Bản án số 1130/2024/HC-PT ngày 30/09/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 1130/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 1130/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 1130/2024/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 1130/2024/HC-PT ngày 30/09/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 1130/2024/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 30/09/2024 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Căn cứ vào khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính năm 2015; Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của người khởi kiện bà Lê Thị P. Giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 163/2024/HC-ST ngày 20 tháng 5 năm 2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh; |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 1130/2024/HC-PT
Ngày 30 - 9 - 2024
V/v Khiếu kiện quyết định hành chính
trong lĩnh vực đất đai về thu hồi đất, bồi
thường, hỗ trợ.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: bà Huỳnh Thanh Duyên
Các Thẩm phán: ông Nguyễn Văn Tửu
bà Lê Thị Tuyết Trinh
- Thư ký phiên tòa: ông Nguyễn Trọng Tâm - Thư ký Tòa án nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham
gia phiên tòa: ông Nguyễn Khánh Toàn - Kiểm sát viên.
Ngày 30 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số:
679/2024/TLPT-HC ngày 10 tháng 8 năm 2024 về việc “Khiếu kiện quyết định
hành chính trong lĩnh vực đất đai về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số 163/2024/HC-ST ngày 20 tháng 5 năm
2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 2956/2024/QĐPT ngày
04 tháng 9 năm 2024 giữa các đương sự:
Người khởi kiện: Bà Lê Thị P (có mặt).
Địa chỉ: 1 ấp Đ, xã T, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Võ Trọng H (có mặt).
HKTT: Căn hộ G604, chung cư T, I N, Phường B, quận B, Thành phố Hồ
Chí Minh.
Địa chỉ: 3 chung cư T, số A đường T, phường T, thành phố T, Thành phố
Hồ Chí Minh.
Người bị kiện: Ủy ban nhân dân huyện H (có đơn xin vắng mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp:
2
- Ông Phạm Đức Đ – Chuyên viên Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện
H (có mặt).
- Ông Nguyễn Thành T – Chuyên viên Ban Bồi thường giải phóng mặt bằng
huyện H (có mặt).
Cùng địa chỉ: A L, thị trấn H, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện
H (có đơn xin vắng mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp:
- Ông Phạm Đức Đ – Chuyên viên Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện
H (có mặt)
- Ông Nguyễn Thành T – Chuyên viên Ban Bồi thường giải phóng mặt bằng
huyện H (có mặt).
Cùng địa chỉ: A L, thị trấn H, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Người kháng cáo:
Người khởi kiện bà Lê Thị P.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Phần đất bị ảnh hưởng bởi dự án Nâng cấp, mở rộng đường T thuộc Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số 0103/QSDĐ ngày 05/4/1993 do Ủy ban nhân
dân huyện H cấp cho bà Lê Thị P, thuộc một phần thửa số 1390, tờ bản đồ 01, bộ
địa chính xã T (hiện nay là xã T), diện tích 340/6694m
2
, loại đất: T.
Ngày 28/9/2018, Ủy ban nhân dân huyện H ban hành Quyết định số
3447/QĐ-UBND về việc thu hồi đất của cá nhân, hộ gia đình để thực hiện dự án
Nâng cấp, mở rộng đường T (đoạn từ Đặng Thúc V đến N) đối với trường hợp bà
Lê Thị P; theo đó thu hồi 109,4m
2
(trong đó: diện tích 81,1m
2
thuộc một phần các
thửa số 191, 188, thuộc tờ bản đồ số 83 (tài liệu năm 2005), xã T và diện tích
28,3m
2
là đường a theo Tài liệu năm 2005, xã T).
Ngày 17/10/2018, Ủy ban nhân dân huyện H ban hành Quyết định số
4408/QĐ-UBND về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất của bà Lê Thị P
để thực hiện Dự án bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư phục vụ nâng
cấp, mở rộng đường T (đoạn từ Đặng Thúc V đến N) huyện H, với tổng số tiền:
1.768.424.300 đồng đối với phần đất diện tích 81,1m
2
.
Ngày 11/7/2019, bà Lê Thị P làm đơn khiếu nại Quyết định số 4408/QĐ-
UBND ngày 17/10/2018 về diện tích thu hồi đất đối với phần đất bị ảnh hưởng
bởi dự án; đề nghị đo đạc lại phần đất bị ảnh hưởng có sự chứng kiến bà P; yêu
cầu bồi thường với mức giá cao hơn.
Ngày 26/8/2019, Ủy ban nhân dân huyện H ban hành Thông báo số
4380/TB-UBND về việc khiếu nại không đủ điều kiện giải quyết đối với trường
hợp bà Lê Thị P.
Ngày 13/02/2020, Ủy ban nhân dân huyện H ban hành Quyết định số
399/QĐ-UBND về việc điều chỉnh Quyết định số 4408/QĐUBND ngày
3
17/10/2018 của Ủy ban nhân dân huyện H về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất của bà Lê Thị P để thực hiện Dự án bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái
định cư phục vụ nâng cấp, mở rộng đường T (đoạn từ Đặng Thúc V đến N), huyện
H, với tổng số tiền: 2.611.265.724 đồng đối với phần đất diện tích 109,4m
2
.
Ngày 02/3/2020, bà Lê Thị P có đơn khiếu nại Quyết định số 399/QĐ-
UBND ngày 13/02/2020 về việc điều chỉnh Quyết định số 4408/QĐUBND ngày
17/10/2018 đối với phần đất diện tích 109,4m
2
bị ảnh hưởng bởi dự án là không
đúng với thực tế.
Ngày 07/5/2020, Ủy ban nhân dân huyện H ban hành Quyết định số
2270/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại lần đầu của bà Lê Thị P (lần đầu)
có nội dung: Giữ nguyên Quyết định số 399/QĐ-UBND về việc điều chỉnh Quyết
định số 4408/QĐUBND ngày 17/10/2018 của Ủy ban nhân dân huyện H về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất của bà Lê Thị P để thực hiện Dự án bồi
thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư phục vụ nâng cấp, mở rộng đường T
(đoạn từ Đặng Thúc V đến N), huyện H.
Ngày 22/6/2020, bà Lê Thị P khởi kiện yêu cầu Toà án sửa một phần Quyết
định số 3447/QĐ-UBND ngày 28/9/2018 của Ủy ban nhân dân huyện H và xác
định lại phần diện tích đất mà bà P bị thu hồi và áp mức giá bồi thường thỏa đáng.
Ngày 10/5/2021, bà Lê Thị P có đơn khởi kiện sửa đổi yêu cầu Toà án hủy
toàn bộ Quyết định số 3447/QĐ-UBND ngày 28/9/2018 của Ủy ban nhân dân
huyện H do xác định diện tích đất bị thu hồi không chính xác để xác định lại phần
diện tích đất mà bà P bị thu hồi và áp mức giá bồi thường thỏa đáng.
Người khởi kiện bà Lê Thị P, có người đại diện ông Võ Trọng H trình bày
tại Bản tự khai và trong quá trình tố tụng:
Ngày 05/4/1993, bà Lê Thị P được Ủy ban nhân dân huyện H cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số 0103/QSDĐ đối với thửa số 1390, tờ bản đồ 01
(tài liệu năm 1991), xã T (nay là xã T) với diện tích 340m
2
, mục đích sử dụng: đất
thổ (T). Trên đất là căn nhà cấp 4 có diện tích 90,6m
2
đã được xây dựng và hợp
thức hóa vào ngày 29/01/1994. Cho đến nay bà P vẫn sử dụng nhà đất ổn định,
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế với Nhà nước đối với 340m
2
và không có tranh
chấp.
Ngày 11/6/2012, bà P có chuyển nhượng cho ông Lê Văn C và bà Đỗ Thị
Thanh N một phần trong diện tích 340m
2
, ông C và bà N đã được cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sử dụng nhà và tài sản gắn liền với đất số BK
324503, vào sổ cấp Giấy chứng nhận số CH00866 với diện tích 75,4 m
2
.
Ngày 28/9/2018, Ủy ban nhân dân huyện H ban hành Quyết định số
3447/QĐ-UBND về việc thu hồi 109,4m
2
đất thuộc quyền sử dụng của bà P để
thực hiện dự án Nâng cấp, mở rộng đường T (đoạn từ Đặng Thúc V đến N). Diện
tích, vị trí, ranh giới khu đất theo Bản đồ hiện trạng vị trí đất số 102286-
282/ĐĐBĐ CNHM-CC ngày 30/12/2016 của Trung tâm Đo đạc bản đồ thuộc Sở
T1 cấp.
4
Như vậy, diện tích 340m
2
của bà P sau khi trừ phần diện tích bị thu hồi
109,4m
2
và phần đã chuyển nhượng 75,4m
2
thì phải còn lại 155,4m
2
. Tuy nhiên,
ngày 26/11/2019, bà P có yêu cầu Trung tâm Đo đạc bản đồ - Sở T1 lập bản đồ
hiện trạng vị trí đối với phần đất đang sử dụng chỉ có 113m
2
, là thiếu 42,4m
2
. Bà
P cho rằng Ủy ban nhân dân huyện H đã xác định thiếu phần đất mà bà được bồi
thường. Bà P đã nhiều lần khiếu nại Quyết định số 3447/QĐ-UBND ngày
28/9/2018 của Ủy ban nhân dân huyện H nhưng chưa được giải quyết dứt điểm.
Ngày 06/5/2020, Thanh tra huyện H có buổi đối thoại nhằm giải quyết
khiếu nại của bà nhưng không có sự tham gia của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện
H hay người được ủy quyền. Trong đơn khiếu nại bà P cũng có đề cập phần diện
tích đất bị ảnh hưởng bởi dự án không phải là 109,4m
2
. Nhân viên Ban bồi thường
và Phó chi nhánh Trung tâm Đ1 bản đồ cho biết: Việc áp ranh theo Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đối với trường hợp của bà P là không thực hiện được vì
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ thể hiện diện tích 340/6694m
2
(một phần
của thửa) được cấp mà không thể hiện được ranh cấp giấy chứng nhận ở vị trí nào.
Bà P không đồng ý với các lập luận trên và cũng không đồng ý với Bản đồ hiện
trạng vị trí đất số 102286-282/ĐĐBĐ CNHM-CC ngày 30/12/2016 của Trung
tâm Đo đạc bản đồ thuộc Sở T1. Việc đo vẽ bản đồ vào năm 2016 là do cơ quan
có thẩm quyền tự ý thực hiện, không có sự hướng dẫn ranh mốc của người sử
dụng đất nên không phù hợp với quy định của pháp luật. Quyết định số 2270/QĐ-
UBND của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện H ngày 07/5/2020 về việc giải quyết
khiếu nại lần đầu của bà cũng không đề cập đến việc xác định diện tích thu hồi
hay căn cứ để xác định ranh giới đất bị thu hồi.
Nhận thấy việc xác định diện tích đất được bồi thường của Ủy ban nhân
dân huyện H khi thu hồi đất của bà P để thực hiện dự án Nâng cấp, mở rộng đường
T (đoạn từ Đặng Thúc V đến N) là không thỏa đáng, xâm phạm quyền và lợi ích
hợp pháp của bà P. Yêu cầu Tòa án huỷ Quyết định số 3447/QĐ-UBND ngày
28/9/2018 của Ủy ban nhân dân huyện H và xác định lại phần diện tích đất mà bà
P bị thu hồi và áp mức giá bồi thường thỏa đáng.
Người bị kiện là Ủy ban nhân dân huyện H trình bày ý kiến tại Văn bản số
662/UBND-TNMT ngày 18/01/2021 nội dung tóm tắt như sau:
Phần đất bị ảnh hưởng bởi dự án Nâng cấp, mở rộng đường T có diện tích
đất là 109,4m
2
thuộc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 0103/QSDĐ ngày
05/4/1993, cấp cho bà Lê Thị P thuộc một phần thửa số 1390, tờ bản đồ 01, xã T
(hiện nay là xã T), diện tích 340/6694m
2
, loại đất: T. Theo Tài liệu 02/CT-UB:
thuộc một phần thửa số 1390, tờ bản đồ 01, diện tích đất 340/6694m
2
(trong đó,
phần ghi thêm: một phần của thửa), loại đất: T. Theo Tài liệu 2005: thuộc một
phần thửa số 188, 191 và phần đường a tờ bản đồ số 83, loại đất T.
Về nguồn gốc đất: ngày 05/4/1993, bà Lê Thị P được Ủy ban nhân dân
huyện H cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 0103/QSDĐ, tại một phần
thửa số 1390, tờ bản đồ 01, xã T (hiện nay là xã T), diện tích 340/6694m
2
, loại
đất: T. Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất dựa trên kê khai của chủ sử
dụng đất, không đo đạc cụ thể.
5
Ngày 03/7/2017, Ủy ban nhân dân xã T có Báo cáo xác minh nguồn gốc
nhà đất phục vụ công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư thuộc dự án Nâng cấp,
mở rộng đường T, huyện H đối với trường hợp của bà Lê Thị P.
Ngày 16/5/2018, Ủy ban nhân dân huyện H ban hành Quyết định số
1538/QĐ-UBND về việc kiểm đếm bắt buộc đối với trường hợp bà Lê Thị P.
Ngày 14/6/2018, Ban Bồi thường giải phóng mặt bằng huyện có Biên bản
kiểm đếm bắt buộc điều tra hiện trạng dự án Nâng cấp, mở rộng đường T, huyện
H, được Ủy ban nhân dân xã T xác nhận phần đất bị ảnh hưởng bởi dự án đối với
trường hợp bà Lê Thị P có tổng diện tích đất là 109,4m
2
theo Bản đồ hiện trạng vị
trí đất số 102286-282/ĐĐBĐ CNHM-CC ngày 30/12/2016 của Trung tâm Đo đạc
bản đồ thuộc Sở T1.
Đồng thời, Ủy ban nhân dân huyện H ban hành Văn bản số 4381/UBND
ngày 26/8/2019 giao Ban Bồi thường giải phóng mặt bằng huyện thông tin tiến
độ bồi thường, hỗ trợ bổ sung thêm phần diện tích đất 28,3m
2
thuộc lộ giới đường
a theo tài liệu bản đồ năm 2005 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
0103/QSDĐ ngày 05/4/1993, Hội đồng bồi thường dự án bổ sung phần diện tích
đất bị ảnh hưởng bởi dự án của hộ bà Lê Thị P là 109,4m
2
.
Như vậy, Ủy ban nhân dân huyện H và Ủy ban nhân dân xã T đã thực hiện
kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm để thực hiện dự án Nâng
cấp, mở rộng đường T (đoạn từ Đặng Thúc V1 đến Ngã Ba B) đối với trường hợp
bà Lê Thị P là đúng quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật Đất đai năm 2013, khoản
5 Điều 98 Luật Đất đai năm 2013, khoản 01 Điều 12 Nghị định số 47/2014/NĐ-
CP ngày 15/5/2014 và điểm a khoản 3 Điều 12 Thông tư số 25/2014/TT-BTNMT
ngày 19/5/2014 quy định về Bản đồ địa chính, việc đo vẽ chi tiết ranh giới thửa
đất được thực hiện theo hiện trạng thực tế đang sử dụng, quản lý.
Đồng thời, phần diện tích đất 109,4m
2
bị ảnh hưởng bởi dự án đối với
trường hợp bà Lê Thị P, Ủy ban nhân dân huyện đã xem xét, giải quyết bồi thường
là loại đất ở theo Quyết định số 28/2018/QĐ-UBND ngày 09/8/2018 của Ủy ban
nhân dân Thành phố về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
trên địa bàn thành phố.
Trong quá trình điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm, Phòng T huyện, Ban
Bồi thường giải phóng mặt bằng huyện đã phối hợp với đơn vị đo đạc thực hiện
đo đạc, xác định lại diện tích đất theo Bản đồ hiện trạng vị trí đất số hợp đồng
102286-282/ĐĐBĐ-CNHM-CC ngày 30/12/2016 của Trung tâm Đo đạc bản đồ
thuộc Sở T1. Phần đất bị ảnh hưởng bởi dự án có diện tích là 109,4m
2
thuộc giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số 0103/QSDĐ ngày 05/4/1993 tại một phần thửa
số 188, 191 tờ bản đồ số 83 (tài liệu năm 2005), xã T (theo tài liệu năm 1991,
thuộc một phần thửa số 1390, tờ bản đồ số 01, bộ địa chính xã T, nay thuộc xã T).
Hiện trạng trên diện tích đất bị ảnh hưởng: một phần nhà 01 tầng mái tôn, tường
tôn gác gỗ.
Căn cứ theo khoản 5 Điều 98 Luật Đất đai năm 2013, khoản 01 Điều 12
Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ, Ủy ban nhân dân
6
huyện H ban hành Quyết định số 3447/QĐ-UBND ngày 28/9/2018 về việc thu
hồi đất của cá nhân, hộ gia đình để thực hiện Dự án nâng cấp, mở rộng đường T
(đoạn từ Đặng Thúc V đến N) đối với trường hợp bà Lê Thị P, Quyết định số
399/QĐ-UBND ngày 13/02/2020 về việc điều chỉnh Quyết định số 4408/QĐ-
UBND ngày 17/10/2018 của Ủy ban nhân dân huyện H về bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất của bà Lê Thị P để thực hiện Dự án bồi thường, giải phóng
mặt bằng, tái định cư phục vụ nâng cấp, mở rộng đường T (đoạn từ Đặng Thúc V
đến N), huyện H là đúng quy định pháp luật.
Vì vậy, đề nghị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên Thông báo
số 4380/TB-UBND ngày 26/8/2019 của Ủy ban nhân dân huyện H về việc khiếu
nại không đủ điều kiện giải quyết đối với trường hợp bà Lê Thị P; nội dung Quyết
định số 3447/QĐ-UBND ngày 28/9/2018 của Ủy ban nhân dân huyện H; đồng
thời bác đơn khởi kiện của bà Lê Thị P yêu cầu xác định lại phần diện tích đất bà
P bị thu hồi và áp mức giá bồi thường thỏa đáng.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan – Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện
H trình bày ý kiến tại Văn bản số 4078/UBND-TNMT ngày 29/7/2021 nội dung
tóm tắt như sau:
Trong quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo bà Lê Thị P không khiếu nại
Quyết định số 3447/QĐ-UBND ngày 28/9/2018 của Ủy ban nhân dân huyện H về
việc thu hồi đất của cá nhân, hộ gia đình để thực hiện dự án Nâng cấp, mở rộng
đường T. Tuy nhiên, theo hồ sơ lưu trữ thể hiện bà P có khiếu nại Quyết định số
4408/QĐ-UBND ngày 17/10/2018 của Ủy ban nhân dân huyện H về bồi thường,
hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất của bà Lê Thị P. Nội dung bà P khiếu nại đề nghị
đo đạc lại diện tích bị ảnh hưởng và bồi thường theo đơn giá 50.000.000 đồng/m
2
đối với đất bị ảnh hưởng.
Đối với nội dung bà P khiếu nại đề nghị đo đạc lại diện tích bị ảnh hưởng:
bà P cho rằng tổng diện tích bị ảnh hưởng dự án Nâng cấp, mở rộng đường T gần
200m
2
, không đồng ý với diện tích bị ảnh hưởng được xác định tại Quyết định số
3447/QĐ-UBND ngày 28/9/2018 của Ủy ban nhân dân huyện H về việc thu hồi
đất của cá nhân, hộ gia đình để thực hiện dự án Nâng cấp, mở rộng đường T là
109,4m
2
.
Ngày 26/8/2019, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện H ban hành Thông báo
số 4380/TB-UBND về việc khiếu nại không đủ điều kiện giải quyết đối với trường
hợp bà Lê Thị P. Cụ thể: Phần diện tích bị ảnh hưởng được thể hiện tại Bản đồ
hiện trạng vị trí đất số 102286-282/ĐĐBĐ CNHM-CC ngày 30/12/2016 của
Trung tâm Đo đạc bản đồ thuộc Sở T1 đã được xác định vị trí thực tế qua các nền
tài liệu bản đồ năm 1991 và tài liệu bản đồ 2005. Tổ công tác của Hội đồng bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư đã thực hiện đúng các bước trong quá trình kiểm đếm,
đo đạc. Việc xác định vị trí bị ảnh hưởng là 109,4m
2
đảm bảo đối chiếu các nền
tài liệu, áp ranh giấy chứng nhận theo quy định. Nên Ủy ban nhân dân huyện H
thông báo đến bà P được biết nội dung khiếu nại không đủ điều kiện thụ lý.
7
Đồng thời với việc thông báo khiếu nại không đủ điều kiện giải quyết, Ủy
ban nhân dân huyện H tiến hành thông tin đến bà Lê Thị P và các đơn vị liên quan
Văn bản số 4381/UBND ngày 26/8/2019 và Biên bản làm việc ngày 12/10/2019.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 163/2024/HC-ST ngày 20 tháng 5 năm
2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Bác yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị P về việc hủy Quyết định số 3447/QĐ-
UBND ngày 28/9/2018 của Ủy ban nhân dân huyện H về việc thu hồi đất của cá
nhân, hộ gia đình để thực hiện dự án Nâng cấp, mở rộng đường T (đoạn từ Đặng
Thúc V đến N).
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí hành chính sơ thẩm và quyền
kháng cáo theo luật định.
Ngày 27 tháng 5 năm 2024, bà Lê Thị P kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm,
đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà P.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện trình bày ý kiến tranh
luận: Thứ nhất, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì UBND huyện H đã
cấp đất cho bà P 340m
2
và bà P đã sử dụng diện tích này từ khi được cấp đất, bằng
chứng là bà P sử dụng ổn định và đóng thuế đầy đủ. Thứ hai, khi Ủy ban tiến hành
đo vẽ diện tích thu hồi đất là bản vẽ ngày 27/12/2016 không có mặt bà P, không
có biên bản đo vẽ nên bà P không chỉ ra được đất nào là của bà P. Hiện tại Ủy ban
cho rằng căn cứ vào biên bản đo vẽ thì không có cơ sở vì biên bản đo vẽ không
được bà P chỉ ranh, bản vẽ con đường cũ chưa mở rộng Ủy ban cũng không xuất
trình được để từ đó có thể tính toán diện tích khi mở rộng đường lấn chiếm bao
nhiêu. Phía người khởi kiện có đầy đủ cơ sở xác định diện tích đất của bà P là
340m
2
. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà P.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện trình bày ý kiến
tranh luận: UBND huyện H đã có ý kiến tại Công văn số 662/UBND-TNMT ngày
18/01/2021 đã có trình bày về nguồn gốc và quá trình sử dụng. Trong quá trình
điều tra, khảo sát, kiểm đếm thì Phòng T và Ban Bồi thường giải phóng mặt bằng
cũng đã thực hiện đo đạc xác định diện tích đất cụ thể thực tế sử dụng tại thời
điểm thu hồi để bồi thường theo Bản đồ hiện trạng vị trí đất số 102286-282/ĐĐBĐ
CNHM-CC ngày 30/12/2016 do Trung tâm Đo đạc bản đồ thuộc Sở T1 thực hiện
để làm cơ sở xác định diện tổng diện tích sử dụng thực tế tại thời điểm thu hồi.
UBND huyện có ý kiến tại Công văn số 662/UBND-TNMT ngày 18/01/2021 đề
nghị Tòa án cấp phúc thẩm bác đơn khởi kiện của người khởi kiện, giữ nguyên
Quyết định số 3447/QĐ-UBND ngày 28/9/2018 của Ủy ban nhân dân huyện H về
việc thu hồi đất của cá nhân, hộ gia đình để thực hiện dự án Nâng cấp, mở rộng
đường T (đoạn từ Đặng Thúc V đến N).
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham
gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
8
Về tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định
của Luật Tố tụng hành chính từ khi thụ lý vụ án cho đến khi xét xử phúc thẩm vụ
án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.
Về nội dung: Quyết định thu hồi đất của UBND huyện H là có căn cứ, đúng
thẩm quyền. Bà Lê Thị P kháng cáo nhưng không cung cấp chứng cứ mới để làm
thay đổi vụ án. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng
hành chính năm 2015, bác kháng cáo của người khởi kiện, giữ nguyên bản án sơ
thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ các tài liệu có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ
sở xem xét đầy đủ, toàn diện ý kiến tranh luận của các bên đương sự, ý kiến của
Đại diện Viện kiểm sát:
[1] Về tố tụng:
Tại phiên toà phúc thẩm hôm nay người bị kiện đã được triệu tập hợp lệ
nhưng vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng
Điều 225 Luật Tố tụng hành chính xét xử vắng mặt người bị kiện.
Về đối tượng khởi kiện và thẩm quyền giải quyết: Quyết định số 3447/QĐ-
UBND ngày 28/9/2018 của Ủy ban nhân dân huyện H về việc thu hồi đất của cá
nhân, hộ gia đình để thực hiện dự án Nâng cấp, mở rộng đường T (đoạn từ Đặng
Thúc V đến N) đối với trường hợp bà Lê Thị P là quyết định hành chính trong
lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại Điều 30, Điều 32 của Luật
Tố tụng hành chính.
Về thời hiệu khởi kiện: Ngày 24/6/2020, bà P nộp đơn khởi kiện yêu cầu
hủy Quyết định số 3447/QĐ-UBND ngày 28/9/2018 của Ủy ban nhân dân huyện
H. Nhận thấy, vào ngày 11/7/2019, bà P khiếu nại Quyết định số 4408/QĐ-UBND
ngày 17/10/2018 về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất của Ủy ban nhân
dân huyện H. Ngày 26/8/2019, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện H ban hành
Thông báo số 4380/TB-UBND về việc khiếu nại không đủ điều kiện giải quyết.
Đồng thời, trong nội dung quyết định giải quyết khiếu nại số 2270/QĐ-UBND
ngày 07/5/2020 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện H thể hiện bà P không đồng
ý với việc thu hồi thực tế vì thiếu của bà 43,3m
2
đất. Do đó, căn cứ theo Điều 116
Luật Tố tụng hành chính năm 2015, ngày 24/6/2020 bà P khởi kiện quyết định thu
hồi số 3447/QĐ-UBND ngày 28/9/2018 của Ủy ban nhân dân huyện H là vẫn còn
thời hiệu khởi kiện.
[2] Về nội dung:
[2.1] Bà Lê Thị P cho rằng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
0103/QSDĐ ngày 05/4/1993 có diện tích là 340m
2
, sau khi trừ đi diện tích bị thu
hồi 109,4m
2
và phần diện tích đã chuyển nhượng cho ông Lê Văn C là 75,4m
2
thì
diện tích còn lại của bà P phải là 155,4m
2
. Tuy nhiên hiện tại diện tích đất của bà
9
chỉ còn lại 113m
2
. Như vậy Ủy ban nhân dân huyện H đã bồi thường thiếu của bà
P 42,4m
2
.
Xét thấy, tuy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 0103/QSDĐ ngày
05/4/1993 do Ủy ban nhân dân huyện H cấp cho bà Lê Thị P tại một phần thửa số
1390, tờ bản đồ 01, xã T (hiện nay là xã T) có diện tích 340m
2
, nhưng phía Ủy
ban xác định tại thời điểm cấp giấy chứng nhận ủy ban không tiến hành đo đạc
xác định ranh giới thửa đất mà việc cấp cấp giấy chỉ dựa trên kê khai của chủ sử
dụng đất. Theo sổ bộ kê khai đăng ký thổ tập trung thể hiện tại thời điểm đó người
dân đăng ký hàng loạt, nên không tiến hành đo đạc xác định ranh giới cụ thể.
Ngày 16/5/2018, Ủy ban nhân dân huyện H ban hành Quyết định số
1538/QĐ-UBND về việc kiểm đếm bắt buộc đối với trường hợp bà Lê Thị P.
Ngày 14/6/2018, Ban Bồi thường giải phóng mặt bằng huyện có Biên bản
kiểm đếm bắt buộc điều tra hiện trạng dự án Nâng cấp, mở rộng đường T, huyện
H, được Ủy ban nhân dân xã T xác nhận phần đất bị ảnh hưởng bởi dự án đối với
trường hợp bà Lê Thị P có tổng diện tích là 109,4m
2
theo Bản đồ hiện trạng vị trí
đất số 102286-282/ĐĐBĐ CNHM-CC ngày 30/12/2016 của Trung tâm Đo đạc
bản đồ thuộc Sở T1. Như vậy, tại Biên bản kiểm đếm bắt buộc ngày 14/6/2018
Ủy ban nhân dân xã T xác nhận phần đất bị ảnh hưởng bởi dự án đối với trường
hợp bà Lê Thị P có tổng diện tích là 109,4m
2
.
Ngày 28/9/2018, Ủy ban nhân dân huyện H ban hành Quyết định số
3447/QĐ-UBND về việc thu hồi đất của cá nhân, hộ gia đình để thực hiện dự án
Nâng cấp, mở rộng đường T (đoạn từ Đặng Thúc V đến N) đối với trường hợp bà
Lê Thị P; theo đó thu hồi 109,4m
2
(trong đó: diện tích 81,1m
2
thuộc một phần các
thửa số 191, 188, thuộc tờ bản đồ số 83 (tài liệu năm 2005), xã T và diện tích
28,3m
2
là đường a theo Tài liệu năm 2005, xã T).
Căn cứ Bản đồ hiện trạng vị trí đất số 102286-282/ĐĐBĐ CNHM-CC ngày
30/12/2016 của Trung tâm Đo đạc bản đồ thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường
Thành phố T1 phần đất bị ảnh hưởng bởi dự án đối với trường hợp bà Lê Thị P
thể hiện phần đất của bà P bị thu hồi là 109,4m
2
thuộc một phần thửa 1390
-1
(theo
tài liệu 1991), thuộc một thửa 191
-1
diện tích 81m
2
và một phần đường (a) diện
tích 28,3m
2
. Như vậy, Ủy ban thực hiện thu hồi đúng diện tích 109,4m
2
tại Quyết
định số 3447/QĐ-UBND.
Như vậy, diện tích bị ảnh hưởng được thể hiện tại Bản đồ hiện trạng vị trí
đất số 102286-282/ĐĐBĐ CNHM-CC ngày 30/12/2016 của Trung tâm Đo đạc
bản đồ thuộc Sở T1 đã được xác định vị trí thực tế qua các nền tài liệu bản đồ năm
1991 và tài liệu bản đồ 2005. Tổ công tác của Hội đồng bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư đã thực hiện đúng các bước trong quá trình kiểm đếm, đo đạc. Việc xác
định vị trí bị ảnh hưởng là 109,4m
2
đảm bảo đối chiếu các nền tài liệu, áp ranh
giấy chứng nhận theo quy định. Do vậy, Quyết định số 3447/QĐ-UBND ngày
28/9/2018 của Ủy ban nhân dân huyện H là đúng quy định pháp luật.
[3] Diện tích đất 109,4m
2
bị ảnh hưởng bởi dự án của bà Lê Thị P, Ủy ban
nhân dân huyện đã xem xét, giải quyết bồi thường là loại đất ở theo Quyết định
10
số 28/2018/QĐ-UBND ngày 09/8/2018 của Ủy ban nhân dân Thành phố về bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố.
Ủy ban nhân dân huyện H ban hành Quyết định số 399/QĐ-UBND ngày
13/02/2020 của Ủy ban nhân dân huyện H về việc điều chỉnh Quyết định số
4408/QĐ-UBND ngày 17/10/2018 về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất khi nhà nước thu hồi đất của bà Lê Thị P để thực hiện dự án Nâng
cấp, mở rộng đường Tô Ký là đúng và đủ theo quy định của pháp luật.
[4] Quyết định giải quyết khiếu nại số 2270/QĐ-UBND ngày 07/5/2020
của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện H có nội dung công nhận và giữ nguyên
Quyết định số 399/QĐ-UBND ngày 13/02/2020 của Ủy ban nhân dân huyện H về
việc điều chỉnh Quyết định số 4408/QĐ-UBND ngày 17/10/2018 về bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất của bà Lê Thị P để thực hiện dự án
Nâng cấp, mở rộng đường T là có cơ sở.
Tòa án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của bà P là có căn cứ, Hội đồng
xét xử phúc thẩm thống nhất quan điểm đại diện Viện kiểm sát cấp cao, bác toàn
bộ yêu cầu kháng cáo của người khởi kiện, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[5] Về án phí hành chính sơ thẩm và án phí hành chính phúc thẩm: Do bà
Lê Thị P là người cao tuổi nên được miễn án phí theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính năm 2015;
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của người khởi kiện bà Lê Thị P. Giữ
nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 163/2024/HC-ST ngày 20 tháng 5 năm
2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh;
Căn cứ khoản 1 Điều 30, Điều 116, Điều 158, điểm a khoản 2 Điều 193
Luật Tố tụng hành chính 2015;
Căn cứ Luật Đất đai năm 2013;
Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Bác yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị P về việc hủy Quyết định số
3447/QĐ-UBND ngày 28/9/2018 của Ủy ban nhân dân huyện H về việc thu hồi
đất của cá nhân, hộ gia đình để thực hiện dự án Nâng cấp, mở rộng đường T (đoạn
từ Đặng Thúc V đến N).
2. Án phí hành chính sơ thẩm: Bà Lê Thị P được miễn án phí hành chính
sơ thẩm. Hoàn trả cho bà Lê Thị P số tiền tạm ứng án phí hành chính sơ thẩm đã
nộp là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa
án số AA/2019/0092681 ngày 28/9/2020 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố
Hồ Chí Minh.
11
3. Án phí hành chính phúc thẩm: Bà Lê Thị P được miễn án phí.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSNDCC tại TP.Hồ Chí Minh;
- TAND TP.HCM;
- VKSND TP.HCM;
- Cục THADS TP.HCM;
- Người khởi kiện;
- Người bị kiện;
- NCQLNVLQ;
- Lưu VT (5), HS (2) (BA- Tâm).
(1)
(1)
(1)
(1)
(1)
(1)
(1)
(1)
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Huỳnh Thanh Duyên
Tải về
Bản án số 1130/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 1130/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 14/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm