Bản án số 115/2024/DS-ST ngày 30/09/2024 của TAND tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 115/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 115/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 115/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 115/2024/DS-ST ngày 30/09/2024 của TAND tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Sóc Trăng |
Số hiệu: | 115/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 30/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Bà Truc T yêu cầu ông M, bà N trả lạt đất |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH SÓC TRĂNG
Bản án số: 115/2024/DS-ST
Ngày: 30 – 9 – 2024
V/v tranh chấp đòi lại quyền sử
dụng đất.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SÓC TRĂNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
- Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Toàn.
- Các Hội thẩm nhân dân: Ông Lê Thanh Tâm.
Ông Trương Văn Lai.
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Dương - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Sóc Trăng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng tham gia phiên tòa: Bà
Nguyễn Thị Như Huỳnh - Kiểm sát viên.
Ngày 30 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét
xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 76/2024/TLST-DS, ngày 28 tháng 5 năm
2024 về việc tranh chấp đòi lại quyền sử dụng đất, theo Quyết định đưa vụ án ra
xét xử số 176/2024/QĐXXST-DS, ngày 28 tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà NIKKI T, sinh năm 1972; địa chỉ: 1041 W SUPERIOR AVE
TOLLESON AZ 85353-8417, USA (Hoa kỳ). (vắng mặt).
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Thạch Hoàng I, sinh năm 1986;
địa chỉ: Ấp X, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng, là người đại diện theo ủy quyền (Văn
bản ủy quyền ngày 04/12/2023). (có mặt).
- Bị đơn:
1. Ông Huỳnh M, sinh năm 1963 (vắng mặt).
2. Bà Lâm Thị H, sinh năm 1963 (vắng mặt).
Cùng địa chỉ: Ấp P, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng.
- Người làm chứng:
1. Bà Danh Thị Chành Đ, sinh năm 1966 (vắng mặt).
2. Bà Trần Thị Ê, sinh năm 1970 (vắng mặt).
Cùng địa chỉ: Ấp P, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng.
3. Ông Thái X, địa chỉ: Ấp C, xã H, huyện K, tỉnh Trà Vinh (vắng mặt, có
đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
2
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo Đơn khởi kiện đề ngày 04/12/2023, nguyên đơn Bà NIKKI T trình
bày:
Bà là người Hoa Kỳ - gốc Việt, hiện nay bà đã có quốc tịch Hoa Kỳ, bà đã
nhiều lần từ Hoa Kỳ về Việt Nam để thăm bà con, họ hàng. Năm 2004, bà đang ở
Việt Nam thì thông qua nhiều người giới thiệu, bà được biết ông Thái X, bà Thái
Thị B có nhu cầu chuyển nhượng đất nên bà có liên hệ và thống nhất chuyển
nhượng một phần đất thuộc thửa đất số 227, tờ bản đồ số 06, diện tích 927,6m
2
,
theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (QSDĐ) cấp ngày 19/10/1996, đất tọa lạc
tại ấp X, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng.
Tại thời điểm chuyển nhượng phần đất trên đã có giấy chứng nhận QSDĐ
mang tên hộ ông Thái D (cha ruột của ông Thái X và bà Thái Thị B) và ông Thái
D đã chết trước khi ông Thái X và bà Thái Thị B chuyển nhượng đất cho bà.
Hai bên thống nhất chuyển nhượng phần đất nêu trên với giá 154.000.000
đồng, bà là người trực tiếp đưa số tiền trên cho ông Thái X và bà Thái Thị B. Do
bà là người mang quốc tịch Hoa Kỳ nên không thể đứng tên trên giấy chứng nhận
QSDĐ được, nên bà nhờ ông Huỳnh M là em rễ của bà làm các thủ tục theo quy
định của pháp luật Việt Nam để đứng tên giúp bà trên giấy chứng nhận QSDĐ.
Hiện nay, bà về Việt Nam muốn lấy lại đất nêu trên thì ông M và là bà Lâm
Thị H cho rằng QSDĐ trên không liên quan gì đến bà nữa. Do đó, bà có làm đơn
yêu cầu hòa giải ở cơ sở, nhưng hòa giải không thành.
Nay bà yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng giải quyết: Buộc ông
Huỳnh M và bà Lâm Thị H có nghĩa vụ trả cho bà phần đất thuộc thửa số 227, tờ
bản đồ số 06, diện tích 927,6m² theo Giấy chứng nhận QSDĐ ngày 19/10/1996,
đất tọa lạc tại ấp X, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng.
Đến ngày 05/9/2024, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có đơn
thay đổi yêu cầu khởi kiện như sau:
Bà NIKKI T (tên thường gọi ở Việt Nam là Kim Thị T). Bà với ông X và
bà B thống nhất chuyển nhượng phần đất trên với giá 154.000.000 đồng. Do bà là
người mang quốc tịch Hoa Kỳ nên không thể đứng tên trên giấy chứng nhận
QSDĐ được. Vì vậy, khi về lại Hoa Kỳ, bà đã hai lần gửi tiền về nhờ ông M là
anh rễ của bà đứng ra giùm mua chuyển nhượng đất của ông X và bà B và làm các
thủ tục theo quy định pháp luật Việt Nam để đứng tên giùm giấy chứng nhận
QSDĐ và ông M đi đăng ký tách từ thửa đất số 227, tờ bản đồ số 06 thành thửa
đất số 960, tờ bàn đồ số 06, diện tích 927,6m
2
và đã được cấp giấy chứng nhận
cho hộ ông Huỳnh M ngày 31/8/2004.
Do đó, yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng giải quyết: Buộc ông
Huỳnh M và bà Lâm Thị H có nghĩa vụ trả cho bà Truc T phần đất thuộc thửa đất
số 960, tờ bản đồ số 06, diện tích 927,6m² theo Giấy chứng nhận QSDĐ ngày
31/8/2004. Nay thửa mới số 48, tờ bản đồ số 33, theo đo đạc thực tế có diện tích
731,2m
2
, tọa lạc tại ấp X, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng.
3
Tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà
Truc T cho rằng: Phần đất tranh chấp nêu trên do ông Thái D đứng tên giấy
chứng nhận QSDĐ, nhưng đất đã cho con là ông X và bà B, nên khi làm thủ tục
chuyển nhượng thì tách từ ông Thái D sang tên ông M, không phải chuyển
nhượng từ ông Thái D. Khi khởi kiện bà Truc T nhớ là thỏa thuận trực tiếp với
ông X và bà B và chưa tìm gặp giấy chuyển tiền cho ông M, nên mới cho rằng bà
Truc T trực tiếp trả tiền cho ông X và bà B, nay bà Truc T tìm được giấy gửi tiền
về cho ông M, nên mới xác định lại cho đúng là do bà Truc T gửi tiền về 02 lần
cho ông M với tổng số tiền là 10.500USD để ông M trả tiền chuyển nhượng đất, tỷ
giá USD thời điểm này là hơn 15.000 đồng/USD, ông có nộp giấy gửi tiền vào hồ
sơ vụ án, khi chuyển nhượng đất thì trên đất có 01 cây dừa. Nay yêu cầu buộc ông
M và bà H trả lại thửa đất số 960, tờ bản đồ số 06 nêu trên, nếu trường hợp
nguyên đơn không đủ điều kiện nhận đất thì yêu cầu ông M và bà H trả giá trị
QSDĐ.
- Tại Biên bản hòa giải ngày 21/3/2024 (BL số 08 - 10), bị đơn ông
Huỳnh M trình bày:
Phần đất tranh chấp là do ông nhận chuyển nhượng của bà B (đã chết) từ
năm 2003, với tổng số tiền 161.000.000 đồng, ngang 23m, giá 7.000.000 đồng
một mét ngang, lúc chuyển nhượng có làm giấy tay và có sự chứng kiến của ông
Thạch S (đã chết), giấy tay hiện nay đã bị thất lạc, ông là người trực tiếp đưa tiền
cho bà B 02 lần. Nay người đại diện của bà Truc T là ông Thạch Hoàng I yêu cầu
ông trả đất cho bà Truc T ông không đồng ý, vì phần đất này ông nhận chuyển
nhượng của bà B và đã được cấp giấy chứng nhận QSDĐ.
- Tại phiên tòa sơ thẩm, Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát phát biểu ý
kiến của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng về việc tuân thủ và chấp hành
pháp luật tố tụng dân sự của Thẩm phán, HĐXX, người tiến hành tố tụng và người
tham gia tố tụng trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm HĐXX nghị án. Về nội dung
vụ án, đại diện Viện Kiểm sát đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn và áp dụng Án lệ số 02 năm 2016, ổn định đất cho ông M và bà H,
buộc ông M và bà H trả tiền chuyển nhượng đất và giá trị QSDĐ sau khi trừ công
sức quản lý, gìn giữ, tôn tạo đất của ông M và bà H.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, theo phát biểu và đề nghị của
Đại diện Viện kiểm sát, người tham gia tố tụng, HĐXX nhận định như sau:
[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Tại thời điểm khởi kiện Bà NIKKI T
có địa chỉ cư trú ở Hoa Kỳ. Việc tranh chấp giữa các đương sự có liên quan đến
tài sản là bất động sản nằm trên lãnh thổ Việt Nam của đương sự ở nước ngoài;
nên Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền
theo quy định tại khoản 1, 4 Điều 34, khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37,
điểm a khoản 1 Điều 470 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Đồng thời, đất
4
tranh chấp đã được hòa giải ở cơ sở theo quy định tại Điều 202 và khoản 1 Điều
203 của Luật Đất đai năm 2013.
[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Theo đơn khởi kiện (sau khi thay đổi)
bà Truc T yêu cầu buộc ông M và bà H trả lại toàn bộ thửa đất số 960, tờ bản đồ
số 06 (thửa đất mới là 48, tờ bản đồ số 33), nên Tòa án xác định quan hệ pháp luật
tranh chấp là “Tranh chấp đòi lại quyền sử dụng đất” là đúng theo quy định tại
khoản 9 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[3] Tại phiên tòa lần thứ hai, nguyên đơn Bà NIKKI T vắng mặt, nhưng có
người đại diện hợp pháp tham gia phiên tòa; bị đơn ông Huỳnh M, bà Lâm Thị H
và người làm chứng bà Danh Thị Chành Đ, bà Trần Thị Ê vắng mặt không rõ lý
do; riêng và ông Thái X vắng mặt, có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt. Việc vắng
mặt những người vừa nêu trên không gây cản trở cho việc xét xử, nên HĐXX căn
cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 2, 3 Điều 228, khoản 2 Điều 229 của Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015, tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.
[4] Xác định tài sản có tranh chấp: Tại Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ
ngày 19/7/2024 (BL số 65 - 67) và Chứng thư thẩm định giá tài sản ngày
24/7/2024 (BL số 84 - 97) thể hiện: Phần đất theo đo đạc thực tế có diện tích
731,2m
2
(theo giấy chứng nhận là đất CLN), thuộc thửa đất cũ số 227, tờ bản đồ
số 06, đã được tách thành thửa đất số 960, tờ bản đồ số 06 (thửa đất mới số 48, tờ
bản đồ số 33). Theo Chứng thư thẩm định giá xác định có 300m
2
đất ở là chưa
phù hợp, vì lúc này chưa thu thập được giấy chứng nhận QSDĐ cấp cho ông M,
nay HĐXX xác định tại cho phù hợp với giấy chứng nhận QSDĐ cấp cho ông M,
cụ thể: Đất CLN phù hợp với quy hoạch diện tích 460,7m
2
x 2.275.000 đồng/m
2
=
1.048.092.500 đồng; đất CLN không phù hợp với quy hoạch 270,5m
2
x 1.593.000
đồng/m
2
= 430.906.500 đồng; tổng cộng số tiền 1.478.999.000 đồng. Cây trồng
trên đất: 01 cây dừa, có giá trị là 600.000 đồng, để làm cơ sở xem xét, giải quyết
vụ án.
[5] Việc thay đổi yêu cầu khởi kiện của người đại diện theo ủy quyền của
nguyên đơn: Khi khởi kiện nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông M và
bà H trả lại phần đất có diện tích 927,6m
2
, thuộc thửa đất số 227, tờ bản đồ số 06.
Sau khi xem xét, thẩm định tại chỗ và thu thập hồ sơ cấp giấy chứng nhận thì ông
thay đổi yêu cầu khởi kiện là yêu cầu buộc ông M và bà H trả lại phần đất có diện
tích 927,6m
2
(theo đo đạc thực tế có diện tích 731,2m
2
), thuộc thửa đất số 960, tờ
bản đồ số 06. Xét thấy, mặc dù có thay đổi thành thửa đất mới so với yêu cầu khởi
kiện ban đầu, nhưng vẫn nằm trong tổng diện tích đất khởi kiện ban đầu và do ông
M, bà H tiếp quản lý, sử dụng. Do đó, việc thay đổi yêu cầu khởi kiện này của
người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là không vượt quá phạm vi khởi
kiện ban đầu được quy định tại khoản 1 Điều 244 của Bộ luật Dân sự năm 2015,
nên được HĐXX chấp nhận.
[6] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Truc T về việc yêu cầu Tòa án
giải quyết: Buộc ông M và bà H trả lại phần đất có diện tích 927,6m
2
(theo đo đạc
thực tế có diện tích 731,2m
2
), thuộc thửa đất số 960, tờ bản đồ số 06, tọa lạc tại ấp
X, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng; nếu trường hợp nguyên đơn không đủ điều kiện
nhận đất thì yêu cầu ông M và bà H trả giá trị QSDĐ. Xét thấy:
5
[6.1] Theo đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện và văn bản trình bày ý kiến,
người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn cho rằng vào năm 2004 bà Truc T
đang ở Việt nam có thỏa chuyển nhượng đất của ông X và bà B (đất do cha là ông
Thái D cho), hai bên thỏa thuận chuyển nhượng với giá là 154.000.000 đồng. Sau
đó, bà Truc T về Hoa Kỳ có gửi tiền về cho ông M 02 lần, tổng cộng là
10.500USD và nhờ ông M trả tiền chuyển nhượng đất và làm thủ tục đứng tên
giùm bà Truc T trên giấy chứng nhận QSDĐ. Để chứng minh cho yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn là có căn cứ và hợp pháp, người đại diện theo ủy quyền của
nguyên đơn có nộp 02 giấy gửi tiền (BL số 131 - 132) thể hiện: Ngày 31/5/2004,
bà Truc T gửi cho ông M số tiền 2.500USD và ngày 05/6/2004, bà Truc T gửi cho
ông M số tiền 8.000USD.
[6.2] Đối với người làm chứng bà Huỳnh Thị O (BL số 126) xác định: Bà là
con của ông M và bà H, bà Kêu bà Truc T bằng Dì. Bà xác định thửa đất gốc số
227, tờ bản đồ số 06 có nguồn gốc là của ông Thái D (nay đã chết), ông Thái D là
cha ông X (chồng bà) và chị chồng là bà B (nay đã chết). Ông Thái D cho ông X
và bà B mỗi người một phần. Vào năm 2004, ông X và bà B chuyển nhượng cho
bà Truc T với giá 154.000.000 đồng, do bà Truc T gửi tiền về cho ông M (là anh
rễ bà Truc T) để trả tiền cho ông X và bà B, bà Truc T nhờ ông M làm thủ tục và
đứng tên giùm trên giấy chứng nhận QSDĐ, chứ không phải chuyển nhượng cho
ông M. Bà và ông X đã ly hôn. Tại Đơn xin vắng mặt ngày 02/9/2024n (BL số
127c) ông Thái X cho rằng: Chưa có sự đồng ý của ông mà tại sao để ông là người
làm chứng, ông không đồng ý và Tòa án đã triệu tập hợp lệ lần thứ hai, nhưng ông
X vẫn vắng mặt, nên Tòa án không thể tiến hành lấy lời khai ông X được.
[6.3] Theo người làm chứng bà Thái Thị Ư (BL số 124) xác định: Bà là con
của ông Thái D (đã chết). Thửa đất gốc số 227, tờ bản đồ số 06 có nguồn gốc là
của ông Thái D cho con là ông X và bà B mỗi người một phần. Vào năm 2004,
ông X và bà B chuyển nhượng cho bà Truc T với giá 154.000.000 đồng, do bà
Truc T gửi tiền về cho ông M (là anh rễ bà Truc T) để trả tiền cho ông X và bà B,
bà Truc T nhờ ông M làm thủ tục và đứng tên giùm trên giấy chứng nhận QSDĐ,
chứ không phải chuyển nhượng cho ông M.
[6.4] Theo những người làm chứng bà Danh Thị Chành Đ và bà Trần Thị Ê
(BL số 127 a - b) đều xác định: Nguồn gốc phần đất tranh chấp giữa bà Truc T với
ông M là của ông Thái D cho con là ông X và bà B mỗi người một phần. Sau đó,
ông X và bà B chuyển nhượng cho bà Truc T với giá hơn 100.000.000 đồng, do
bà Truc T gửi tiền về cho ông M (là anh rễ bà Truc T) để trả tiền cho ông X và bà
B, bà Truc T nhờ ông M làm thủ tục và đứng tên giùm trên giấy chứng nhận
QSDĐ. Việc bà Truc T gửi tiền về cho ông M và nhờ ông M làm thủ tục và đứng
tên giùm trên giấy chứng nhận QSDĐ là do bà H (vợ ông M nói).
[6.5] Từ những chứng cứ như đã nêu trên, có đủ cơ sở xác định phần đất
tranh chấp nêu trên có nguồn gốc là của ông Thái D (đã chết) cho con là ông X và
bà B (đã chết), vào năm 2004 ông X và bà B chuyển nhượng cho bà Truc T với
giá 154.000.000 đồng, bà Truc T gửi tiền về cho ông M 02 lần là 10.500USD, tỷ
giá USD thời điểm tháng 06/2004 là 15.678 đồng/USD, tương đương 164.619.000
đồng, để nhờ ông M trả tiền chuyển nhượng đất và làm thủ tục đứng tên giùm trên
giấy chứng nhận QSDĐ, vì bà Truc T là người Hoa Kỳ - gốc Việt, không thể đứng
6
tên trên giấy chứng nhận QSDĐ được. Sau đó, ông M đăng ký và được cấp giấy
chứng nhận QSDĐ ngày 31/8/2004 (BL số 143) thành thửa đất số 960, tờ bản đồ
số 06, theo đo đạc thực tế có diện tích 731,2m
2
. Vì vậy, HĐXX xác định ông M
chỉ là người đứng tên giùm bà Truc T trên giấy chứng nhận QSDĐ đối với thửa
đất này. Do đó, yêu cầu khởi kiện của bà Truc T là có căn cứ, phù hợp với quy
định tại khoản 5, 7 Điều 166 và Điều 170 của Luật Đất đai năm 2013. Mặc dù, bà
Truc T được phép nhập cảnh vào Việt Nam, nhưng bà Truc T có quốc tịch Hoa
Kỳ và không còn quốc tịch Việt Nam, nên không thuộc diện được sở hữu nhà ở tại
Việt Nam theo quy định của pháp luật về nhà ở, được quy định tại Điều 7 và Điều
8 của Luật Nhà ở năm 2014 và trên đất cũng chưa có nhà ở, nên không đủ điều
kiện được nhận chuyển nhượng đất theo quy định tại Điều 169, Điều 186, Điều
191 của Luật Đất đai năm 2013.
[6.6] Theo nguyên đơn cũng như những người làm chứng xác định, giá
chuyển nhượng là 154.000.000 đồng, để làm cơ sở giải quyết công sức quản lý,
gìn giữ, tôn tạo đất cho ông M và bà H. HĐXX vẫn áp dụng Án lệ số 02/2016/AL
của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao, xác định ông M và bà H được hưởng
công sức quản lý, gìn giữ, tôn tạo đất tương đương 50% giá trị QSDĐ tăng thêm
so với giá chuyển nhượng. Theo đó, thửa đất số 960, tờ bản đồ số 06, có tổng giá
trị QSDĐ là 1.478.999.000 đồng – 154.000.000 đồng = 1.324.999.000 đồng x
50% = 662.499.500 đồng.
[7] Từ những nhận định tại mục [6] nêu trên, HĐXX chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn và áp dụng Án lệ số 02/2016, nên HĐXX giao cho ông
M và bà H thửa đất số 960, tờ bàn đồ số 06, diện tích 927,6m
2
, theo đo đạc thực tế
có diện tích 731,2m
2
. Buộc ông M và bà H có trách nhiệm trả cho bà Truc T tiền
chuyển nhượng đất và tiền giá trị QSDĐ (sau khi trừ công sức quản lý, gìn giữ,
tôn tạo đất), tổng số tiền 816.499.500 đồng. Còn 01 cây dừa trên đất ổn định cho
ông M và bà H, không phải trả giá trị.
[8] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của bà Truc T được
chấp nhận, nên ông M và bà H cùng phải chịu án phí không có giá ngạch số tiền
300.000 đồng. Đồng thời, ông M và bà H có nghĩa vụ trả cho bà Truc T số tiền
816.499.500 đồng, nên phải chịu án phí có giá ngạch số tiền 36.494.985 đồng
(36.000.000 đồng + 3% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt 800.000.000
đồng) theo quy định tại khoản 1 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
và điểm a, b khoản 1, khoản 2, khoản 3 Điều 24; điểm a khoản 2, điểm b khoản 2
Điều 27 của Nghị quyết số 326 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Tuy nhiên, ông
M và bà H cùng sinh năm 1963 là người cao tuổi, nên được miễn theo quy định tại
điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
[9] Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: Tổng chi phí
số tiền 25.590.000 đồng. Do yêu cầu khởi kiện của bà Truc T được chấp nhận;
nên ông M và bà H cùng phải chịu số tiền này. Do bà Truc T đã nộp tạm ứng
trước toàn bộ, nên ông M và bà H có nghĩa vụ nộp số tiền 25.590.000 đồng để
hoàn trả cho bà Truc T theo quy định tại khoản 1 Điều 157, khoản 1 Điều 158,
khoản 1 Điều 165, khoản 1 Điều 166 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
7
[10] Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng
đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và áp dụng Án lệ số
02 năm 2016, ổn định đất cho ông M và bà H, buộc ông M và bà H trả tiền chuyển
nhượng đất và giá trị QSDĐ sau khi trừ công sức quản lý, gìn giữ, tôn tạo đất là
có căn cứ, nên được HĐXX chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 9 Điều 26, khoản 1, 4 Điều 34, khoản 3 Điều 35, điểm c
khoản 1 Điều 37, khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 157, khoản 1 Điều 158, khoản
1 Điều 165, khoản 1 Điều 166; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 2, 3 Điều 228,
khoản 2 Điều 229, khoản 1 Điều 244, Điều 271, khoản 1 Điều 273 và điểm a
khoản 1 Điều 470 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; căn cứ Điều 7, Điều 8
của Luật Nhà ở năm 2014; căn cứ khoản 5, 7 Điều 166, Điều 169, Điều 186, Điều
191, Điều 202, khoản 1 Điều 203 của Luật Đất đai năm 2013; căn cứ điểm đ
khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý
và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; căn cứ án lệ số 02/2016/AL ngày 06 tháng 4
năm 2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện (sau khi thay đổi) của nguyên đơn Bà
NIKKI T (Kim Thị T). Tiếp tục giao cho ông Huỳnh M và bà Lâm Thị H toàn bộ
thửa đất số 960, tờ bản đồ số 06 (thửa đất mới số 48, tờ bản đồ số 33), diện tích
927,6m
2
, theo đo đạc thực tế có diện tích 731,2m
2
, trên đất có 01 cây dừa; đất tọa
lạc tại ấp X, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng. Có số đo tứ cận như sau:
Hướng Đông giáp ông Ngô Lết, có số đo 12,38m + 20,10m. Hướng Tây
giáp bà Thái Thị B, có số đo 12,15m + 19,86m + 1,17m. Hướng Nan giáp bà Lâm
Thị S, có số đo 19,02m + 3,84m. Hướng Bắc giáp phạm vi giải phóng mặt bằng
Quốc lộ Nam Sông Hậu, có số đo 22,26m.
Đính kèm Sơ đồ hiện trạng thửa đất ngày 19/7/2024 (BL số 69).
2. Buộc ông Huỳnh M và bà Lâm Thị H có trách nhiệm trả cho Bà NIKKI
T tiền chuyển nhượng đất và tiền giá trị quyền sử dụng đất (sau khi trừ công sức
quản lý, gìn giữ, tôn tạo đất), tổng số tiền 816.499.500 đồng (Tám trăm mười sáu
triệu bốn trăm chín mươi chín nghìn năm trăm đồng).
3. Về lãi suất chậm thi hành án: Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của
người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn
phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy
định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015, đối với thời
gian chậm thi hành án.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Huỳnh M và bà Lâm Thị H được miễn
toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả lại cho Bà NIKKI T số tiền 300.000 đồng
(Ba trăm nghìn đồng) đã nộp tạm ứng án phí theo Biên lai thu số 0002920 ngày
8
20/5/2024 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Sóc Trăng (Do ông Thạch Hoàng I
nộp thay).
5. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: Tổng chi phí số
tiền là 25.590.000 đồng (Hai mươi lăm triệu năm trăm chín mươi nghìn đồng),
ông M và bà H cùng phải chịu số tiền này. Do Bà NIKKI T đã nộp tạm ứng trước
toàn bộ, nên ông Huỳnh M và bà Lâm Thị H có nghĩa vụ nộp số tiền 25.590.000
đồng (Hai mươi lăm triệu năm trăm chín mươi nghìn đồng) để hoàn trả cho Bà
NIKKI T.
6. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ
ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án
mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc
được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014), thì những người
được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi
hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi
hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời
hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành
án dân sự.
TM. HỘI ĐNG XT X SƠ THẨM
Nơi nhn: THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Sóc Trăng;
- Phòng KTNV và THA TAND tỉnh;
- Cục THADS tỉnh Sóc Trăng; (Đã ký)
- Các đương sự;
- Lưu: VT, hồ sơ vụ án.
Nguyn Văn Ton
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Bản án số 144/2025/DS-PT ngày 06/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 18/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 18/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 18/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 18/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 12/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 11/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 10/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 10/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 07/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm