Bản án số 11/2022/HS-ST ngày 13/01/2022 của TAND TP. Thuận An, tỉnh Bình Dương về tội trốn khỏi nơi giam

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 11/2022/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 11/2022/HS-ST ngày 13/01/2022 của TAND TP. Thuận An, tỉnh Bình Dương về tội trốn khỏi nơi giam
Tội danh: 311.Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải,đang bị xét xử (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Thuận An (TAND tỉnh Bình Dương)
Số hiệu: 11/2022/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 13/01/2022
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 11/2022/HS-ST NGÀY 13/01/2022 VỀ TỘI TRỐN KHỎI NƠI GIAM

Ngày 13 tháng 01 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 402/2021/TLST-HS ngày 29 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 426/2021/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 11 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Đặng Văn M (Tên gọi khác: Phong), sinh năm 1995 tại Sóc Trăng; nơi ĐKHKTT: Ấp X, xã VT, huyện TT, tỉnh Sóc Trăng; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Đặng Quốc V và bà Lê Thị N; tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân:

- Bản án số 388/2016/HSST ngày 29/12/2016, Tòa án nhân dân thị xã (Nay là thành phố) Thuận An xử phạt 02 (Hai) năm tù về tội mua bán trái phép chất ma túy. Chấp hành xong hình phạt ngày 20/3/2018.

- Bản án số 344/2020/HS-ST ngày 10/12/2020, Tòa án nhân dân thành phố Thuận An xử phạt 09 (Chín) tháng tù về tội trộm cắp tài sản, chấp hành xong hình phạt ngày 17/5/2021.

Bị bắt tạm giam từ ngày 17/5/2021, có mặt tại phiên tòa.

2. Lý Bình D, sinh năm 1993 tại Bạc Liêu; nơi ĐKHKTT: Ấp NT 1, xã NH, huyện HD, tỉnh Bạc Liêu; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Lý Văn Đ và bà Ngô Thị Tr; có vợ tên Huỳnh Thị CL và 02 người con, con lớn sinh năm 2019, con nhỏ sinh năm 2020.

Tiền án: Bản án số 335/2011/HSST ngày 16/12/2011, Tòa án nhân dân thị xã (Nay là thành phố) Thuận An xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội cố ý gây thương tích, chấp hành xong hình phạt tù ngày 24/8/2014 (Chưa chấp hành xong bản án).

Tiền sự: Ngày 21/02/2000 bị Công an phường An Phú, thành phố Thuận An xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy;

Nhân thân: Bản án số 176/2021/HS-ST ngày 17/6/2021, Tòa án nhân dân thành phố Thuận An xử phạt 03 năm 09 tháng tù về tội cướp giật tài sản.

Bị cáo hiện đang chấp hành hình phạt tù tại Trại giam An Phước thuộc Cục C10 – Bộ Công an, có mặt tại phiên tòa.

3. Phạm Hồng L, sinh năm 1990 tại Bình Dương; nơi ĐKHKTT: Y, lô Z, khu phố ĐT, phường LT, thành phố TA, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Phạm Hồng C và bà Nguyễn Thị TT; tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân:

- Ngày 19/01/2016, Tòa án nhân dân thị xã (Nay là thành phố) Thuận An áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời gian 13 tháng, chấp hành xong ngày 02/9/2016;

- Bản án số 367/2020/HS-ST ngày 29/12/2020, Tòa án nhân dân thành phố Thuận An xử phạt 05 năm 09 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Bị cáo hiện đang chấp hành hình phạt tù tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bình Dương, có mặt tại phiên tòa.

4. Trần Văn Đ, sinh năm 1991 tại Cần Thơ; nơi ĐKHKTT: Tổ S, ấp PT, xã MP, huyện HĐ, tỉnh Kiên giang; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Trần Văn D và bà Phạm Thị T1; có vợ tên Phạm Thị TL và 02 người con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Ngày 28/02/2018, bị Công an huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc với số tiền 1.500.000 đồng (chưa chấp hành);

Nhân thân:

- Bản án số 41/2008/HSST ngày 25/9/2008 Tòa án nhân dân huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 năm về tội trộm cắp tài sản.

- Bản án số 30/2012/HSST ngày 02/7/2012 Tòa án nhân dân huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ xử phạt 18 tháng tù về tội trộm cắp tài sản.

- Bản án số 29/2014/HSST ngày 06/6/2014 Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang xử phạt 18 tháng tù về tội cố ý gây thương tích.

- Bản án số 43/2021/HS-ST ngày 03/3/2021, Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Bị cáo hiện đang chấp hành hình phạt tù tại Trại giam Tống Lê Chân thuộc Cục C10 – Bộ Công an, có mặt tại phiên tòa.

5. Nguyễn Đức Th, sinh năm 1995 tại Sóc Trăng; nơi ĐKHKTT: Ấp TB, xã VL, huyện TT, tỉnh Sóc Trăng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn B và bà Nguyễn Thị H; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 27/10/2019, Công an thành phố Thuận An xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Nhân thân:

- Ngày 11/7/2018 bị Công an phường Bình Chuẩn xử phạt vi phạm hành chính về hành vi tụ tập gây mất trật tự công cộng;

- Ngày 21/9/2018 bị Công an phường Bình Chuẩn xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc trái phép;

- Bản án số 341/2020/HS-ST ngày 08/12/2020, Tòa án nhân dân thành phố Thuận An xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Bị cáo hiện đang chấp hành hình phạt tù tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bình Dương, có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng:

- Ông Nguyễn Tiến Q, sinh năm 1992. Vắng mặt;

- Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1973. Vắng mặt;

- Ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1998. Vắng mặt;

- Ông Phạm Huỳnh Đăng K, sinh năm 1996. Vắng mặt;

- Ông Tống Long K1, sinh năm 2000. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đặng Văn M, Phạm Hồng L, Lý Bình D, Trần Văn Đ, Nguyễn Đức Th và Trần Lưu TV bị tạm giam chung tại phòng số 21, khu nhà A thuộc Nhà tạm giữ Công an thành phố Thuận An. Quá trình bị tạm giam, Đặng Văn M phát hiện có thể tháo gỡ thanh lam bê tông tại lỗ thông gió trên vách tường phía sau phòng giam để chui qua lỗ thông gió này ra ngoài nên nảy sinh ý định bỏ trốn. Khoảng 17 giờ ngày 22/11/2020, Đặng Văn M rủ Phạm Hồng L, Lý Bình D, Trần Văn Đ, Trần Lưu TV và Nguyễn Đức Th cùng nhau bỏ trốn khỏi phòng giam bằng thủ đoạn tháo gỡ thanh lam bê tông tại lỗ thông gió nêu trên rồi đợi tiếng chuông báo hiệu giờ vào ngủ buổi tối thì cùng nhau chui qua lỗ thông gió này ra ngoài thì Đ, L, D đồng ý, riêng Th và TV không đồng ý bỏ trốn. Sau đó M, Đ, D đã lần lượt đứng lên vai của Phạm Hồng L để dùng chân đạp, dùng tay đẩy phá, tháo gỡ được tấm lam bê tông bên phải của lỗ thông gió trong phòng giam tạo thành khoảng trống để chui ra ngoài. Sau khi tháo gỡ được thanh lam bê tông, Đ lấy cái mền vải màu cam của L xé ra, Đ và L cùng se, thắt lại tạo thành một sợi dây dài 06m nhằm sử dụng sau khi trèo qua lỗ thông gió sẽ dùng sợi dây này buộc vào xà gồ trên mái nhà để bám, thả người xuống đất bỏ trốn.

Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, sau khi nghe tiếng chuông báo hiệu giờ ngủ buổi tối thì lần lượt M đứng lên vai của L, L đứng lên vai của Đ, Đ đứng lên vai của D trèo ra khỏi phòng giam qua lỗ thông gió này. D là người ra sau cùng nhưng do lỗ thông gió cao vượt tầm với nên không thể tự trèo ra ngoài được, D nhờ Nguyễn Đức Th giúp bằng cách cho D đứng lên vai của Th để D bám vào lỗ thông gió trèo ra khỏi phòng giam. Sau khi trèo ra khỏi phòng giam, D nhờ Th lấy sợi dây vải nêu trên ném cho D. Sau khi M, L, Đ và D đã trèo ra khỏi phòng giam và lên lan can của khu A nhà tạm giữ thì tất cả cùng đi đến khu vực ngang vị trí cầu thang bộ của khu A. L buộc một đầu dây vải nêu trên vào thanh sắt xà gồ dưới cùng của mái tôn, một đầu còn lại thả tự do xuống mặt đất, sau đó M, Đ, D và L lần lượt dùng tay nắm vào sợi dây nêu trên đu xuống đất. Sau khi M, Đ, D và L chui ra khỏi phòng, Th kêu TV thức dậy và cả hai dùng tay đập cửa phòng giam tri hô báo cán bộ có phạm trốn; đồng thời ông Nguyễn Tiến Q – Cán bộ Nhà tạm giữ Công an thành phố Thuận An đang đi tuần tra phía sau các phòng giam khu A đã phát hiện các bị cáo M, Đ, D và L vừa đu dây xuống đến mặt sân nhà tạm giữ nên tri hô “Có phạm trốn, có phạm trốn” để báo cho đồng đội trong ca trực là các ông Nguyễn Văn H, Nguyễn Minh K (Cán bộ quản giáo) và Phạm Huỳnh Anh Kh, Tống Long K1 (Cảnh sát bảo vệ) cùng phối hợp bắt được các bị cáo D, L, M và Đ trong lúc chạy trốn. Vụ việc được Công an thành phố Thuận An lập biên bản phạm tội quả tang và chuyển đến Cơ quan cảnh sát điều tra công an tỉnh Bình Dương thụ lý điều tra theo thẩm quyền.

Ngày 21/12/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Dương khởi tố vụ án; ngày 29/12/2020 khởi tố bị can đối với Đặng Văn M, Phạm Hồng L, Trần Văn Đ sau đó chuyển hồ sơ cho Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Thuận An để điều tra theo thẩm quyền. Ngày 30/7/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An khởi tố bị can đối với Nguyễn Đức Th.

Bản Cáo trạng số 401/CT-VKSTA ngày 25/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương truy tố Đặng Văn M, Lý Bình D, Phạm Hồng L; Trần Văn Đ và Nguyễn Đức Th về tội trốn khỏi nơi giam theo khoản 1 Điều 386 của Bộ luật Hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Sau đây gọi tắt là Bộ luật Hình sự).

Tại phiên tòa:

Kiểm sát viên giữ quyền công tố và kiểm sát xét xử giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung Cáo trạng và đề nghị căn cứ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 386 của Bộ luật Hình sự xử phạt Đặng Văn M từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù; Phạm Hồng L từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù; xử phạt Trần Văn Đ từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù và Nguyễn Đức Th từ 09 tháng đến 01 năm tù; đề nghị áp dụng thêm điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Lý Bình D từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù. Đề nghị áp dụng các điều 55, 56 của Bộ luật Hình sự tổng hợp bản án đối với các bị cáo Duong, Lai, Được, Th và đề nghị tịch thu, tiêu hủy vật chứng theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Đặng Văn M, Trần Văn Đ; Lý Bình D; Phạm Hồng L và Nguyễn Đức Th khai nhận toàn bộ hành vi đã thực hiện đúng như Cáo trạng đã truy tố. Trong lời nói sau cùng, các bị cáo nhận thấy hành vi của mình là sai trái, vi phạm pháp luật, ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, cán bộ điều tra, Kiểm sát viên, cơ quan điều tra và Viện kiểm sát đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không khiếu nại, tố cáo về các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Về hành vi của các bị cáo: Qua tranh tụng tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận đã cùng bàn bạc với nhau để phá dỡ thanh lam bê tông trên lỗ thông gió của phòng số 21 khu A của Nhà tạm giữ công an thành phố Thuận An để trốn ra ngoài, thoát khỏi sự giam giữ của Cơ quan tiến hành tố tụng.

[3] Về lỗi của các bị cáo: Khi thực hiện hành vi nêu trên, các bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện nhằm mục đích trốn được ra ngoài.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo M, Đ, L, và Th không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo Dương chưa chấp hành xong phần trách nhiệm dân sự của Bản án số 335/2011/HSST ngày 16/12/2011 của Tòa án nhân dân thị xã (Nay là thành phố) Thuận An nên chưa được xóa án tích, do đó phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau phạm tội các bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về nhân thân: Các bị cáo đều có nhân thân xấu.

[7] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ tạm giữ, tạm giam trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, đồng thời xâm phạm đến hoạt động bình thường của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. Do đó, Viện kiểm sát truy tố và Tòa án nhân dân thành phố Thuận An đưa các bị cáo ra xét xử là cần thiết, cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để răn đe, giáo dục đối với các bị cáo và răn đe các đối tượng khác phòng ngừa chung.

[8] Các bị cáo thực hiện tội phạm dưới hình thực đồng phạm giản đơn, theo quy định tại Điều 17 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự cần phân hóa vai trò của từng bị cáo để có mức hình phạt phù hợp. Bị cáo Đặng Văn M là người chủ mưu, rủ rê các bị cáo khác; Bị cáo L, Đ, D là người thực hành; bị cáo Th không tham gia bỏ trốn nhưng có vai trò đồng phạm giúp sức cho bị cáo D. Do đó, trong vụ án này vai trò của bị cáo M là cao nhất; vai trò của các bị cáo D, Đ và L là ngang nhau; bị cáo Th có vai trò thấp nhất.

[9] Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An đề nghị xử phạt các bị cáo Đặng Văn M, Trần Văn Đ, Phạm Hồng L, Lý Bình D và Nguyễn Đức Th mức hình phạt như nêu trên là có căn cứ, phù hợp với tính chất, hành vi phạm tội của các bị cáo và đã cân nhắc đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của từng bị cáo nên được chấp nhận. Đối với bị cáo Lý Bình D hiện nay có hai con còn nhỏ (con lớn sinh năm 2019, con nhỏ sinh năm 2020) nên cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt so với đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát, tạo điều kiện cho bị cáo sớm trở về với gia đình, cùng với vợ bị cáo chăm sóc hai người con còn nhỏ.

[10] Về tổng hợp bản án:

Bị cáo Lý Bình D hiện đang chấp hành hình phạt 03 năm 09 tháng tù về tội cướp giật tài sản tại Bản án số 176/2021/HS-ST ngày 17/6/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Thuận An; bị cáo Phạm Hồng L đang chấp hành hình phạt 05 năm 09 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy tại Bản án số 367/2020/HS-ST ngày 29/12/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Thuận An; bị cáo Nguyễn Đức Th đang chấp hành hình phạt 01 năm 06 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy tại Bản án số 341/2020/HS-ST ngày 08/12/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Thuận An; bị cáo Trần Văn Đ đang chấp hành hình phạt 01 năm 06 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy tại Bản án số 43/2021/HS-ST ngày 03/3/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương nên căn cứ vào các điều 55 và 56 của Bộ luật Hình sự để tổng hợp bản án, tổng hợp hình phạt đối với các bị cáo.

[11] Đối với Trần Lưu TV là người cùng giam chung với các bị cáo, khi được bị cáo Mến rủ nhưng không cùng tham gia nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Vân là đúng quy định.

[12] Về xử lý vật chứng: Quá trình kiểm tra, bắt giữ các bị cáo đã thu giữ một tấm lam bê tông, một mảnh vải màu cam và một dây vải màu cam có chiều dài 06m đây là vậy chứng các bị cáo dùng để thực hiện tội phạm, không có giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy.

[13] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH:

1. Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố các bị cáo Đặng Văn M, Trần Văn Đ, Lý Bình D, Nguyễn Đức Th và Phạm Hồng L phạm tội trốn khỏi nơi giam.

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 386; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Đặng Văn M 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 17/5/2021.

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 386; điểm s khoản 1 Điều 51; các điều 17, 55, 56 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Trần Văn Đ 01 (Một) năm tù về tội trốn khỏi nơi giam; tổng hợp hình phạt 01 năm 06 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy tại Bản án số 43/2021/HS-ST ngày 03/3/2021 buộc bị cáo Trần Văn Đ phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 17/8/2020.

Xử phạt bị cáo Phạm Hồng L 01 (Một) năm tù về tội trốn khỏi nơi giam; tổng hợp hình phạt 05 năm 09 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy của bản án số 367/2020/HS-ST ngày 29/12/2020 buộc bị cáo Phạm Hồng L phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 06 (Sáu) năm 09 (Chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 18/8/2020.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức Th 09 (Chín) tháng tù về tội trốn khỏi nơi giam; tổng hợp hình phạt 01 năm 06 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy của Bản án số 341/2020/HS-ST Ngày 08/12/2020 buộc bị cáo Nguyễn Đức Th phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 02 (Hai) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 12/8/2020.

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 386; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; các điều 17, 55, 56 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Lý Bình D 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù về tội trốn khỏi nơi giam; tổng hợp hình phạt 03 năm 09 tháng tù về tội cướp giật tài sản của bản án số 176/2021/HS-ST ngày 17/6/2021 buộc bị cáo Lý Bình D phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 05 (Năm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 15/10/2020.

2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Tịch thu, tiêu hủy một tấm lam bê tông, một mảnh vải màu cam và một dây vải màu cam dài 06m (Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 29/10/2021).

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV:

Mỗi bị cáo Đặng Văn M, Trần Văn Đ, Nguyễn Đức Th, Lý Bình D và Phạm Hồng L phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. 

Tải về
Bản án số 11/2022/HS-ST Bản án số 11/2022/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất