5m
2
cùng tờ bản đồ số 24, xã T và được Sở Tài nguyên
và Môi trường tỉnh Q cấp 03 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cùng ngày
17/6/2022 cho bà M.
Năm 2022, ông T1 thực hiện thủ tục tách thửa 604 thành 02 thửa: Thửa
đất số 643, diện tích 131,6m
2
và thửa đất số 644, diện tích 253,7m
2
cùng tờ bản
đồ số 24, xã T được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Q cấp 02 Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cùng ngày 05/7/2022 cho ông T1 (sau đây viết tắt là
thửa 643 và thửa 644)
Ngày 12/7/2022, ông T1 ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng thửa
643 cho bà Trương Thị M được Văn phòng C chứng thực và bà M được Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh Q cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày
19/7/2022.
Ngày 12/7/2022, ông Nguyễn Thành K hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng thửa đất số 644 cho ông Huỳnh Ngọc Q được Văn phòng công chứng
Phạm Xuân T4 chứng thực và ông Q được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Q
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 19/7/2022.
Như vậy, thửa đất số 856, tờ bản đồ số 5, xã T, thành phố Q hiện nay đã
biến động thành 05 thửa đất: Thửa số 640, diện tích 116,1m
2
; thửa số 641, diện
tích 131,8m
2
; thửa số 642, diện tích 132,5m
2
; thửa số 643, diện tích 131,6m
2
và
thửa số 644, diện tích 253,7m
2
cùng tờ bản đồ số 24, xã T, thành phố Q, tỉnh
4
Quảng Ngãi. Hiện trên các thửa đất này không có tài sản, vật kiến trúc, không có
cây lâu năm và cây trồng gì.
Theo Đơn khởi kiện nguyên đơn bà Nguyễn Thị T yêu cầu Tòa án giải
quyết:
- Tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn X và
ông Nguyễn T1 đối với thửa đất số 856, tờ bản đồ số 5, diện tích 755m
2
tại xã T,
thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi do Văn phòng C1 chứng thực ngày 16/9/2015 vô
hiệu.
- Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn
T1 và bà Trương Thị M đối với thửa đất số 605, tờ bản đồ số 24 tại xã T, thành
phố Q, tỉnh Quảng Ngãi do Văn phòng C chứng thực ngày 19/4/2022 vô hiệu.
- Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn
T1 và bà Trương Thị M đối với thửa đất số 643, tờ bản đồ số 24 tại xã T, thành
phố Q, tỉnh Quảng Ngãi do Văn phòng C chứng thực ngày 12/7/2022 vô hiệu.
- Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn
T1 và ông Huỳnh Ngọc Q đối với thửa đất số 644, tờ bản đồ số 24 tại xã T,
thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi do Văn phòng C chứng thực ngày 12/7/2022 vô
hiệu.
- Chia di sản của cụ Nguyễn X và cụ Nguyễn Thị N để lại là thửa đất số
856, tờ bản đồ số 5, diện tích 755m
2
tại xã T, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi
(nay là các thửa đất số 640, diện tích 116,1m
2
; thửa đất số 641, diện tích
131,8m
2
; thửa đất số 642, diện tích 132,5m
2
; thửa đất số 643, diện tích 131,6m
2
;
thửa đất số 644, diện tích 253,7m
2
cùng tờ bản đồ số 24 tại xã T) theo pháp luật
cho hàng thừa kế thứ nhất gồm: Nguyễn T1 (tên hiện nay Nguyễn Văn T1),
Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị T2, Nguyễn Thị L và Nguyễn Thị T thành 5 kỷ
phần, mỗi kỷ phần 153,14m
2
. Bà Nguyễn Thị T yêu cầu được chia bằng hiện vật
là quyền sử dụng đất.
Quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Nguyễn Thị T thay đổi nội dung
khởi kiện và rút một phần yêu cầu khởi kiện như sau:
1. Rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc:
-Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn
T1 và bà Trương Thị M đối với thửa đất số 605, tờ bản đồ số 24 tại xã T, thành
phố Q, tỉnh Quảng Ngãi do Văn phòng C chứng thực ngày 19/4/2022 vô hiệu.
- Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn
T1 và bà Trương Thị M đối với thửa đất số 643, tờ bản đồ số 24 tại xã T, thành
phố Q, tỉnh Quảng Ngãi do Văn phòng C chứng thực ngày 12/7/2022 vô hiệu.
- Tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn T1
và ông Huỳnh Ngọc Q đối với thửa đất số 644, tờ bản đồ số 24 tại xã T, thành
phố Q, tỉnh Quảng Ngãi do Văn phòng C chứng thực ngày 12/7/2022 vô hiệu.
2. Thay đổi nội dung khởi kiện như sau:
5
- Tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn X và
ông Nguyễn T1 đối với thửa đất số 856, tờ bản đồ số 5, diện tích 755m
2
tại xã T,
thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi do Văn phòng C1 chứng thực ngày 16/9/2015 vô
hiệu.
- Chia di sản của cụ Nguyễn X và cụ Nguyễn Thị N để lại là thửa đất số
856, tờ bản đồ số 5, diện tích 755m
2
tại xã T, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi
(nay là các thửa đất số 640, diện tích 116,1m
2
; thửa đất số 641, diện tích
131,8m
2
; thửa đất số 642, diện tích 132,5m
2
; thửa đất số 643, diện tích 131,6m
2
;
thửa đất số 644, diện tích 253,7m
2
cùng tờ bản đồ số 24 tại xã T) theo pháp luật
cho hàng thừa kế thứ nhất gồm: Nguyễn T1 (tên hiện nay Nguyễn Văn T1),
Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị T2, Nguyễn Thị L và Nguyễn Thị T thành 5 kỷ
phần, mỗi kỷ phần 153,14m
2
. Bà Nguyễn Thị T yêu cầu được chia bằng giá trị
theo Chứng thư thẩm định giá của Công ty trách nhiệm hữu hạn T7. Giao phần
đất được chia cho ông T1 và ông T1 thanh toán lại giá trị cho đồng thừa kế.
Theo các lời trình bày trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị
đơn ông Nguyễn Văn T1 (tên gọi khác: Nguyễn T1) trình bày:
Về tên gọi của ông: Trước đây Chứng minh nhân dân của ông tên là
Nguyễn T1, sau khi ông chuyển vào Lâm Đồng sinh sống thì đổi tên thành
Nguyễn Văn T1, nên Căn cước công dân của ông tên là Nguyễn Văn T1.
Về quan hệ huyết thống: Ông thống nhất như nguyên đơn trình bày cụ
Nguyễn X (chết năm 2021) và cụ Nguyễn Thị N (chết 2012) có 05 người con
gồm: Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị T2, Nguyễn Thị L, Nguyễn Văn T1, Nguyễn
Thị T. Ngoài những người con này, cha mẹ ông không có con nuôi, con riêng
nào khác.
Về quá trình biến động và chuyển nhượng thửa 856 ông thống nhất như trình
bày của nguyên đơn.
Về nguồn gốc thửa 856: Các bà Nguyễn Thị H lấy chồng năm 1968, Nguyễn Thị
T2 lấy chồng năm 1972, Nguyễn Thị L chồng năm 1970. Năm 1979, ông kết
hôn với bà Trần Thị T3. Năm 1981, vợ chồng ông mua thửa 856 của bà Phạm
Thị Y hiện nay bà Y đã chết, có giấy tờ mua, tuy nhiên hiện ông làm thất lạc nên
không có để cung cấp cho Tòa án. Mặc dù do ông mua nhưng lúc mua cha ông
là cụ Nguyễn X là chủ hộ nên để cụ Nguyễn X đứng tên trong giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất. Năm 1984 ông xây dựng ngôi nhà trên thửa 856 ở cùng với
cha mẹ và bà Nguyễn Thị T. Năm 1995, ông đi kinh tế mới tại xã H, huyện D,
tỉnh Lâm Đồng nên cha mẹ cùng ông vào sinh sống tại tỉnh Lâm Đồng. Năm
2012, mẹ ông là cụ Nguyễn Thị N chết không để lại di chúc; năm 2015 cha ông
là Nguyễn Xí L1 hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất cho ông được Văn
phòng C1 chứng thực. Việc cụ Nguyễn Xí L1 hợp đồng tặng cho ông quyền sử
dụng đất là hoàn toàn đúng quy định. Do vậy, ông không đồng ý yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn.
Theo tài liệu có tại hồ sơ vụ án và tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền
của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thi T2
6
và Nguyễn Thị L là bà Nguyễn Thị H2 trình bày: Thống nhất với trình bày và
yêu cầu của nguyên đơn và họ đều yêu cầu được nhận di sản thừa kế bằng giá
trị.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị T3: Tòa án đã tống đạt văn
bản tố tụng và văn bản trình bày ý kiến nhưng bà T3 không có ý kiến trình bày.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trương Thị M: Tòa án đã tống
đạt văn bản tố tụng và văn bản trình bày ý kiến nhưng bà M không có ý kiến
trình bày. Tuy nhiên, sau khi Tòa án đưa vụ án ra xét xử bà M có đơn trình bày
các hợp đồng chuyển nhượng giữa ông T1 và bà đối với thửa 605 và 643 được
Văn phòng công chứng Phạm Xuân T4 chứng thực là đúng quy định pháp luật
và bà xin được giải quyết, xét xử vắng mặt bà.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Huỳnh Ngọc Q: Tòa án đã
tống đạt văn bản tố tụng và văn bản trình bày ý kiến nhưng ông Q không có ý
kiến trình bày. Tuy nhiên, sau khi Tòa án đưa vụ án ra xét xử ông Q có đơn trình
bày hợp đồng chuyển nhượng giữa ông T1 và ông đối với thửa 644 được Văn
phòng công chứng Phạm Xuân T4 chứng thực là đúng quy định pháp luật và bà
xin được giải quyết, xét xử vắng mặt ông.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Văn phòng C trình bày: Các Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với các thửa 605, 643 và 644 là đúng quy
định của Bộ luật Dân sự và Luật Đất đai và đúng trình tự thủ tục theo quy định
của Luật công chứng. Nay nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện về việc tuyên các
hợp đồng này vô hiệu thì Văn phòng C tôn trọng việc rút này của nguyên đơn.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Văn phòng C1 trình bày: Tại thời
điểm công chứng hợp đồng các bên giao kết có mặt đầy đủ, có năng lực hành vi
dân sự theo quy định của pháp luật, hồ sơ hoàn toàn hợp pháp, nội dung yêu cầu
không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Công chứng viên công
chứng hợp đồng tặng cho số công chứng 4183, quyền số 13TP/CC-SCC/HĐGD
ngày 16/9/2015 đúng theo quy định của pháp luật.
Bản án Dân sự sơ thẩm số 91/2024/DS-ST ngày 27 tháng 9 năm 2024 của
Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi đã tuyên xử:
1. Đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu của nguyên đơn bà Nguyễn Thị T
đã rút về việc:
-Tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn T1
và bà Trương Thị M đối với thửa đất số 605, tờ bản đồ số 24 tại xã T, thành phố
Q, tỉnh Quảng Ngãi do Văn phòng C chứng thực số 3888, quyền số
01/2022.TP/CC-SCC/HĐGD ngày 19/4/2022 vô hiệu.
- Tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn T1
và bà Trương Thị M đối với thửa đất số 643, tờ bản đồ số 24 tại xã T, thành phố
Q, tỉnh Quảng Ngãi do Văn phòng C chứng thực số 7094, quyền số
02/2022.TP/CC-SCC/HĐGD ngày 12/7/2022 vô hiệu.
7
- Tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn T1
và ông Huỳnh Ngọc Q đối với thửa đất số 644, tờ bản đồ số 24 tại xã T, thành
phố Q, tỉnh Quảng Ngãi do Văn phòng C chứng thực số 7084, quyền số
02/2022.TP/CC-SCC/HĐGD ngày 12/7/2022 vô hiệu.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc tuyên bố
hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn X và ông Nguyễn Văn
T1 đối với thửa đất 856, tờ bản đồ số 05, diện tích 755m
2
tại xã T, thành phố Q,
tỉnh Quảng Ngãi do Văn phòng C1 chứng thực số 4183, quyển số 13 TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 16/9/2015 vô hiệu
3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc chia di sản
thừa kế của cụ Nguyễn X để lại
4. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc chia di sản thừa
kế của cụ Nguyễn Thị N để lại.
4.1 Xác định hàng thừa kế thứ nhất của cụ Nguyễn Thị N gồm những
người sau đây: Cụ Nguyễn X và các ông, bà Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị T2,
Nguyễn Thị L, Nguyễn T1, Nguyễn Thị T.
4.2 Xác định số tiền 2.247.572.026 đồng (là giá trị ½ quyền sử dụng đất
của thửa đất số 856, tờ bản đồ số 5, diện tích 755m
2
tại xã T, thành phố Q, tỉnh
Quảng Ngãi nay là các thửa đất số 640, diện tích 116,1m
2
; thửa đất số 641, diện
tích 131,8m
2
; thửa đất số 642, diện tích 132,5m
2
; thửa đất số 643, diện tích
131,6m
2
; thửa đất số 644, diện tích 253,7m
2
cùng tờ bản đồ số 24 tại xã T, thành
phố Q) là di sản của cụ Nguyễn Thị N để lại được chia theo pháp luật
4.3 Cụ Nguyễn Xí T6 cho ông Nguyễn Văn Thành P di sản của mình
hưởng cho ông Nguyễn Văn T1 theo hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày
16/9/2015.
4.4 Di sản của cụ Nguyễn Thị N là số tiền 2.247.572.026 đồng được chia
thành 6 kỷ phần mỗi kỷ phần là 374.595.337 đồng. Bà Nguyễn Thị H, Nguyễn
Thị T2, Nguyễn Thị L, Nguyễn T1, Nguyễn Thị T mỗi người được nhận 01 kỷ
phần; ông Nguyễn Văn T1 được nhận 2 kỷ phần. Ông Nguyễn Văn T1 đã nhận
toàn bộ di sản của cụ Nguyễn Thị N để lại nên buộc ông Nguyễn Văn T1 phải
thanh toán lại cho các bà Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị T2, Nguyễn Thị L,
Nguyễn Thị T mỗi người 374.595.337 đồng.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về phần chi phí tố tụng, án phí và
quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 31/10/2024, ngày 05/12/2024 và ngày 03/01/2025, ông Nguyễn Văn
T1 có đơn kháng cáo và kháng cáo bổ sung đề nghị Tòa án cấp phúc giải quyết:
Sửa một phần Bản án Dân sự sơ thẩm số 91/2024/DS-ST ngày 27/9/2024 của
Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi với nội dung không
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc chia di sản thừa kế của cụ
Nguyễn Thị N để lại là ½ thửa đất số 856, tờ bản đồ số 05 xã T, thành phố Q,
tỉnh Quảng Ngãi.
8
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi phát biểu ý
kiến về việc giải quyết vụ án:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của
Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa kể từ khi Tòa án cấp phúc thẩm
thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đều thực hiện
đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Đối với những người tham gia tố tụng gồm nguyên đơn, bị đơn, những
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố
tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Riêng bà Trương Thị M, ông
Huỳnh Ngọc Q không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định
của Bộ luật Tố tụng dân sự (vắng mặt nhiều lần tại phiên tòa).
Về hình thức: Đơn kháng cáo của ông Nguyễn Văn T1 làm trong hạn luật
định, hình thức và nội dung hợp lệ theo quy định tại các Điều 272, 273 Bộ luật
Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Sau khi phân tích các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và diễn
biến công khai tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, Kiểm
sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự,
không chấp nhận toàn bộ nội dung kháng cáo của bị đơn. Giữ nguyên bản án Dân
sự sơ thẩm số 91/2024/DS-ST ngày 27 tháng 9 năm 2024 của Toà án nhân dân
thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.
Về án phí và các chi phí tố tụng khác đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết
theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm
tra tại phiên toà; kết quả tranh tụng tại phiên toà, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội
đồng xét xử xét thấy:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Ngày 27/9/2024, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử và tuyên án, tại phiên
tòa sơ thẩm bị đơn là ông Nguyễn Văn T1 vắng mặt. Ngày 21/10/2024, ông
Nguyễn Văn T1 nhận được Bản án Dân sự sơ thẩm số 91/2024/DS-ST ngày
27/9/2024 của Toà án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi. Đến
ngày 31/10/2024, ông Nguyễn Văn T1 kháng cáo bản án trên. Về thời hạn kháng
cáo, hình thức và nội dung đơn kháng cáo đúng quy định tại Điều 272, Điều 273
của Bộ luật Tố tụng dân sự. Vì vậy, đơn kháng cáo của ông T1 là hợp lệ.
Tại phiên tòa, bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
gồm: Ông Nguyễn Văn T1, bà Trần Thị T3; Văn phòng C; Văn phòng C1 vắng
mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt. Bà Trương Thị M, ông Huỳnh Ngọc Q đã
được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không rõ lý do. Căn cứ
Khoản 3 Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử
vắng mặt những người nêu trên.
9
Người đại diện theo uỷ quyền của bà Nguyễn Thị T, bà Nguyễn Thị H,
Nguyễn Thị T2 và Nguyễn Thị L là bà Trần Thị H1 có mặt tại phiên tòa.
[2] Về nội dung:
[2.1] Về thời hiệu khởi kiện chia di sản và hàng thừa kế:
- Các đương sự đều thống nhất thừa nhận cụ Nguyễn X (chết năm 2021)
và cụ Nguyễn Thị N (chết năm 2012); ngoài ra, các tài liệu trong hồ sơ vụ án
như bia mộ cụ N ghi cụ chết vào ngày 29/11/2012 (Âm lịch), bia mộ cụ Nguyễn
X (Chết năm 2021). Ngày 30/5/2022, bà Nguyễn Thị T khởi kiện yêu cầu phân
chia di sản thừa kế của cụ Nguyễn X và cụ Nguyễn Thị N. Căn cứ khoản 1 Điều
623 Bộ luật Dân sự năm 2015, thì thời hiệu khởi kiện vẫn còn.
- Sinh thời cụ X và cụ N có 05 người con gồm: Nguyễn Thị H, Nguyễn
Thị T2, Nguyễn Thị L, Nguyễn T1 (tên hiện nay Nguyễn Văn T1), Nguyễn Thị
T. Ngoài những người con này, hai cụ không có con nuôi, con riêng nào khác.
Sự thừa nhận của các đương sự như trên, là các tình tiết và sự kiện không cần
phải chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[2.2] Về nguồn gốc, quá trình quản lý sử dụng của thửa đất số 856, tờ bản
đồ số 5, diện tích 755 m
2
; địa chỉ: tại xã T, huyện S (nay là thành phố Q), tỉnh
Quảng Ngãi (sau đây viết tắt là thửa đất số 856):
Căn cứ vào đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất lập ngày 05/12/1996 của
cụ Nguyễn X (Bút lục 280) thể hiện nguồn gốc thửa 856 là của “Ông bà để lại”
và cụ X đã được Ủy ban nhân dân huyện S cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho cụ Nguyễn X vào ngày 23/5/1997 đối với thửa 856; ngoài ra, tại Giấy
thỏa thuận lập vào ngày 15/8/2022 tại Phòng hòa giải Tòa án nhân dân thành
phố Quảng Ngãi các đồng thừa kế là Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị T2, Nguyễn
Thị L, Nguyễn Thị T và Nguyễn Văn T1 đều thừa nhận: “Em trai Nguyễn Văn
T1 đồng ý thống nhất trích một phần di sản thừa kế của cha mẹ anh đang quản
lý, anh có trách nhiệm thối lại một kỷ phần cho bốn chị em số tiền
1.000.000.000đ (một tỷ đồng), tương đương mỗi phần được nhận là
250.000.000đ” tại phần cuối biên bản thỏa thuận ông T1 ký vào biên bản thỏa
thuận (Bút lục số 18)
Quá trình giải quyết vụ án, ngày 05/5/2025, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng
Ngãi đã làm việc với Ủy ban nhân dân xã T và được cung cấp thông tin:
“Nguồn gốc thửa 856 nay được biến động thành các thửa 640, thửa 641,
thửa 642, thửa 643 và thửa 644 là của ông bà lưu hạ lại cho cụ Nguyễn X và cụ
Nguyễn Thị N quản lý, sử dụng.
- Kiểm tra hồ sơ thực hiện theo Nghị định 64/CP:
Theo sổ mục kê đất lập năm 1997 thì thuộc thửa đất số 856, tờ bản đồ số
05, diện tích 755m
2
, loại đất T do ông Nguyễn X đứng tên kê khai.
Ngày 23/5/1997, Ủy ban nhân dân huyện S cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất (sau đây viết tắt là GCNQSDĐ) ông Nguyễn X đối với thửa đất số
10
856, tờ bản đồ số 5, diện tích 755m
2
, tại xã T, huyện S (nay là thành phố Q), tỉnh
Quảng Ngãi. Ngày 01/7/2015, ông Nguyễn X được Sở Tài nguyên và Môi trường
tỉnh Q cấp đổi GCNQSDĐ đối với thửa 856”.
Tại phiên tòa sơ thẩm, các đồng thừa kế đều thống nhất thời điểm năm
1996 cụ Nguyễn X đang trong thời kỳ hôn nhân với cụ Nguyễn Thị N nên có cơ
sở xác định thửa 856 là tài sản chung của cụ Nguyễn X và cụ Nguyễn Thị N
theo quy định tại Điều 15 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959: “Vợ và chồng
đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước
và sau khi cưới” và Điều 16 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959: “Khi một
bên chết trước, nếu tài sản của vợ chồng cần chia, thì chia như quy định ở Điều
29; Vợ và chồng đều có quyền thừa kế tài sản của nhau”.
Do đó, thửa đất số 856 là tài sản chung của cụ X và cụ N trong thời kỳ
hôn nhân.
[2.3] Xét hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa cụ Nguyễn X và ông
Nguyễn Văn T1 đối với thửa đất số 856:
Như đã nhận định trên thì thửa đất số 856 là tài sản chung của cụ X và cụ
N trong thời kỳ hôn nhân. Từ thời điểm cụ N chết (năm 2012) thì phần tài sản
chung vợ, chồng của cụ N đã chuyển thành di sản thừa kế, thuộc sở hữu chung
của các thừa kế của cụ N. Cũng từ thời điểm đó, tài sản chung của cụ X và các
đồng thừa kế của cụ N thuộc sở hữu chung theo phần. Cụ X có quyền định đoạt
không vượt quá phần sở hữu của mình mà không phải hỏi ý kiến các đồng chủ
sở hữu khác theo quy định tại khoản 2 Điều 216 Bộ luật Dân sự năm 2005.
Tuy nhiên, đến ngày 16/9/2015, cụ Nguyễn X lập hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất đối với toàn bộ thửa 856 cho ông Nguyễn T1, được Văn
phòng C1 chứng thực là xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đồng
thừa kế khác của cụ N. Tòa án cấp sơ thẩm xác định hợp đồng tặng cho này vô
hiệu đối với phần tài sản (di sản) của cụ N là ½ quyền sử dụng đất thuộc thửa
856 là có căn cứ, đúng pháp luật.
Năm 2021, ông Nguyễn Thành L2 thủ tục tách thửa 856 thành 02 thửa
đất: Thửa đất số 604, diện tích 385,3 m
2
và thửa đất số 605, diện tích 380,4 m
2
cùng tờ bản đồ số 24, xã T, thành phố Q được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh
Q cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sau đây viết tắt là GCNQSDĐ) cho
ông Nguyễn Văn T1 cùng ngày 12/7/2021 (sau đây viết tắt là thửa 604 và thửa
605)
- Đối với thửa 605: Ngày 19/4/2022, ông Nguyễn Thành L3 hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng cho bà Trương Thị M được Văn phòng C chứng
thực. Ngày 09/5/2022 bà Trương Thị M đã được Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh
Q - Chi nhánh thành phố Q chỉnh lý tại trang 03 GCNQSDĐ. Năm 2022, bà
Trương Thị M làm thủ tục tách thửa 605 thành 03 thửa: Thửa đất số 640, diện
tích 116,1 m
2
; thửa đất số 641, diện tích 131,8 m
2
; thửa đất số 642, diện tích
132,5 m
2
cùng tờ bản đồ số 24, xã T, thành phố Q được Sở Tài nguyên và Môi
11
trường tỉnh Q cấp cùng ngày 17/6/2022 cho bà Trương Thị M (sau đây viết tắt là
thửa 640, thửa 641, thửa 642)
- Đối với thửa 604: Ngày 22/4/2022, ông Nguyễn Thành L2 thủ tục tách
thành 02 thửa: Thửa số 643, diện tích 131,6 m
2
và thửa số 644, diện tích 253,7
m
2
cùng tờ bản đồ số 24, xã T, thành phố Q được Sở Tài nguyên và Môi trường
tỉnh Q cấp cùng ngày 05/7/2022 cho ông Nguyễn T1 (sau đây viết tắt là thửa
643, thửa 644). Ngày 12/7/2022, ông Nguyễn Thành L3 hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đối với thửa 643 cho bà Trương Thị M và thửa 644 cho
ông Huỳnh Ngọc Q được Văn phòng C chứng thực. Thửa 643 và thửa 644 được
Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Q cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho bà Trương Thị M và ông Huỳnh Ngọc Q cùng ngày 19/7/2022.
[3] Như đã nhận định trên thì hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất chỉ có
hiệu lực pháp luật đối với phần tài sản của cụ X và không có hiệu lực đối với
phần tài sản (di sản) của cụ N để lại, nên hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất
giữa cụ X và ông T1 bị vô hiệu một phần. Tuy nhiên sau khi nhận tặng cho
quyền sử dụng đất, ông T1 đã làm thủ tục tách thửa và chuyển nhượng toàn bộ
cho người khác. Hiện nay hàng thừa kế theo pháp luật của cụ N (ngoài ông T1)
thì đều yêu cầu chia thừa kế bằng giá trị, nên Tòa án cấp sơ thẩm nhận định
không cần thiết phải tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa cụ X
và ông T1 bị vô hiệu một phần đối với phần tài sản (di sản) của cụ N là ½ quyền
sử dụng đất thuộc thửa 856 là có căn cứ, đúng pháp luật.
[4] Tòa án cấp sơ thẩm xác định thửa đất số 856 là tài sản chung của cụ X
và cụ N. Năm 2012 cụ N chết không để lại di chúc nên di sản của cụ N để lại
được xác định bằng giá trị là số tiền 2.247.572.026 đồng, được chia theo pháp
luật cho 06 đồng thừa kế của cụ Nguyễn Thị N1: Cụ Nguyễn X và các ông, bà
Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị T2, Nguyễn Thị L, Nguyễn T1, Nguyễn Thị T thành
06 kỷ phần, mỗi kỷ phần là 347.595.337 đồng. Phần của cụ X tặng cho ông T1
nên ông T1 nhận được 02 kỷ phần là 659.190.674 đồng. Toàn bộ giá trị di sản
của cụ N để lại ông T1 đã nhận nên Tòa án cấp sơ thẩm buộc ông T1 thanh toán
lại cho các đồng thừa kế khác là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
Đồng thời, Tòa án cấp sơ thẩm xác định năm 2015 cụ X lập hợp đồng
tặng cho quyền sử dụng đất cho ông T1 như đã nhận định trên có hiệu lực pháp
luật đối với phần tài sản của cụ X trong khối tài sản chung với cụ N, từ đó không
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chia di sản thừa kế của cụ X để lại
là có căn cứ.
[5] Bị đơn kháng cáo cho rằng: Thửa đất 856 được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất lần đầu cho cá nhân cụ Nguyễn Xí . Thời điểm cụ X lập hợp
đồng tặng cho toàn bộ thửa đất này cho bị đơn (năm 2015) thì cụ N đã chết nên
cụ X có toàn quyền định đoạt thửa đất này là đúng pháp luật. Xét kháng cáo của
bị đơn là không có căn cứ, không phù hợp với nhận định trên.
12
Tại cấp phúc thẩm, phía bị đơn không cung cấp được tài liệu, chứng cứ gì
mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình là có căn cứ, nên Hội đồng
xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị đơn.
[6] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do không có căn cứ chấp nhận kháng cáo
nên ông Nguyễn Văn T1 phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, nhưng ông Nguyễn
Văn T1 là người cao tuổi và đơn xin miễn án phí nên được miễn án phí dân sự
phúc thẩm.
[7] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà phù hợp với nhận
định của Hội đồng xét xử và đúng pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn T1. Giữ nguyên bản án dân sự
sơ thẩm số 91/2024/DS-ST ngày 27/9/2024 của Toà án nhân dân thành phố Quảng
Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.
Áp dụng Điều 15, 16 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959; khoản 2 Điều 33,
Điều 35 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Điều 121, Điều 122, Điều 124,
219, 223, 405 Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 609, Điều 610, Điều 611, Điều 612,
Điều 613, Điều 614, Điều 616, Điều 649, Điều 650, Điều 651, Điều 660 và Điều
688 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 167, Điều 168 Luật Đất đai năm 2013 và Điều
12, Điều 24, Điều 26, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
1. Đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu của nguyên đơn bà Nguyễn Thị T
đã rút về việc:
- Tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn T1
và bà Trương Thị M đối với thửa đất số 605, tờ bản đồ số 24 tại xã T, thành phố
Q, tỉnh Quảng Ngãi do Văn phòng C chứng thực số 3888, quyển số
01/2022.TP/CC-SCC/HĐGD ngày 19/4/2022 vô hiệu.
- Tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn T1
và bà Trương Thị M đối với thửa đất số 643, tờ bản đồ số 24 tại xã T, thành phố
Q, tỉnh Quảng Ngãi do Văn phòng C chứng thực số 7094, quyển số
02/2022.TP/CC-SCC/HĐGD ngày 12/7/2022 vô hiệu.
- Tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn T1
và ông Huỳnh Ngọc Q đối với thửa đất số 644, tờ bản đồ số 24 tại xã T, thành
phố Q, tỉnh Quảng Ngãi do Văn phòng C chứng thực số 7084, quyển số
02/2022.TP/CC-SCC/HĐGD ngày 12/7/2022 vô hiệu.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc tuyên bố
hợptặng cho quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn X và ông Nguyễn Văn T1 đối
13
với thửa đất 856, tờ bản đồ số 05, diện tích 755m
2
tại xã T, thành phố Q, tỉnh
Quảng Ngãi do Vănphòng Công chứng T8 chứng thực số 4183, quyển số 13
TP/CC-SCC/HĐGD ngày 16/9/2015 vô hiệu
3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc chia di sản
thừa kế của cụ Nguyễn X để lại
4. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc chia di sản thừa
kế của cụ Nguyễn Thị N để lại.
4.1 Xác định hàng thừa kế thứ nhất của cụ Nguyễn Thị N2 người sau đây:
Cụ Nguyễn X và các ông, bà Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị T2, Nguyễn Thị L,
Nguyễn T1, Nguyễn Thị T.
4.2 Xácsố tiền 2.247.572.026 đồng (là giá trị ½ quyền sử dụng đất của
thửa đất số 856, tờ bản đồ số 5, diện tích 755m
2
tại xã T, thành phố Q, tỉnh
Quảng Ngãi nay là các thửa đất số 640, diện tích 116,1m
2
; thửa đất số 641, diện
tích 131,8m
2
; thửa đất số 642, diện tích 132,5m
2
; thửa đất số 643, diện tích
131,6m
2
; thửa đất số 644, diện tích 253,7m
2
cùng tờ bản đồ số 24 tại xã T, thành
phố Q) là di sản của cụ Nguyễn Thị N3 lại được chia theo pháp luật
4.3 Cụ Nguyễn Xí T6 cho ông Nguyễn Văn Thành P di sản của mình
hưởng cho ông Nguyễn Văn T1 theo hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày
16/9/2015.
4.4 Disản của cụ Nguyễn Thị N là số tiền 2.247.572.026 đồng được chia
thành 6 kỷ phần mỗi kỷ phần là 374.595.337 đồng. Bà Nguyễn Thị H, Nguyễn
Thị T2, Nguyễn Thị L, Nguyễn T1, Nguyễn Thị T mỗi người được nhận 01 kỷ
phần; ông Nguyễn Văn T1 được nhận 2 kỷ phần. Ông Nguyễn Văn T1 đã nhận
toàn bộ di sản của cụ Nguyễn Thị N để lại nên buộc ông Nguyễn Văn T1 phải
thanh toán lại cho các bà Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị T2, Nguyễn Thị L,
Nguyễn Thị T mỗi người 374.595.337 đồng.
5. Về chi phí tố tụng:
Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ 5.000.000 đồng, chi phí đo đạc đất
tranh chấp là 8.500.000 đồng, chi phí thẩm định giá 18.000.000 đồng. Tổng
cộng là 31.500.000 đồng. Nguyên đơn bà Nguyễn Thị T phải chịu 18.375.000
đồng; các bà Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị T2, Nguyễn Thị L mỗi người phải chịu
2.625.000 đồng; ông Nguyễn Văn T1 phải chịu 5.250.000 đồng. Nguyên đơn bà
Nguyễn Thị T đã nộp tạm ứng đủ và chi xong. Nên buộc bà Nguyễn Thị H,
Nguyễn Thị T2, Nguyễn Thị L phải thanh toán lại cho bà Nguyễn Thị T mỗi
người với số tiền 2.625.000 đồng và Nguyễn Văn T1 phải thanh toán lại cho bà
Nguyễn Thị T số tiền 5.250.000 đồng.
6. Về án phí:
6.1. Về án phí sơ thẩm: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị T, bị đơn ông
Nguyễn Văn T1 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị H,
Nguyễn Thị T2, Nguyễn Thị L được miễn toàn bộ tiền án phí.
14
6.2. Về án phí phúc thẩm: Ông Nguyễn Văn T1 được miễn tiền án phí dân
sự phúc thẩm.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho
đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của
số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất qui định tại Điều 357, Điều 468
Bộ luật Dân sự năm 2015.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7a, 7b và Điều
9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định
tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
7. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- VKSND tỉnh Quảng Ngãi; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
- TAND thành phố Quảng Ngãi;
- Chi cục THADS thành phố Quảng Ngãi;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ, Toà Dân sự.
Nguyễn Đức Dũng
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 20/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 14/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 14/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 13/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 12/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 11/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 05/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 01/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 31/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 29/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 25/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm