Bản án số 10/2019/LĐ-ST ngày 17/07/2019 của TAND TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp về bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp công lập đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 10/2019/LĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 10/2019/LĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 10/2019/LĐ-ST ngày 17/07/2019 của TAND TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp về bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp công lập đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp công lập đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Hồ Chí Minh |
Số hiệu: | 10/2019/LĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 17/07/2019 |
Lĩnh vực: | Lao động |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | chấp nhận yêu cầu khởi kiện |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 10/2019/LĐ – ST
Ngày: 17/07/2019
V/v “Tranh chấp về bồi thường
thiệt hại”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10 - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Lê Thanh Huyền
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Phạm Hồng Hải
Ông Nguyễn Tuấn Minh
- Thư ký phiên tòa: Ông Hoàng Đức Anh – Cán bộ Tòa án nhân dân Quận 10,
Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Hoàng Thế Đức – Kiểm sát viên.
Ngày 17 tháng 07 năm 2019 tại Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí
Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 07/2019/TLST-LĐ ngày 26 tháng 04
năm 2019 về việc “Tranh chấp bồi thường thiệt hại”.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 83/2019/QĐXXST-LĐ ngày 04 tháng
06 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên toà số: 60/2019/QĐST-LĐ ngày 25 tháng 06
năm 2019 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn B
Địa chỉ: Lầu 8, 162 đường P, phường B, Quận A, TP.H
Người đại diện hợp pháp: Bà Tống Thị Ngọc Đ- sinh năm 1991 (có đơn đề
nghị xét xử vắng mặt) là người đại diện theo ủy quyền (văn bản ủy quyền ngày
09/07/2018)
Bị đơn: Bà Nguyễn Kim T– sinh năm 1988 (vắng mặt)
Thường trú: 72B Quang Trung, Khóm C, Phường E, Thành phố C
Địa chỉ: 575/31 đường C, Phường M, Quận T, TP.H
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại đơn khởi kiện ngày 11/07/2018 và quá trình giải quyết vụ án, đại
diện nguyên đơn là bà Tống Thị Ngọc Đ trình bày:
Bà Nguyễn Kim T làm việc tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn B (viết tắt là
Công ty B) từ ngày 13/11/2017 theo Hợp đồng thử việc số 012/2017/HDTV ngày
13/11/2017 và sau đó là Hợp đồng lao động số 001/2018-HĐLĐ ngày 14/01/2018.
Thời hạn hợp đồng là 01 năm từ ngày 14/01/2018 đến ngày 14/01/2019, công việc
của bà Tlà nhân viên chăm sóc khách hàng, cụ thể là xử lý và quản lý việc đặt vé máy
bay, xe lửa, xe khách, phà và các công việc khác được giao theo yêu cầu của quản lý.
Ngày 11/02/2018, bộ phận kế toán của Công ty B phát hiện nhiều vé tàu và vé
2
xe bị tính công nợ bởi đường sắt Việt Nam và nhà xe Phương Trang nhưng không
nhận được thanh toán từ khách hàng trong hệ thống quản lý của công ty. Vì nghi ngờ
bà Tcó sự gian dối, bộ phận quản lý đã báo cáo Ban giám đốc yêu cầu bà Tgiải trình
và xác minh vụ việc.
Ngày 12/02/2018 Công ty tổ chức họp và bà T đã thừa nhận lợi dụng nhiệm vụ
được giao để đặt vé cho các cá nhân trong phạm vi mối quan hệ bạn bè. Sau khi đặt
vé thành công và thanh toán bằng công nợ của công ty, bà T phối hợp cùng các cá
nhân liên quan hoàn vé và lấy tiền mặt tại Ga Sài Gòn nhận số tiền là 43.959.000
đồng và vé của Công ty Phương Trang nhận số tiền là 9.534.000 đồng. Tại buổi họp
bà T đã ký vào thư cảnh báo và cam kết sẽ hoàn trả toàn bộ số tiền gây thiệt hại cho
Công ty B. Sau đó bà T nghỉ việc từ ngày 13/02/2018.
Công ty B đã nhắc qua email vào ngày 26/02/2018 và ngày 28/02/2018 nhắc bà
Ttrả tiền nhưng bà T không trả. Ngày 27/04/2018 bà T làm văn bản cam kết trả tiền
trước ngày 31/05/2018 nhưng vẫn không trả.
Theo kết quả kiểm tra thì bà T đang chiếm giữ của Công ty B tổng số tiền là
58.376.000 đồng. Công ty B yêu cầu bà Tphải trả ngay một lần số tiền bà T gây thiệt
hại cho Công ty B là 58.376.000 đồng.
* Trong quá trình giải quyết vụ án: Tòa án đã thực hiện thủ tục tống đạt cho
bà Nguyễn Kim T các văn bản tố tụng: Thông báo thụ lý vụ án, Giấy triệu tập, Thông
báo hòa giải theo qui định tại các Điều 177, 179 của Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng bà
T không đến làm việc và hòa giải. Ngày 23/05/2019, Tòa án lập biên bản về việc
không tiến hành hòa giải được do bị đơn là bà Nguyễn Kim T đã được triệu tập hợp
lệ nhưng vắng mặt và Công ty B đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải.
* Tại phiên tòa:
Chủ tọa phiên tòa công bố: Đại diện nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng
mặt, bị đơn đã được triệu tập tham gia phiên tòa hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt
không có lý do.
Chủ tọa công bố tóm tắt nội dung vụ án và tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ
án. Hội đồng xét xử thảo luận về những vấn đề cần giải quyết trong vụ án.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 10 phát biểu:
Về thủ tục tố tụng:
Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án và tại phiên tòa hôm
nay, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng quy trình tố
tụng giải quyết vụ án. Nguyên đơn chấp hành đúng quy định pháp luật. Bị đơn đã
được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không tham gia các buổi làm việc, không tham
gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải là đã
tự từ bỏ quyền trình bày và cung cấp chứng cứ của mình.
Về nội dung vụ án:
Căn cứ tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, nhận thấy bà Nguyễn Kim T đã
gây thiệt hại cho Công ty B số tiền là 58.376.000 đồng và có cam kết sẽ hoàn trả
3
trước ngày 31/05/2018 nhưng đến nay vẫn không trả. Do đó Công B yêu cầu bà
Tphải trả ngay số tiền thất thoát còn lại 58.376.000 đồng là có cơ sở chấp nhận.
Về án phí: Bà T phải chịu án phí tính trên số tiền phải trả cho Công B. Trả lại
cho Công B số tiền tạm ứng án phí đã nộp.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa
và kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thẩm quyền của Tòa án: Theo xác minh ngày 11/03/2019 của Công an
Phường 5, Thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau thì bà Nguyễn Kim T có hộ khẩu thường
trú tại nhà số 72B Quang Trung, Khóm C, Phường E, Thành phố C nhưng đã bỏ đi từ
lâu và không rõ đi đâu. Thời điểm vào làm việc tại Công ty B, bà T khai địa chỉ tại số
575/31 đường C, Phường M, Quận T, TP.H nên hợp đồng thử việc và hợp đồng lao
động bà Tký kết với Công ty B đều ghi địa chỉ này của bà T.
Như vậy thời điểm Công ty B nộp đơn khởi kiện bà T vào ngày 17/07/2018 do
không biết nơi cư trú của bà Tnên ghi địa chỉ của người bị kiện là nơi cư trú cuối
cùng tại nhà số 575/31 đường C, Phường M, Quận T, TP.H là đúng quy định tại
Điểm đ Khoản 4 Điều 189 của Bộ luật Tố tụng dân sự và hướng dẫn tại Khoản 2
Điều 5 Nghị Quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/05/2017 của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân Tối cao. Nơi cư trú cuối cùng của bị đơn tại Quận 10 nên vụ án
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 10 theo quy định tại khoản 3
Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân
sự.
[2] Đại diện nguyên đơn đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn đã được
triệu tập tham gia phiên tòa hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không phải vì sự kiện
bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử
vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 238 của Bộ luật
Tố tụng dân sự.
[3] Xét yêu cầu của nguyên đơn:
Hội đồng xét xử nhận thấy, qua các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và lời trình
bày của các đương sự đã có đủ cơ sở xác định:
Bà Nguyễn Kim T làm việc tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn B theo Hợp đồng
thử việc số 012/2017/HDTV ngày 13/11/2017 và Hợp đồng lao động số 001/2018-
HĐLĐ ngày 14/01/2018 ký giữa hai bên. Công việc của bà T là nhân viên chăm sóc
khách hàng, cụ thể là xử lý và quản lý việc đặt vé máy bay, xe lửa, xe khách, phà.
Ngày 13/02/2018 bà T nghỉ việc.
Theo Công ty B trong thời gian làm việc bà T đã lợi dụng nhiệm vụ được giao
gây thiệt hại cho Công ty B số tiền là 58.376.000 đồng nhưng không trả lại nên Công
B yêu cầu bà Tphải trả ngay số tiền gây thiệt hại là 58.376.000 đồng.
Xét thấy, bà T đã ký vào thư cảnh báo ngày 12/02/2018 có thừa nhận lợi dụng
nhiệm vụ được giao để đặt vé cho các cá nhân, sau khi đặt vé thành công và thanh
toán bằng công nợ của Công ty B, bà T phối hợp cùng các cá nhân liên quan hoàn vé
4
và lấy tiền mặt tại ga Sài Gòn và của Công ty Phương Trang nhưng không trả lại cho
Công ty B. Bà Tcó cam kết sẽ hoàn trả toàn bộ số tiền làm thất thoát cho Công ty B
nhưng không thực hiện. Công ty B đã nhắc qua email ngày 26/02/2018 và ngày
28/02/2018, đến ngày 27/04/2018 bà Tlàm văn bản cam kết sẽ trả số tiền 48.842.000
đồng trước ngày 31/05/2018 nhưng đến nay vẫn không trả cho Công ty B. Tuy bà
Tchỉ cam kết trả số tiền là 48.842.000 đồng nhưng căn cứ vào kết quả kiểm tra đã
thống kê thì số tiền bà Tđang chiếm giữ của Công ty B là 58.376.000 đồng.
Bà T đã làm thất thoát tiền bán vé, đã cam kết trả cho Công ty B nhưng không
trả đúng hạn. Số tiền bà T chiếm giữ đã lâu, nếu kéo dài sẽ gây thiệt hại quyền lợi
chính đáng của Công ty B. Do đó chấp nhận yêu cầu của Công ty B buộc bà Tphải trả
cho Công ty B số tiền gây thiệt hại 58.376.000 đồng ngay sau khi bản án có hiệu lực
pháp luật.
Từ nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn.
[3] Về án phí: Bà T phải chịu án phí tính trên số tiền phải trả cho Công B là
1.751.280 đồng. Trả lại cho Công B số tiền tạm ứng án phí đã nộp.
[4] Phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 10 tại phiên tòa là phù
hợp với phần nhận định của Hội đồng xét xử.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
Điều 238, Điều 266, Điều 271, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Căn cứ Điều 130 của Bộ luật Lao động;
- Căn cứ Điều 468 của Bộ luật Dân sự;
- Căn cứ Điều 32 Nghị định 05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/2015 của Chính phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật Lao động;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng
án phí và lệ phí Tòa án;
- Căn cứ Luật thi hành án dân sự;
Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Trách nhiệm hữu hạn B.
Bà Nguyễn Kim T có nghĩa vụ trả cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn B số tiền
gây thiệt hại là 58.376.000 đồng (năm mươi tám triệu, ba trăm bảy mươi sáu đồng).
Việc trả tiền được thực hiện một lần tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm
quyền ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Kể từ khi Công ty Trách nhiệm hữu hạn B có đơn yêu cầu thi hành án cho đến
khi thi hành án xong khoản tiền nói trên, hàng tháng bà Nguyễn Kim T còn phải chịu
5
khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất qui định tại Điều 468
của Bộ luật Dân sự tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
2. Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Kim T chịu án phí dân sự sơ thẩm số
tiền là 1.751.280 đồng (một triệu, bảy trăm năm mươi mốt nghìn, hai trăm tám mươi
đồng). Trả lại cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn B số tiền tạm ứng án phí đã nộp là
875.640 đồng (tám trăm bảy mươi lăm nghìn, sáu trăm bốn mươi đồng) theo biên lai
số: AA/2018/0016073 ngày 23/07/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10,
Thành phố Hồ Chí Minh.
Công ty Trách nhiệm hữu hạn B, bà Nguyễn Kim T có quyền kháng cáo bản án
trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
Thi hành án dân sự./.
Nơi nhận:
- TANDTP-VKSNDTP;
- VKSND Q.10;
- Chi cục THADS Q.10;
- Các đương sự,
- Lưu VP, hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN- CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Thanh Huyền
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 22/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 21/09/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 03/08/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 18/07/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 14/08/2017
Cấp xét xử: Sơ thẩm