Bản án số 04/2025/LĐ-PT ngày 28/07/2025 của TAND TP. Cần Thơ về tranh chấp về quyền, lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 04/2025/LĐ-PT

Tên Bản án: Bản án số 04/2025/LĐ-PT ngày 28/07/2025 của TAND TP. Cần Thơ về tranh chấp về quyền, lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về quyền, lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương...
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Cần Thơ
Số hiệu: 04/2025/LĐ-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 28/07/2025
Lĩnh vực: Lao động
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tại Bản án số 09/2025/LĐ-ST ngày 03/4/2025, Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng (nay là Tòa án nhân dân khu vực 5 - Cần Thơ) đã quyết định
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ CẦN T
Bản án số: 04/2025/-PT
Ngày 28/7/2025
V/v tranh chấp quyền, lợi ích liên
quan đến tiền lương
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Hoàng Lâm;
Các Thẩm phán: Ông Lê Thanh Vũ;
Ông Nguyễn Quốc Định.
- Thư phiên tòa: Trầm Thị Phương Hằng, Thẩm tra viên Tòa án
nhân dân Thành phố Cần Thơ.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Cần Thơ tham gia phiên
tòa: Bà Tăng Thị Thúy Hằng, Kiểm sát viên.
Trong ngày 28 tháng 7 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân n Thành phố
Cần Thơ, số 01, Đường 30/4, phường Phú Lợi, Thành phố Cần Thơ, xét xử phúc
thẩm công khai vụ án thụ số: 08/2025/TLPT- ngày 16 tháng 6 năm 2025,
về tranh chấp quyền, lợi ích liên quan đến tiền lương.
Do Bản án lao động thẩm số 09/2025/-ST ngày 03 tháng 4 năm
2025 của Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng (nay là Tòa án
nhân dân khu vực 5 - Cần Thơ) bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 340/2025/-PT
ngày 09 tháng 7 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
1. Ông Huỳnh Văn H;
2. Ông Huỳnh Văn Đ;
3. Ông Lê Trung T;
Cùng địa chỉ: Ấp C, T, huyện L, tỉnh c Trăng (nay ấp C, T,
Thành phố Cần Thơ). (đều vắng mặt)
4. Ông Lê Văn D;
Địa chỉ: Số 226, đường C, khóm 6, Phường X, thành phố S, tỉnh Sóc
Trăng (nay số 226, đường C, khóm 6, phường S, Thành phố Cần Thơ). (vắng
mặt)
2
5. Ông Danh Thành G;
Địa chỉ: Ấp T, xã M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (nay là ấp T, M, Thành
phố Cần Thơ). (vắng mặt)
Người đại diện hợp pháp của c nguyên đơn: Ông Nguyễn Ngọc Đ1;
địa chỉ: p A, A, huyện C, tỉnh Sóc Tng (nay là ấp A, A, Thành phố
Cần Thơ); địa chỉ ln hệ: S41, đường N, km 1, Phường 2, thành phố S,
tỉnh c Tng (nay là s41, đường N, khóm 1, phường P, Tnh ph Cần
Thơ); là người đại diện theo u quyền của các nguyên đơn (n bản y quyền
ngày 28/6/2024, ngày 01/7/2024). (có đơn đ nghị xét x vắng mặt)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các nguyên đơn: Ông
Nguyễn Văn N, Luật của Văn phòng Luật T - Chi nhánh S, thuộc Đoàn
Luật sư Thành phố Cần Thơ; địa ch: S 367/45, Quc l A, khóm 1, Phường 6,
thành ph S, tỉnh Sóc Trăng (nay s 367/45, Quc l A, khóm 1, phường S,
Thành ph Cần Thơ). (có đơn đề ngh xét x vng mt)
- Bị đơn: Công ty Cổ phần a đường S;
Địa chỉ trụ sở: Số 845, đường P, Phường 8, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng
(nay là số 845, đường P, phường S, Thành phố Cần Thơ).
Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Ông Trần Ngọc H1; chức vụ: Chủ
tịch Hội đồng quản trkm Tổng Giám đốc; địa ch m việc: Số 845, đường
P, Phường 8, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng (nay số 845, đường P, phường S,
Thành phố Cần Thơ); người đại diện theo pp luật của bđơn. ( đơn đ
nghị xét x vắng mặt)
- Người kháng cáo: ng ty C phn Mía đường S - Bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện của các nguyên đơn ông Huỳnh Văn H, Huỳnh Văn Đ,
Trung T, Văn D, Danh Thành G trong quá trình giải quyết vụ án,
người đại diện hợp pháp của các nguyên đơn ông Nguyễn Ngọc Đ1 trình bày:
c ông Huỳnh Văn H, Huỳnh Văn Đ, Trung T, Văn D Danh
Thành G người lao động của Công ty cổ phần Mía đường S (sau đây viết
Công ty). Ngày 30/9/2016, Công ty Công đoàn sở của Công ty kết
Thỏa ước lao động tập thể với thỏa thuận tại Điều 5 “Công ty áp dụng hình
thức trả lương theo sản phẩm (đơn giá theo kế hoạch được Đại hội đồng cổ
đông hàng năm thông qua). Tiền lương người lao động được đảm bảo chi trả
đúng quy chế thanh toán tiền lương, tiền thưởng của Công ty” đơn giá tiền
lương mỗi tấn sản phẩm của vụ đường năm 2017-2018 800.000 đồng. Theo
Điều 2 của Quy chế tiền lương, tiền thưởng do Hội đồng quản trị Công ty ban
hành kèm theo Quyết định s43/-HĐQT ngày 27/12/2017 (có hiệu lực từ
ngày 01/01/2018, sau đây viết là Quy chế tiền lương) quy định: “Quỹ tiền lương
gắn liền với hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty nên thu nhập của người
lao động thể thay đổi theo từng tháng hoặc kỳ sản xuất dựa trên kết quả thực
hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh được Tổng Giám đốc giao cho từng đơn vị
3
hoặc nhân” theo các hợp đồng lao động đã kết thì Công ty trả lương
cho ng nhân theo sản phẩm, tđó tiền lương phụ thuộc vào sản lượng đường
làm ra.
Kết thúc vụ sản xuất, kinh doanh 2017-2018 (từ ngày 01/7/2017 đến ngày
30/6/2018), Công ty đạt sản lượng 45.538,45 tấn đường nhập kho, đơn giá tiền
lương mỗi tấn 800.000 đồng nên quỹ lương trích trong a vụ này
36.430.760.000 đồng (45.538,45 tấn x 800.000 đồng/tấn). Trong mùa vụ 2017-
2018, Công ty đã chi tiền lương 12 tháng cho người lao động hết
24.520.252.317 đồng, chi thưởng hết 3.005.918.800 đồng nên còn thừa quỹ tiền
lương 8.904.588.883 đồng, nhưng Công ty không chi trả cho người lao động,
Hội đồng quản trị lại ban hành Nghị quyết số 05 ngày 04/01/2019 để hoàn
nhập số tiền này giảm lỗ cho mùa vụ sản xuất, kinh doanh 2018-2019, sau đó là
Nghị quyết số 45 ngày 15/5/2019 đã bổ sung số tiền trên vào quỹ lương của mùa
vụ 2018-2019. Việc sử dụng quỹ lương như trên trái với Thỏa ước lao động
tập thể và Quy chế tiền lương.
c nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc Công ty cổ phần Mía
đường S chi trả quỹ lương còn thừa 8.904 588.883 đồng của mùa vụ sản xuất,
kinh doanh 2017-2018 cho các nguyên đơn theo tỷ lệ mức lương của từng người
được hưởng tại thời điểm tháng 6/2018 với tổng số tiền là 99.020.750 đồng, theo
cách tính tổng quỹ tiền lương thừa 8.904.588.883 đồng chia cho tổng số tiền
lương phải trả cho người lao động trong 01 tháng (tháng 6/2018
1.547.373.212 đồng) bằng stháng lương mỗi lao động sẽ được hưởng (5,75
tháng) nhân (x) số tiền thực lãnh của từng người lao động bằng (=) số tiền Công
ty phải trả, cụ thể từng người: Ông H 3.190.000 đồng x 5,75 = 18.342.500 đồng,
ông Đ 3.190.000 đồng x 5,75 = 18.342.500 đồng, ông T 3.817.000 đồng x 5,75
= 21.947.750 đồng, ông D 3.567.000 đồng x 5,75 = 20.510.250 đồng và ông G
3.457.000 đồng x 5,75 = 19.877.750 đồng.
Tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện hợp pháp của các nguyên đơn xin
thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện, cthể: Mùa vụ 2017-2018, đối với ông H,
ông chỉ làm việc được 11 tháng (không làm tháng 11/2017) nên ông yêu cầu
Công ty phải trả 16.813.958 đồng; đối với ông Đ, ông cũng chỉ làm việc được
11 tháng (không làm tháng 9/2017) nên ông yêu cầu Công ty phải trả 16.651.779
đồng; đối với ông G, ông chỉ làm việc được 09 tháng (không làm tháng
7,8,9/2017) nên ông yêu cầu Công ty phải trả 14.908.313 đồng.
Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn Công ty cphần Mía đường S
trình bày:
Thời hiệu khởi kiện đối với vụ việc nêu trên đã hết. Theo Đơn khởi kiện
nộp tại Tòa án ngày 20/9/2024 (theo Giấy xác nhận số 1142/GXN-TA ngày
11/10/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng), các
nguyên đơn yêu cầu Tòa án buộc Công ty phải thanh toán số tiền còn lại của quỹ
lương mùa vụ 2017-2018, mùa vụ này bắt đầu từ ngày 01/7/2017 đến ngày
30/6/2018. Tuy nhiên, đến ngày 20/9/2024, các nguyên đơn mới đơn khởi
kiện yêu cầu Tòa án giải quyết đã hết thời hiệu khởi kiện theo quy định tại
4
khoản 3 Điều 190 của Bộ luật Lao động năm 2019. Ngày 05/11/2024, bị đơn đã
gửi đơn yêu cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện đề ngày 31/10/2024 đến Tòa án,
yêu cầu Tòa án áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với ván này theo quy định tại
khoản 2 Điều 184 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. vậy, bị đơn yêu cầu
Tòa án xem xét lại thời hiệu khởi kiện của vviệc và ra quyết định đình chỉ giải
quyết vụ án theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 217 của Bộ luật Ttụng dân
sự 2015.
Không sở yêu cầu thanh toán khoản tiền thừa quỹ lương
8.904.588.883 đồng của mùa v2017 - 2018. Theo Điều 5 của Thỏa ước lao
động ngày 30/9/2016 Điều 10.3 của Quy chế thanh toán tiền lương, tiền
thưởng ban hành kèm theo Quyết định số 43/QĐ-HĐQT ngày 27/12/2017, Công
ty nhận thấy rằng không bất kỳ sở, nội dung nào thể hiện một cách minh
thị rằng Công ty buộc phải thanh toán cho người lao động phần tiền còn lại của
quỹ lương mùa vụ sản xuất, kinh doanh 2017-2018 là 8.904.588.883 đồng. Thực
tế, tính từ thời điểm thành lập Công ty ngày 02/02/1996 cho đến nay, Công ty
luôn quán triệt sử dụng quỹ lương theo bản chất một nguồn tiền để hỗ trợ
Công ty cân đối dòng tiền nhằm mục đích chi lương, chi thưởng, phụ cấp, trợ
cấp chi phí khác cho người lao động như được quy định theo Điều 10.2 Quy
chế tiền lương 2017, không khoản tiền lương để buộc chi hết cho toàn thể
người lao động tại cuối bất kỳ vụ sản xuất cụ thể nào. Bên cạnh đó, nguyên đơn
buộc Công ty phải trả tiền cho nguyên đơn thì các khoản tiền này sẽ được xác
định là khoản tiền nào theo quy chế lương và hệ số để tính lương là như thế nào.
Nếu xét tính chất tiền lương, các khoản tiền này không tính chất tiền lương,
vượt quá hạn mức tiền lương được Công ty thỏa thuận với người lao động tại
hợp đồng lao động. Đồng thời, mỗi nguyên đơn thời gian tham gia quan hệ
lao động tại Công ty khác nhau nên hệ số tính lương sẽ áp dụng nthế nào.
Điều quan trọng nhất chính Công ty đã trả lương đầy đủ, đúng hạn cho người
lao động tương ứng với thời gian làm việc của mỗi người. Nếu xét tính chất tiền
thưởng, trong mùa vụ 2017-2018, Công ty đã chi thưởng cho người lao động với
mức thưởng lên đến 02 tháng tiền lươngđến nay, Công ty chưa từng có quyết
định hoặc chính sách nào nhằm tuyên bố rằng Công ty sẽ tiếp tục chi thưởng từ
khoản tiền của quỹ lương. Do đó, việc nguyên đơn yêu cầu Công ty phải tiếp tục
chi những khoản tiền không cơ sở, tính chất là đi ngược lại với nguyên tắc sử
dụng quỹ tiền lương của Công ty, buộc Công ty phải đưa ra những khoản chi
vượt hạn mức, gây thiệt hại nghiêm trọng cho Công ty.
Không sở cho phương thức chia phân bổ số tiền thừa của quỹ
lương mùa v 2017-2018 cho từng nguyên đơn. Qua rà soát các tài liệu, văn bản
của Công ty giai đoạn mùa vụ 2017-2018, Công ty khẳng định không bất
kỳ sở, nội dung nào thể hiện một cách minh thị về phương thức chia phân
bổ số tiền thừa của quỹ lương mùa vụ 2017-2018 cho từng nguyên đơn, cụ thể:
Thứ nhất, hợp đồng lao động của từng người lao động, Quy chế lương năm 2017
Thỏa ước lao động không bất kỳ quy định nào thể hiện phương thức chia
phân b số tiền thừa của quỹ lương từng vụ cho toàn thể người lao động của
Công ty. Thứ hai, căn cứ theo hợp đồng lao động của từng người lao động đã ký
5
với Công ty cũng như thực tế thực hiện hợp đồng lao động của mỗi người lao
động thì mỗi người lao động sẽ sự khác nhau vthời gian làm việc, mức
lương, hệ số lương, phụ cấp hình thức trả lương nên Công ty không thể áp
dụng việc chia và phân bổ số tiền thừa ca quỹ lương mùa vụ 2017-2018.
Do đó, Công ty không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn.
Tại Bản án số 09/2025/-ST ngày 03/4/2025, Tòa án nhân dân thành
phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng (nay là Tòa án nhân dân khu vực 5 - Cần Thơ) đã
quyết định:
Căn cứ khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39, điểm b, điểm đ khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản 1 Điều 244,
Điều 271, Điu 273 B lut T tng dân sự; Điều 188, Điều 190 B lut Lao
động năm 2019; Điu 157 B lut Dân s năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị
quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí lệ
phí Tòa án.
Tuyên xử:
Buộc Công ty cổ phần Mía đường S thanh toán quỹ tiền lương còn thừa
của vụ sản xuất 2017-2018 (t ngày 01/7/2017 đến ngày 30/6/2018) cho ông
Huỳnh Văn H số tiền 16.813.958 đồng, ông Huỳnh Văn Đ số tiền 16.651.779
đồng, ông Danh Thành G số tiền 14.908.313 đồng, ông Trung T số tiền
21.947.750 đồng và ông Lê Văn D số tiền 20.510.250 đồng.
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho
đến khi thi hành án xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản
tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2
Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành
án.
Các nguyên đơn quyền yêu cầu thi hành ngay khoản tiền Công ty
cổ phần Mía đường S nghĩa vụ thanh toán cho nguyên đơn theo quy định tại
điểm a khoản 2 Điều 482 của Bộ luật Ttụng dân sự điểm a khoản 2 Điều 2
của Luật Thi hành án dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung).
Ngoài ra, bản án thẩm còn quyết định về án pquyền kháng cáo
của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm:
Ngày 18/4/2025, Công ty cphần Mía đường S có đơn kháng cáo toàn bộ
bản án thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét, giải quyết theo hướng
hủy toàn bộ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Người đại diện hợp pháp của các nguyên đơn, người bảo vệ quyền lợi
ích hợp pháp của các nguyên đơn, người đại diện hợp pháp của bị đơn đều
đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
6
Người đại diện hợp pháp của các nguyên đơn không đơn rút lại đơn
khởi kiện; người đại diện hợp pháp của bị đơn cũng không có đơn rút kháng cáo
và các đương sự cũng không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp
luật của những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng trong quá
trình giải quyết vụ án giai đoạn phúc thẩm. Đối với yêu cầu kháng cáo của
Công ty cổ phần Mía đường S không căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử
không chấp nhận và áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về svắng mặt của người đại diện hợp pháp của các nguyên đơn,
người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của các nguyên đơn, ng như người
đại diện hợp pháp của bị đơn: Những người này đã được Tòa án triệu tập hợp lệ
lần thứ nhất để tham gia phiên tòa phúc thẩm, trong đó phía bị đơn Công ty cổ
phần Mía đường S kháng cáo, nhưng tất cả đều đơn đnghị xét xử vắng
mặt. Do đó, căn cứ khoản 2 Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội
đồng xét xử phúc thẩm tiến hành phiên tòa phúc thẩm xét xử vắng mặt họ.
[2] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của Công ty cổ
phần Mía đường S đảm bảo về mặt hình thức và nội dung, đúng người có quyền
kháng cáo, còn trong thời hạn kháng cáo theo quy định tại các Điều 271, Điều
272 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nên hợp lệ, đủ điều kiện đ
giải quyết, xét xử theo trình tự phúc thẩm.
[3] Xét kháng cáo của Công ty cổ phần Mía đường S, Hội đồng xét xử
phúc thẩm nhận thấy:
[4] Trong quá trình giải quyết vụ án, phía Công ty cổ phần Mía đường S
đều xác nhận các ông Huỳnh Văn H, Huỳnh Văn Đ, Trung T, Văn D,
Danh Thành G người lao động của Công ty, lĩnh lương hàng tháng trong mùa
vụ sản xuất, kinh doanh 2017-2018. Căn cứ khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015, đây là tình tiết mà các nguyên đơn không phải chứng minh.
[5] Theo các tài liệu, chứng cứ do các đương sự cung cấp đã thể hiện, mùa
vụ sản xuất, kinh doanh 2016-2017, Công ty còn thừa quỹ tiền lương là
715.002.892 đồng; mùa vụ sản xuất, kinh doanh 2017-2018, Công ty đạt sản
lượng 45.538,45 tấn đường nhập kho, đơn giá tiền lương mỗi tấn 800.000 đồng,
quỹ lương trích trong vụ này 36.430.760.000 đồng, đã chi trả tiền lương 12
tháng cho toàn thể người lao động hết 24.520.252.317 đồng, chi thưởng hết
3.005.918.800 đồng, còn lại 9.619.591.775 đồng (trong đó 715.002.892 đồng
của mùa vụ sản xuất, kinh doanh 2016-2017 chuyển qua). Như vậy, căn cứ
xác định số tiền quỹ lương còn thừa của mùa vụ sản xuất, kinh doanh 2017-2018
của Công ty là 9.619.591.775 đồng - 715.002.892 đồng = 8.904.588.883 đồng.
7
[6] Điều 5 của Thỏa ước lao động tập thể ngày 30/9/2016 quy định:
“Công ty áp dụng hình thức trả lương theo sản phẩm (đơn giá theo kế hoạch
được Đại hội đồng cổ đông thường niên hàng năm thông qua). Tiền lương của
người lao động được đảm bảo chi trả đúng Quy chế thanh toán tiền lương,
thưởng của công ty”. Theo Điều 25 của Quy chế thanh toán tiền lương, thưởng
ban hành kèm theo Quyết định số 161/QĐ-TGĐ.2009 ngày 31/8/2009 của Tổng
Giám đốc Công ty cổ phần Mía đường S thì việc xử lý quỹ lương thừa được xác
định như sau: “…Hình thức chi theo cách phân phối sản phẩm theo hệ số CBCV
+ thành tích thi đua cá nhân tại mỗi thời điểm chi thích hợp; Thanh toán hết cho
người lao động được hưởng trong thời hạn không quá quy định của pháp luật
vào đầu năm sau”. Khoản 3 Điều 10 của Quy chế thanh toán tiền lương, tiền
thưởng ban hành kèm theo Quyết định số 43/QĐ-HĐQT.2017 ngày 27/12/2017
(thay thế Quy chế thanh toán tiền lương, tiền thưởng năm 2009) quy định việc
xử quỹ lương thừa như sau: “…Tổng giám đốc sẽ quyết định chi hết trong
thời gian theo quy định đảm bảo chi phí được trừ khi xác định thuế Thu nhập
doanh nghiệp”.
[7] Khoản 1, khoản 2 Điều 4; khoản 1 Điều 5 Thông số 78/2014/TT-
BTC ngày 18/6/2014, đã được sửa đổi, bổ sung bằng Thông số 96/2016/TT-
BTC ngày 22/6/2016 của Bộ Tài chính, hướng dẫn thi hành Nghị định số
218/2013/NĐ-CP ngày 26/12/2013 của Chính phủ, quy định hướng dẫn thi
hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, thì quỹ tiền lương không thuộc doanh
thu để tính thu nhập chịu thuế không thuộc thu nhập chịu thuế thu nhập
doanh nghiệp.
[8] Như vậy, theo Thỏa ước lao động tập thể; Quy chế thanh toán tiền
lương, tiền thưởng nêu trên thì quỹ tiền lương còn lại (còn thừa) của mùa vụ sản
xuất, kinh doanh 2017-2018 phải được thanh toán cho người lao động tham gia
lao động trong mùa vụ này.
[9] Theo phía Công ty cổ phần Mía đường S, Hội đồng quản trị của Công
ty ban hành Nghị quyết số 05/NQ-HĐQT.2019 ngày 04/01/2019, trong đó tại
mục 11 Điều 1 thể hiện nội dung: “Quỹ lương còn lại của vụ 2017-2018
9.619.591.775 đồng, yêu cầu BCH hoàn nhập trong vụ 2018-2019 để giảm lỗ
cho công ty”; sau đó ban hành Nghị quyết số 45/NQ-HĐQT ngày 15/5/2019 quy
định: “…Thống nhất sử dụng quỹ tiền lương còn lại của năm 2017-2018
9.619.591.775 đồng để bổ sung cho quỹ lương năm 2018-2019 để đảm bảo đủ
nguồn chi lương cho NLĐ”. Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy, các Nghị quyết
này ban hành khi gần kết thúc mùa vụ sản xuất, kinh doanh 2018-2019 để chi
phối quỹ tiền lương của mùa vụ 2017-2018 (mùa vụ này đã kết thúc ngày
30/6/2018) là không đúng với Thỏa ước lao động tập thể ngày 30/9/2016 và Quy
chế thanh toán tiền lương, tiền thưởng ban hành kèm theo Quyết định số 43/QĐ-
HĐQT.2017 ngày 27/12/2017.
[10] Do đó, Hội đồng xét xử sơ thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện
của tất cả các nguyên đơn, lấy quỹ tiền lương còn thừa của mùa vụ sản xuất,
kinh doanh 2017-2018 là 8.904.588.883 đồng chia cho tổng tiền lương thực tế
Công ty chi trả cho tất cả người lao động vào tháng cuối ng của mùa vụ
8
2017-2018, tức tháng 6/2018 (1.547.373.212 đồng), để từ đó tính ra số lương
bình quân mỗi người lao động được hưởng thêm 5,75 tháng, nhân với số tiền
lương chính, phụ cấp thâm niên, số tháng thực tế các nguyên đơn đã làm
việc, cụ thể: Mùa vụ 2017-2018, ông Trung T, ông Lê Văn D làm việc đủ 12
tháng, ông Huỳnh Văn H, ông Huỳnh Văn Đ làm việc được 11 tháng, ông Danh
Thành G làm việc được 09 tháng nên Công ty phải trả cho ông H 16.813.958
đồng, ông Đ 16.651.779 đồng, ông G 14.908.313 đồng, ông T 21.947.750 đồng
và ông D 20.510.250 đồng là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
[11] Công ty cổ phần Mía đường S kháng cáo cho rằng, các nguyên đơn
yêu cầu Công ty chi trả quỹ lương còn thừa 8.904 588.883 đồng của mùa vụ sản
xuất, kinh doanh 2017-2018 cho các nguyên đơn không sở, nhưng
không cung cấp được tài liệu, chứng cứ mới, ngoài những văn bản Công
ty đã viện dẫn nêu trên, do đó Hội đồng xét xử phúc thẩm không căn cứ để
xem xét và chấp nhận.
[12] Về thời hiệu khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án, Công ty cổ
phần Mía đường S cho rằng các nguyên đơn yêu cầu Công ty chi trả quỹ lương
còn thừa 8.904 588.883 đồng của mùa vụ 2017-2018, mùa vụ này bắt đầu từ
ngày 01/7/2017 đến ngày 30/6/2018, nhưng đến ngày 11/10/2024 các nguyên
đơn mới nộp đơn khởi kiện, theo quy định tại khoản 3 Điều 190 của Bộ luật Lao
động năm 2019 là hết thời hiệu khởi kiện, Công ty đã đơn yêu cầu Tòa án áp
dụng thời hiệu khởi kiện yêu cầu áp dụng điểm e khoản 1 Điều 217 của Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015, đình chỉ giải quyết vụ án. Hội đồng xét xử
thẩm không chấp nhận yêu cầu này của Công ty xác định còn thời hiệu khởi
kiện là có căn cứ.
[12.1] Bởi lẽ, sau khi kết thúc mùa vụ sản xuất, kinh doanh 2017-2018,
vào năm 2019, nhiều người lao động ở Công ty có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án
giải quyết buộc Công ty chi trả quỹ lương còn thừa 8.904 588.883 đồng của mùa
vụ 2017-2018 (11 vụ kiện). Công ty đã ban hành Văn bản số 37/TB-ĐST/2020
ngày 10/9/2020 nội dung: “….Sau khi bản án của Tòa án cấp cao nhất
của vụ kiện cuối cùng được đưa ra xét xử, nếu phán quyết của Tòa án buộc
Công ty phải thanh toán tiền lương cho người lao động thì Công ty sthực hiện,
tiền lương sẽ được chi trả cho người đơn kiện những người không đơn
kiện đã làm việc tại Công ty trong vụ 2017-2018”. Văn bản này được niêm yết
công khai tại Công ty cho người lao động biết. Thời điểm này, ông H, ông Đ,
ông T, ông D, ông G là những người lao động không đơn khởi kiện do xuất
phát từ nội dung văn bản này của Công ty. Đây được xem Công ty đã thừa
nhận nghĩa vụ của mình đối với người lao động, cam kết chi trả cho người lao
động khi quyết định cuối cùng của Tòa án, trong đó cả người lao động
không đơn khởi kiện đã làm việc tại ng ty trong mùa vụ 2017-2018. Tại
phiên tòa thẩm, người đại diện hợp pháp của Công ty cũng thừa nhận những
người đơn kiện trước đây đã được Tòa án giải quyết xong, trong đó vụ
tranh chấp về quyền, lợi ích liên quan đến tiền lương giữa ông Nguyễn Văn Nh,
Nguyễn Thanh Ph với Công ty vụ cuối cùng, đã được Tòa án nhân dân tỉnh
Sóc Trăng xét xử phúc thẩm, tuyên án ngày 26/8/2024 đã hiệu lực pháp
9
luật, kết quả là Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của những người lao động,
buộc Công ty chi trả quỹ lương còn thừa 8.904 588.883 đồng của mùa vsản
xuất, kinh doanh 2017-2018 cho những người lao động. Tuy nhiên, sau đó Công
ty không thực hiện đúng như cam kết tại Văn bản số 37 nêu trên.
[12.2] Khoản 4 Điều 190 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định: “Trường
hợp người yêu cầu chứng minh được sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách
quan hoặc do khác theo quy định của pháp luật không thể yêu cầu đúng
thời hạn quy định tại Điều này thì thời gian sự kiện bất khả kháng, trở ngại
khách quan hoặc lý do đó không tính vào thi hiệu yêu cầu giải quyết tranh
chấp lao động nhân”. Khoản 1 Điều 157 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy
định thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự bắt đầu lại trong các trường hợp: “a) Bên
nghĩa vụ đã thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình đối với
người khởi kiện; b) Bên nghĩa vụ thừa nhận hoặc thực hiện xong một phần
nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện; c) Các bên đã tự hòa giải với nhau”.
Căn cứ các quy định này, thời hiệu khởi kiện được tính lại kể từ ngày tiếp theo
của ngày 26/8/2024. Đến ngày 11/10/2024, các nguyên đơn nộp đơn khởi kiện là
còn trong thời hiệu khởi kiện quy định tại khoản 3 Điều 190 của Bộ luật Lao
động năm 2019.
[13] Như vậy, Công ty kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm hủy bản án
thẩm đình chỉ giải quyết vụ án do hết thời hiệu khởi kiện Công ty đã
yêu cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án giải
quyết vụ án theo quy định tại Điều 311 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 là
không có căn cứ để Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận.
[14] Các phần khác trong quyết định của bản án thẩm không kháng
cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[15] Tnhững phân tích trên, Hội đồng xét xphúc thẩm chấp nhận đề
nghị của Kiểm sát viên, không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của Công ty cổ
phần Mía đường S; căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015,
giữ nguyên bản án lao động sơ thẩm.
[16] Về án phí dân sự phúc thẩm: Công ty cổ phần Mía đường S người
kháng cáo không được chấp nhận và cũng không thuộc trường hợp được miễn
hoặc không phải chịu án phí phúc thẩm nên theo quy định tại khoản 1 Điều 29
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án, Công ty phải chịu án phí dân sự phúc thẩm là 300.000 đồng
được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308, khoản 6 Điều 313 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015; khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12
10
năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phía án.
Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của bị đơn Công ty cổ phần Mía
đường S.
1. Giữ nguyên Bản án lao động sơ thẩm số 09/2025/-ST ngày 03 tháng
4 năm 2025 của Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng (nay
Tòa án nhân dân khu vực 5 - Cần Thơ), như sau:
Tuyên xử:
1.1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của các ông Huỳnh Văn H,
Huỳnh Văn Đ, Trung T, Lê Văn D Danh Thành G. Buộc Công ty cổ phần
Mía đường S thanh toán quỹ tiền lương còn thừa của mùa vụ sản xuất, kinh
doanh 2017-2018 cho:
- Ông Huỳnh Văn H số tiền 16.813.958 đồng (Mười sáu triệu tám trăm
mười ba nghìn chín trăm năm mươi tám đồng);
- Ông Huỳnh Văn Đ số tiền 16.651.779 đồng (Mười sáu triệu sáu trăm
năm mươi mốt nghìn bảy trăm bảy mươi chín đồng);
- Ông Danh Thành G số tiền 14.908.313 đồng (Mười bốn triệu chín trăm
lẻ tám nghìn ba trăm mười ba đồng);
- Ông Trung T số tiền 21.947.750 đồng (Hai mươi mốt triệu chín trăm
bốn mươi bảy nghìn bảy trăm năm mươi đồng);
- Ông Văn D số tiền 20.510.250 đồng (Hai mươi triệu năm trăm mười
nghìn hai trăm năm mươi đồng).
Các ông Huỳnh Văn H, Huỳnh Văn Đ, Danh Thành G, Trung T
Văn D quyền yêu cầu thi hành án ngay khoản tiền Công ty cổ phần Mía
đường S nghĩa vụ thanh toán cho các ông theo quy định tại điểm a khoản 2
Điều 482 của Bộ luật Tố tụng dân snăm 2015 điểm a khoản 2 Điều 2 của
Luật Thi hành án dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của các ông Huỳnh Văn H, Huỳnh
Văn Đ, Danh Thành G, Trung T Văn D cho đến khi thi hành án xong;
hàng tháng, Công ty cổ phần Mía đường S còn phải chịu khoản tiền lãi của số
tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của
Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
1.2. Án phí dân sự thẩm:
Công ty cổ phần Mía đường S phải chịu 2.724.962 đồng (Hai triệu bảy
trăm hai mươi bốn nghìn chín trăm sáu mươi hai đồng).
2. Án phí dân sự phúc thẩm:
Công ty cổ phần Mía đường S phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn
đồng), được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm
nghìn đồng), theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000269 ngày 21
11
tháng 4 năm 2025 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố S, tỉnh Sóc Trăng
và như vậy, Công ty cổ phần Mía đường S đã nộp đủ án phí phúc thẩm.
3. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân
sự, người phải thi hành án dân sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu
cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy
định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung
năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND khu vực 5 - Cần Thơ;
- VKSND TP Cần Thơ;
- VKSND khu vực 5 - Cần Thơ;
- THADS TP C;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Hoàng Lâm
Tải về
Bản án số 04/2025/LĐ-PT Bản án số 04/2025/LĐ-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 04/2025/LĐ-PT Bản án số 04/2025/LĐ-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất