Bản án số 02/2025/LĐ-ST ngày 31/03/2025 của TAND TP. Hải Phòng về tranh chấp về bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp công lập đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 02/2025/LĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 02/2025/LĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 02/2025/LĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 02/2025/LĐ-ST ngày 31/03/2025 của TAND TP. Hải Phòng về tranh chấp về bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp công lập đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp công lập đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Hải Phòng |
Số hiệu: | 02/2025/LĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 31/03/2025 |
Lĩnh vực: | Lao động |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp về bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp đưa người lao động đi đào tạo nghề tại Hàn Quốc. Sau khi đào tạo nghề người lao động tự ý trốn ở lại Hàn Quốc, không trở về Việt Nam tiếp tục làm việc. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Bản án số: 02/2025/LĐ-ST
Ngày 31-3-2025
V/v tranh chấp về bồi thường thiệt hại
khi Sa thải và yêu cầu bồi thường thiệt
hại theo hợp đồng đào tạo
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên toà: Ông Nguyễn Quang Kiên.
Các Hội thẩm nhân dân:
Ông Nguyễn Thanh Hải;
Ông Trần Ngọc Tân.
- Thư ký phiên toà: Ông Phạm Quang Bảo - Thư ký Toà án nhân dân thành
phố Hải Phòng.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng tham gia phiên
tòa: Bà Phạm Thị Duyên - Kiểm sát viên.
Ngày 31 tháng 3 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng
xét xử sơ thẩm công khai vụ án lao động thụ lý số 07/2024/TLST-LĐ, ngày 11
tháng 10 năm 2024, về việc: Tranh chấp về bồi thường thiệt hại khi sa thải và yêu
cầu bồi thường thiệt hại theo hợp đồng đào tạo, theo Quyết định đưa vụ án ra xét
xử số 01/2025/QĐXXST-LĐ, ngày 27 tháng 02 năm 2025 và Quyết định hoãn
phiên tòa số 02/2025/QĐST-LĐ, ngày 14 tháng 3 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn L1; địa chỉ trụ sở: Lô A, Khu
công nghiệp T, phường H, quận A, thành phố Hải Phòng.
Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn: Ông Ngô Văn P và bà Trần
Thị Thùy L - Luật sư Công ty L2, Đoàn Luật sư thành phố H; vắng mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Dương Văn
C, bà Nguyễn Thị M và ông Lưu Thanh H - Luật sư Công ty L2, Đoàn Luật sư
thành phố H; vắng mặt.
- Bị đơn: Anh Nguyễn Mạnh H1, sinh năm 1992; nơi đăng ký thường trú:
Thôn V, xã T, huyện A, thành phố Hải Phòng; nơi ở hiện nay: Hàn Quốc (không
xác định được địa chỉ cư trú); vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Phùng Thị Y, sinh năm
1994; địa chỉ: Thôn V, xã T, huyện A, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
2
Theo đơn khởi kiện và các bản tự khai trong quá trình giải quyết vụ án,
người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày: Ngày 01/12/2020 Công ty
Trách nhiệm hữu hạn L1 (sau đây viết tắt là Công ty L1) ký hợp đồng lao động số
VH001062 với anh Nguyễn Mạnh H1; loại hợp đồng: Không xác định thời hạn;
làm việc tại Công ty L1; chức danh chuyên môn: Công nhân kỹ thuật. Để phục vụ
cho nhu cầu mở rộng sản xuất, tăng vốn đầu tư tại Việt Nam, Công ty L1 đã có
quyết định cử một số lao động đi đào tạo tại Hàn Quốc, trong đó có anh Nguyễn
Mạnh H1.
Ngày 24/3/2023 Công ty L1 và anh H1 có ký kết hợp đồng đào tạo về việc
cử anh H1 đi đào tạo tại Hàn Quốc. Nội dung hợp đồng đào tạo có các nội dung
chính như sau: Địa điểm tổ chức: Nhà máy L3, G-do, Hàn Quốc; thời gian đào tạo:
67 ngày (từ ngày 24/01/2024 đến ngày 30/3/2024); chi phí đào tạo bao gồm: Chi
phí tổ chức khóa học; vé máy bay; chi phí đi lại; phụ cấp lưu trú và công tác phí; lệ
phí visa; chi phí ăn, ở trong thời gian đào tạo; tiền lương, tiền đóng bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm y tế cho người lao động trong thời gian đào tạo và các khoản hỗ trợ
khác theo chính sách của Công ty L1. Dự tính tổng chi phí cho khóa học là:
133.071.390 đồng, trong đó: Tiền lương: 19.163.075 đồng, chi phí vé máy bay:
16.400.000 đồng, công tác phí: 4.355 USD tính theo tiền USD tương đương với số
tiền 104.681.135 đồng, chi phí bảo hiểm (BHXH, BHYT, BHTN, Bảo hiểm tai
nạn): 4.589.531 đồng, chi phí chỗ ở: 68.744.144 đồng, chi phí cấp Visa: 880.000
đồng, tiền ăn: 17.186.974 đồng, phí xe buýt đưa đón: 6.107.667 đồng (tương
đương với 152.692 đồng/ngày). Sau thời gian đào tạo, người lao động cam kết làm
việc cho Công ty L1 (một) năm cho thời gian đào tạo từ 60 ngày trở lên. Nếu
người lao động vi phạm thời gian cam kết làm việc cho Công ty L1 thì phải bồi
thường 100% chi phí đào tạo nếu thời gian làm việc dưới 50% cam kết. Từ 51%-
80% thời gian cam kết thì phải bồi thường 70% chi phí đào tạo; từ 81% đến dưới
100% thời gian cam kết thì phải bồi thường 30% chi phí đào tạo, phạt gấp 2 lần chi
phí đào tạo. Ngoài ra, nếu người lao động vi phạm hợp đồng thì sẽ phải chịu khoản
tiền phạt gấp 02 (hai) lần chi phí đào tạo.
Để đảm bảo người lao động thực hiện đúng, đầy đủ các nghĩa vụ theo Hợp
đồng đào tạo, ngày 22/01/2024 chị Phùng Thị Y (vợ của anh Nguyễn Mạnh H1) đã
ký Hợp đồng bảo lãnh số VH001062/HĐBL-LG với Công ty L1. Theo đó, chị Y
đồng ý bảo lãnh thanh toán toàn bộ nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh theo Hợp đồng
đào tạo số VH001062/HDDT-LG ký ngày 24/3/2023 giữa anh H1 và Công ty L1,
bao gồm các nghĩa vụ: Chi phí đào tạo nghề, tiền phạt vi phạm hợp đồng, tiền bồi
thường thiệt hại (nếu có), tiền lãi trong trường hợp chậm thanh toán các khoản tiền
thuộc phạm vi bảo lãnh thực hiện Hợp đồng đào tạo, Công ty L1 đã xin Visa, mua
vé máy bay khứ hồi hai chiều cho anh H1 với ngày đi là 24/01/2024 và ngày về là
30/3/2024.
Ngày 24/01/2024 anh H1 đến Hàn Quốc theo đúng kế hoạch để tham gia
khóa đào tạo. Tại sân bay, Công ty L1 bố trí xe đưa đón, chở cả đoàn về ký túc xá
của Công ty tại địa chỉ: Số A, C-ro 2-gil, G-si, G-do, Hàn Quốc. Ngày 31/01/2024
Công ty phát hiện anh H1 đã tự ý rời khỏi ký túc xá tại Hàn Quốc mà không thấy
quay trở về để tham gia khoá đào tạo. Sau đó Công ty L1 đã liên tục gọi điện thoại
3
liên hệ với anh H1 nhưng không được. Do anh H1 tự ý bỏ đào tạo, không tiếp tục
làm việc cho Công ty, vi phạm thỏa thuận tại Hợp đồng lao động và Hợp đồng đào
tạo nên ngày 25/7/2024 Công ty L1 đã ra quyết định Sa thải anh Nguyễn Mạnh H1
theo Quyết định số VH005085/QK-KL sau 03 lần thông báo yêu cầu anh H1 quay
trở lại làm việc vào các ngày 20/02/2024, 06/03/2024 và 13/03/2024 và mời tham
dự họp kỷ luật vào ngày 25/7/2024. Ngoài việc gửi thư thông báo, đại diện Công ty
L1 cũng đã đến nhà anh H1 gặp bố mẹ và vợ anh H1 để thông báo về việc anh H1
tự ý bỏ khóa đào tạo, nhờ liên hệ với anh H1 nhưng đều không có kết quả. Việc
anh H1 tự ý bỏ khoá đào tạo không thông báo dẫn tới cả đoàn 44 người lao động
được cử sang đào tạo tại Hàn Quốc đã phải quay trở về Việt Nam gây thiệt hại lớn
cho Công ty L1 và ảnh hưởng tới hoạt động của nhà máy tại Việt Nam khi không
đào tạo đủ nhân lực để phát triển.
Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
1. Yêu cầu bị đơn phải bồi thường cho nguyên đơn thiệt hại do việc chấm
dứt hợp đồng lao động trái pháp luật bao gồm: ½ tháng tiền lương theo hợp đồng
lao động là 2.647.715 đồng; khoản tiền lương tương ứng với 45 ngày nghỉ việc
không báo trước tương ứng với số tiền: 7.943.145 đồng. Tổng số yêu cầu bồi
thường 10.590.860 đồng.
2. Yêu cầu bị đơn phải hoàn trả chi phí đào tạo là 29.761.968 đồng (bao
gồm: Chi phí Visa: 880.000 đồng; vé máy bay: 16.400.000 đồng; tiền ăn 08 ngày:
2.052.176 đồng (từ ngày 24/01/2024 đến ngày 31/01/2024 x 02 bữa x 128.261
đồng); chi phí xe buýt đưa đón: 1.221.536 đồng (xe đưa đón 08 ngày x 152.692
đồng/ngày); chi phí chỗ ở ký túc xá: 8.208.256 đồng (08 ngày x 1.026.032 đồng);
bảo hiểm tai nạn: 1.000.000 đồng/người.
3. Yêu cầu bị đơn phải trả tiền phạt do vi phạm hợp đồng với số tiền bằng
hai lần chi phí đào tạo là 59.523.936 đồng (29.761.968 đồng đồng x 2).
Trong đơn đề nghị đề ngày 16/3/2025 nguyên đơn đề nghị rút một phần yêu
cầu khởi kiện về việc yêu cầu bị đơn phải trả cho nguyên đơn một nửa (½) tháng
tiền lương và tiền lương của những ngày không báo trước.
Đối với bị đơn (anh Nguyễn Mạnh H1): Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án
đã tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng của Toà án nhưng
bị đơn không cung cấp lời khai, không đến Tòa án để giải quyết vụ án. Tại các
phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải và tại phiên toà bị đơn đều vắng
mặt không có lý do. Toà án đã gửi công văn đến Phòng Quản lý xuất nhập cảnh -
Công an thành phố H và nhận được công văn trả lời: Anh Nguyễn Mạnh H1 đã
xuất cảnh lần gần nhất vào ngày 23/01/2024 bằng hộ chiếu số N1722434 qua Cửa
khẩu Sân bay quốc tế N, đến nay chưa có thông tin nhập cảnh trở lại.
Do bị đơn đã rời khỏi lãnh thổ Việt Nam và không có địa chỉ nơi đến nên
Toà án không thể thực hiện việc uỷ thác tư pháp ra nước ngoài để tống đạt cho bị
đơn. Toà án đã tiến hành thủ tục niêm yết các văn bản tố tụng tại nơi cư trú cuối
cùng của bị đơn và tiến hành các thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật đối
với trường hợp bị đơn cố tình che dấu địa chỉ.
4
Tại biên bản ghi lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị
Phùng Thị Y (là vợ của bị đơn, đồng thời là người ký hợp đồng bảo lãnh cho bị
đơn đi đào tạo tại Hàn Quốc) trình bày: Từ thời điểm anh Nguyễn Mạnh H1 đi
sang Hàn Quốc đến nay, anh H1 rất ít khi liên lạc về nhà, không có trách nhiệm với
vợ con, không lo cho kinh tế gia đình. Hiện nay chị Y không biết anh H1 đang ở
địa chỉ cụ thể nào tại Hàn Quốc. Chị đã ký bảo lãnh cho anh H1 đi lao động tại
Hàn Quốc nên trường hợp anh H1 không thực hiện nghĩa vụ thì chị là người chịu
trách nhiệm. Hiện nay hoàn cảnh gia đình rất khó khăn, chị phải một mình nuôi
con nhỏ nên đề nghị phía nguyên đơn và Toà án xem xét lại các khoản tiền bồi
thường do vi phạm hợp đồng và giảm cho gia đình chị một phần nghĩa vụ.
Tại phiên toà Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng phát
biểu ý kiến:
Về thẩm quyền thụ lý giải quyết vụ án của Tòa án, tư cách tham gia tố tụng
của các đương sự; việc thu thập chứng cứ của Tòa án đều tuân thủ các quy định
của Bộ luật Tố tụng dân sự. Quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án và tại phiên
tòa Thẩm phán và Hội đồng xét xử đều đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Sự
tuân thủ chấp hành pháp luật của nguyên đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan đảm bảo đúng quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của đương sự. Bị
đơn chưa thực hiện đúng quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của đương
sự
Về nội dung giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận một phần
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cụ thể:
1. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện đối với yêu cầu bị đơn về việc buộc bị đơn
phải bồi thường thiệt hại do việc chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật bao
gồm: ½ tháng tiền lương theo hợp đồng lao động: 2.647.715 đồng; khoản tiền
lương tương ứng với 45 ngày nghỉ việc không báo trước tương ứng với số tiền:
7.943.145 đồng. Tổng số yêu cầu bồi thường 10.590.860 đồng; vì lý do nguyên
đơn rút yêu cầu khởi kiện này.
2. Chấp nhận yêu cầu hoàn trả chi phí đào tạo là 29.761.968 đồng (bao gồm:
Chi phí Visa: 880.000 đồng; vé máy bay: 16.400.000 đồng; tiền ăn 08 ngày:
2.052.176 đồng (từ ngày 24/01/2024 đến ngày 31/01/2024 x 02 bữa x 128.261
đồng); chi phí xe buýt đưa đón: 1.221.536 đồng (xe đưa đón 08 ngày x 152.692
đồng/ngày); chi phí chỗ ở ký túc xá: 8.208.256 đồng (08 ngày x 1.026.032 đồng);
bảo hiểm tai nạn: 1.000.000 đồng/ người.
3. Không chấp nhận yêu cầu bị đơn phải trả tiền phạt do vi phạm hợp đồng
với số tiền bằng 02 lần chi phí đào tạo: 59.523.936 đồng (29.761.968 đồng đồng x
2).
4. Về án phí: Nguyên đơn và bị đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp
luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
5
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm
tra, xem xét tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét
xử nhận định:
- Về tố tụng:
[1] Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Nguyên đơn (Công ty L1) khởi
kiện đối với bị đơn (anh Nguyễn Mạnh H1) có đăng ký thường trú tại: Thôn V, xã
T, huyện A, thành phố Hải Phòng; chỗ ở hiện nay: Hàn Quốc (không xác định
được địa chỉ cư trú). Do vậy cần xác định đây là tranh chấp về lao động có yếu tố
nước ngoài. Căn cứ Điều 32, Điều 35 và Điều 37 Bộ luật Tố tụng dân sự; vụ án
thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng.
[2] Về sự vắng mặt của các đương sự: Tại phiên tòa bị đơn và người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ
hai nhưng đều vắng mặt không có lý do. Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn đều vắng mặt và đã có
đơn đề nghị xét xử vắng mặt; vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227,
khoản 3 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, xét xử vắng mặt tất cả
những người tham gia tố tụng.
[3] Về thời hiệu khởi kiện: Đây là tranh chấp về bồi thường thiệt hại khi Sa
thải và yêu cầu bồi thường thiệt hại theo hợp đồng đào tạo nên thời hiệu khởi kiện
là 01 (một) năm. Bên vi phạm đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động kể từ ngày
31/01/2024; đến này 13/8/2024 nguyên đơn khởi kiện tại Toà án nên căn cứ khoản
3 Điều 190 của Bộ luật Lao động, vụ án vẫn còn thời hiệu khởi kiện.
- Về nội dung:
[4] Ngày 01/12/2020 Công ty L1 ký hợp đồng lao động số VH001062 với
anh Nguyễn Mạnh H1; loại hợp đồng: Không xác định thời hạn; làm việc tại Công
ty L1; chức danh chuyên môn: Công nhân kỹ thuật. Đây là quan hệ lao động được
thiết lập dựa trên hợp đồng lao động không xác định thời hạn theo điểm a khoản 1
Điều 20 Bộ luật Lao động nên được pháp luật bảo vệ.
[5] Về hợp đồng đào tạo: Để phục vụ cho nhu cầu mở rộng sản xuất, tăng
vốn đầu tư tại Việt Nam, Công ty L1 đã có Quyết định cử một số lao động đi đào
tạo tại Hàn Quốc, trong đó có anh H1. Ngày 24/3/2023 Công ty L1 ký hợp đồng
đào tạo với anh H1 cử đi đào tạo tại Nhà máy L3, G-do, Hàn Quốc. Ngày
24/01/2024 anh H1 đến Hàn Quốc theo đúng kế hoạch để tham gia khóa đào tạo.
Đây là hợp đồng đào tạo nghề giữa người sử dụng lao động với người lao động
theo quy định tại Điều 62 Bộ luật Lao động.
[6] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Sau khi sang Hàn Quốc, ngày
31/01/2024 Công ty L1 phát hiện anh H1 đã tự ý rời khỏi ký túc xá mà không thấy
quay trở về để tham gia khoá đào tạo, không lên máy bay về Việt Nam và cũng
không quay lại Công ty L1 để làm việc từ 03/02/2024 cho đến nay. Sau đó Công ty
L1 đã liên lạc qua điện thoại với anh H1 nhưng không có kết quả. Do anh H1 tự ý
bỏ đào tạo, không tiếp tục làm việc cho Công ty L1, vì vậy lỗi được xác định hoàn
toàn thuộc về phía anh H1. Việc vi phạm các thoả thuận trong hợp đồng đào tạo
6
của anh H1 nêu trên dẫn tới làm ảnh hưởng tới hoạt động đào tạo và hoạt động sản
xuất, kinh doanh gây thiệt hại về chi phí đào tạo và các chi phí khác cho Công ty
L1. Công ty L1 đã thực hiện các trình tự, thủ tục để tiến hành xử lý kỷ luật lao
động bằng hình thức Sa thải và khởi kiện yêu cầu anh H1 phải bồi thường toàn bộ
chi phí đào tạo theo hợp đồng đào tạo và phạt gấp 02 (hai) lần chi phí đào tạo. Đây
là tranh chấp yêu cầu bồi thường dân sự do vi phạm hợp đồng đã ký giữa hai bên
nên được Toà án thụ lý giải quyết theo quy định tại Điều 62 Bộ luật Lao động và
các điều 418, 419 của Bộ luật Dân sự; cụ thể:
[7] Nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải bồi thường thiệt hại do việc chấm dứt
hợp đồng lao động trái pháp luật bao gồm: ½ tháng tiền lương theo hợp đồng lao
động là 2.647.715 đồng và khoản tiền lương tương ứng với 45 ngày nghỉ việc
không báo trước với số tiền là 7.943.145 đồng. Đây là yêu cầu người lao động thực
hiện nghĩa vụ khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật được quy
định tại khoản 2 Điều 40 Bộ luật Lao động. Tuy nhiên nguyên đơn đã rút phần yêu
cầu này trước khi mở phiên toà nên cần đình chỉ giải quyết yêu cầu khởi kiện này
của nguyên đơn.
[8] Nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải hoàn trả chi phí đào tạo với số tiền là
29.761.968 đồng (bao gồm: Chi phí Visa: 880.000 đồng; vé máy bay: 16.400.000
đồng; tiền ăn 08 ngày (từ ngày 24/01/2024 đến ngày 31/01/2024) x 02 bữa x
128.261 đồng = 2.052.176 đồng; chi phí xe buýt đưa đón: 1.221.536 đồng (08 ngày
x 152.692 đồng/ngày); chi phí chỗ ở KTX: 8.208.256 đồng (08 ngày x 1.026.032
đồng); bảo hiểm tai nạn: 1.000.000 đồng/người. Chi phí được nguyên đơn yêu cầu
bị đơn phải hoàn trả là những chi phí thực tế mà nguyên đơn đã phải bỏ ra và có
các hoá đơn, chứng từ để chứng minh cụ thể. Mặt khác, các chi phí này đã được
các bên nêu rõ và thoả thuận cụ thể tại Điều 2 của Hợp đồng đào tạo và phù hợp
với quy định tại khoản 3 Điều 62 của Bộ luật Lao động và Điều 419 của Bộ luật
Dân sự nên cần được chấp nhận.
[9] Đối với yêu cầu buộc bị đơn phải trả tiền phạt do vi phạm hợp đồng với
số tiền bằng 02 (hai) lần chi phí đào tạo với số tiền là 59.523.936 đồng (29.761.968
đồng đồng x 2). Do bị đơn vi phạm Hợp đồng đào tạo, trốn ở lại Hàn Quốc trái
phép, gây thiệt hại cho nguyên đơn; căn cứ Điều 7 Hợp đồng đào tạo và Điều 418
của Bộ luật Dân sự, yêu cầu của khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên cần
được chấp nhận. Như vậy, tổng số tiền bị đơn phải có trách nhiệm thanh toán cho
nguyên đơn là: 29.761.968 đồng + 59.523.936 đồng = 89.285.904 đồng (làm tròn
là 89.286.000 đồng).
[10] Xét về hợp đồng bảo lãnh: Để đảm bảo người lao động thực hiện đúng,
đầy đủ các nghĩa vụ theo Hợp đồng đào tạo, ngày 22/01/2024 chị Phùng Thị Y (vợ
của anh H1) đã ký Hợp đồng bảo lãnh số VH001062/HĐBL-LG với Công ty L1.
Theo đó, chị Y đồng ý bảo lãnh thanh toán toàn bộ nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh
theo Hợp đồng đào tạo số VH001062/HDDT-LG ký ngày 24/3/2023 giữa anh H1
và Công ty L1, bao gồm các nghĩa vụ: Chi phí đào tạo nghề, tiền phạt vi phạm hợp
đồng, tiền bồi thường thiệt hại (nếu có), tiền lãi trong trường hợp chậm thanh toán
các khoản tiền thuộc phạm vi bảo lãnh thực hiện Hợp đồng đào tạo. Tuy nhiên
nguyên đơn chưa có yêu cầu giải quyết về hợp đồng bảo lãnh đối với người có
7
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nên Toà án không xem xét. Trường hợp có phát sinh
tranh chấp và các bên có đơn khởi kiện sẽ được xem xét, giải quyết bằng vụ án
khác theo thủ tục tố tụng dân sự.
- Về án phí:
[11] Do yêu cầu khởi kiện được chấp nhận nên nguyên đơn không phải chịu
án phí lao động sơ thẩm. Trả lại nguyên đơn khoản tiền tạm ứng án phí 1.795.000
đồng đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án, Ký hiệu: BLTU/23, Số:
000733, ngày 11/10/2024 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng.
[12] Bị đơn phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 26 của
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội; mức án phí lao động sơ thẩm có giá ngạch mà bị đơn phải chịu là:
89.286.000 đồng x 3% = 2.678.580 đồng (làm tròn là: 2.679.000 đồng).
- Về quyền kháng cáo:
[13] Nguyên đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên
tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được Bản
án hoặc từ ngày Bản án được niêm yết. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền
kháng cáo trong hạn 01 (một) tháng, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc từ ngày
Bản án được niêm yết.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 32; khoản 3 Điều 35; Điều 37; điểm c khoản 1
Điều 217; Điều 218; khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố
tụng dân sự;
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 20; khoản 3 Điều 40; Điều 62 và khoản 1 Điều
187 Bộ luật Lao động; Điều 418 và Điều 419 Bộ luật Dân sự;
Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cụ thể:
1. Buộc bị đơn (anh Nguyễn Mạnh H1) phải có trách nhiệm trả cho nguyên
đơn (Công ty TNHH L1) số tiền 89.286.000 đồng (tám mươi chín triệu hai trăm
tám mươi sáu nghìn đồng).
Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật và bên được thi hành án có đơn yêu
cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành án chưa trả số tiền trên thì hàng tháng còn
phải chịu tiền lãi đối với số tiền chậm thi hành án theo mức lãi suất quy định tại
Điều 357 và Điều 468 Bộ luật dân sự.
2. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bị đơn phải bồi
thường thiệt hại do việc chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật, bao gồm: ½
tháng tiền lương theo hợp đồng lao động với số tiền 2.647.715 đồng và khoản tiền
8
lương tương ứng với 45 ngày nghỉ việc không báo trước tương ứng với số tiền
7.943.145 đồng.
3. Về án phí:
Bị đơn (anh Nguyễn Mạnh H1) phải chịu 2.679.000 (hai triệu sáu trăm bảy
mươi chín nghìn) đồng, án phí lao động sơ thẩm.
Trả lại nguyên đơn (Công ty TNHH L1) khoản tiền tạm ứng án phí
1.795.000 (một triệu bảy trăm chín mươi lăm nghìn) đồng, đã nộp tại Biên lai thu
tạm ứng án phí, lệ phí Toà án, Ký hiệu: BLTU/23, Số: 000733, ngày 11/10/2024
của Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng.
4. Về quyền kháng cáo:
- Nguyên đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên
tòa có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận
được Bản án hoặc từ ngày Bản án được niêm yết.
- Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 01
(một) tháng, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc từ ngày Bản án được niêm yết.
- Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi
hành án dân sự năm 2008 và Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014;
thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án
dân sự./.
Nơi nhận:
- VKSND tp Hải Phòng;
- Cục THADS tp Hải Phòng;
- Các đương sự;
- Lưu: HS, VT.
T.M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
Nguyễn Quang Kiên
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 22/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 21/09/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 03/08/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 18/07/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 17/07/2019
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 14/08/2017
Cấp xét xử: Sơ thẩm