Bản án số 06/2025/LĐ-PT ngày 28/07/2025 của TAND TP. Cần Thơ về tranh chấp về quyền, lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 06/2025/LĐ-PT

Tên Bản án: Bản án số 06/2025/LĐ-PT ngày 28/07/2025 của TAND TP. Cần Thơ về tranh chấp về quyền, lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về quyền, lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương...
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Cần Thơ
Số hiệu: 06/2025/LĐ-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 28/07/2025
Lĩnh vực: Lao động
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tại Bản án số 06/2025/LĐ-ST ngày 31/3/2025, Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng (nay là Tòa án nhân dân khu vực 5 - Cần Thơ) đã quyết định
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ CẦN T
Bản án số: 06/2025/-PT
Ngày 28/7/2025
V/v tranh chấp quyền, lợi ích liên
quan đến tiền lương
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Hoàng Lâm;
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Hoàng Thành;
Ông Nguyễn Quốc Định.
- Thư phiên tòa: Trầm Thị Phương Hằng, Thẩm tra viên Tòa án
nhân dân Thành phố Cần Thơ.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Cần Thơ tham gia phiên
tòa: Bà Tăng Thị Thúy Hằng, Kiểm sát viên.
Trong ngày 28 tháng 7 năm 2025, tại trụ s Tòa án nhân dân Thành phố
Cần Thơ, số 01, Đường 30/4, phường Phú Lợi, Thành phố Cần Thơ, xét xử phúc
thẩm công khai vụ án thụ số: 05/2025/TLPT- ngày 05 tháng 6 năm 2025,
về tranh chấp quyền, lợi ích liên quan đến tiền lương.
Do Bản án lao động thẩm số 06/2025/-ST ngày 31 tháng 3 năm
2025 của Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng (nay là Tòa án
nhân dân khu vực 5 - Cần Thơ) bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 341/2025/-PT
ngày 09 tháng 7 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
1. Ngô Thị H;
Địa chỉ: Số 173/12, đường C, khóm 6, Phường T, thành phố S, tỉnh Sóc
Trăng (nay số 173/12, đường C, khóm 6, phường S, Thành phố Cần Thơ).
(vắng mặt)
2. Ông Hoàng Minh Th;
Địa chỉ: Đội 2, V, V, huyện T, Thành phố Nội (nay Đội 2, V,
P, Thành phố Hà Nội). (vắng mặt)
3. Ông Nguyễn Khắc Ch;
2
Địa chỉ: Số 120, ấp H, thị trấn M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (nay là số 120,
ấp H, phường M, Thành phố Cần Thơ). (vắng mặt)
4. Ông Bà Phan Thị H1;
Địa chỉ: Khóm Đ, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang (nay khóm
Đ, phường L, tỉnh An Giang). (vắng mặt)
Người đại diện hợp pp của c ngun đơn: Ông Nguyễn Ngc Đ;
địa chỉ: p A, A, huyện C, tỉnh Sóc Tng (nay là ấp A, A, Tnh phố
Cần Thơ); địa ch ln hệ: S 41, đường N, km 1, Phường X, thành phố S,
tỉnh c Trăng (nay là s 41, đường N, khóm 1, pờng P, Tnh phố Cần
Thơ); là người đại diện theo u quyền của các nguyên đơn (văn bản ủy quyền
ngày 01/7/2024). ( đơn đề nghị xét xử vắng mặt)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các nguyên đơn: Ông
Nguyễn Văn N, Luật của Văn phòng Luật T - Chi nhánh S, thuộc Đoàn
Luật sư Thành phố Cần Thơ. Địa ch: S 367/45, Quc l A, khóm 1, Phường 6,
thành ph S, tỉnh Sóc Trăng (nay số 367/45, Quc l A, khóm 1, phường S,
Thành ph Cần Thơ). (có đơn đề ngh xét x vng mt)
- Bị đơn: Công ty Cổ phần Mía đường S;
Địa chỉ: Số 845, đường P, Phường 8, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng (nay
số 845, đường P, phường S, Thành phố Cần Thơ).
Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Ông Nguyễn Thanh H2 và ông
Đào Minh C; ng đa chỉ làm vic: Số 845, đường P, Phường 8, thành phố S,
tỉnh Sóc Trăng (nay số 845, đường P, phường S, Thành phố Cần Thơ);
người đại diện theo uquyền của bị đơn (văn bản y quyền ny 26/7/2025).
(đều mặt)
- Người kháng cáo:
1. Bà Phan ThH1 - Nguyên đơn;
2. Công ty C phn Mía đường S - Bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 20 tháng 9 năm 2024 của các nguyên đơn Ngô
Thị H, Hoàng Minh Th, Nguyễn Khắc Ch, Phan Thị H1 trong quá trình giải
quyết vụ án, người đại diện hợp pháp của các nguyên đơn ông Nguyễn Ngọc
Đ trình bày:
Ngô Thị H, ông Hoàng Minh Th, ông Nguyễn Khắc Ch, Phan Thị
H1 là người lao động của Công ty cổ phần Mía đường S (sau đây gọi tắt là Công
ty). Ngày 30/9/2016, Công ty Công đoàn sở của Công ty Thỏa ước
lao động tập thể. Theo Điều 5 của Thỏa ước lao động tập thể quy định: ng ty
áp dụng hình thức trả lương theo sản phẩm (đơn giá theo kế hoạch được Đại
hội đồng cổ đông thường niên hàng năm thông qua)”. Tiền lương người lao
động được đảm bảo chi trả đúng quy chế thanh toán tiền lương, tiền thưởng của
Công ty. Đơn gtiền lương mỗi tấn sản phẩm của vụ 2017-2018 800.000
3
đồng. Theo Điều 2 của Quy chế thanh toán tiền lương, tiền thưởng của Công ty
ban hành kèm theo Quyết định số 43/QĐ-HĐQT ngày 28/12/2017 quy định:
“Quỹ tiền lương gắn liền với hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty nên thu
nhập của người lao động thể thay đổi theo từng tháng hoặc kỳ sản xuất dựa
trên kết quả thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh được Tổng Giám đốc giao
cho từng đơn vị hoặc nhân” theo các hợp đồng lao động thì Công ty trả
lương cho công nhân theo sản phẩm, tđó tiền lương phụ thuộc vào sản lượng
đường làm ra.
Kết thúc mùa vụ sản xuất kinh doanh 2017-2018 (từ ngày 01/7/2017 đến
ngày 30/6/2018), Công ty đạt sản lượng 45.538,45 tấn đường nhập kho, đơn giá
tiền lương mỗi tấn 800.000 đồng nên quỹ tiền lương của mùa vụ này
36.430.760.000 đồng (45.538,45 tấn x 800.000 đồng/tấn). Trong mùa vụ 2017-
2018, Công ty đã chi trả tiền lương 12 tháng cho người lao động hết
24.520.252.317 đồng, chi thưởng hết 3.005.918.800 đồng nên Công ty còn thừa
quỹ lương 8.904.588.883 đồng, nhưng Công ty không chi trả cho người lao
động Hội đồng quản trị ban hành Nghị quyết số 05 ngày ngày 04/01/2019
hoàn nhập số tiền này giảm lỗ cho mùa vụ sản xuất, kinh doanh 2018-2019, sau
đó Nghị quyết số 45 ngày 15/5/2019 đã bổ sung số tiền trên vào quỹ lương
của mùa vụ 2018-2019. Việc sử dụng quỹ lương như trên trái với Thỏa ước
lao động tập thể Quy chế tiền lương nên các ông, yêu cầu Công ty phải
thanh toán cho các ông, quỹ tiền lương còn thừa của mùa vụ 2017-2018 như
đã nêu trên.
Vào năm 2019, do nhiều người lao động trong Công ty đã khởi kiện
yêu cầu Công ty chi trả quỹ lương thừa nêu trên nên vào ngày 10/9/2020, Công
ty ra thông báo số 37/TB-ĐST/2020 với nội dung:“Sau khi bản án của Toà
án cấp cao nhất của vụ kiện cuối cùng được đưa ra xét xử, nếu phán quyết của
tòa buộc Công ty phải thanh toán tiền lương cho người lao động thì Công ty sẽ
thực hiện, tiền lương sẽ được chi trả cho những người đơn kiện những
người không đơn kiện đã làm việc tại Công ty trong vụ 2017-2018”, để động
viên công nhân chờ đợi kết quả các vụ kiện trên. Tuy nhiên, sau khi kết quả
giải quyết của Tòa án, phía Công ty vẫn không thực hiện việc chi trả tiền lương
theo như thông báo.
Nay c ông, yêu cầu Toà án giải quyết: Buộc Công ty cổ phần Mía
đường S chi trả quỹ lương còn thừa 8.904.588.883 đồng của mùa vụ sản xuất,
kinh doanh 2017-2018 cho các ông, , theo tỷ lmức lương của từng người
được hưởng tại thời điểm tháng 6/2018. Cách tính như sau: Tổng quỹ tiền lương
thừa (8.904.588.883 đồng) chia cho tổng số tiền lương phải trcho người lao
động trong 01 tháng (tháng 6/2018 1.547.373.212 đồng) bằng số tháng lương
mỗi lao động sẽ được hưởng (5,75 tháng) nhân (x) cho số tiền thực lãnh của
từng người lao động bằng (=) số tiền Công ty phải trả. Cụ thể từng người:
Bà Ngô Thị H: 3.445.000 đồng x 5,75 = 19.808.750 đồng.
Ông Hoàng Minh Th: 4.467.000 đồng x 5,75 = 25.685.250 đồng.
Ông Nguyễn Khắc Ch: 4.367.000 đồng x 5,75 = 25.110.250 đồng.
4
Bà Phan Thị H1: 3.727.000 đồng x 5,75 = 21.430.250 đồng.
Do trong trong vụ mùa 2017-2018 (từ 01/7/2017 đến 30/6/2018), ông Th,
ông Ch và bà H1 đều làm đủ 12 tháng nên giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, còn
H thì làm được 11 tháng (không có làm tháng 9/2017) nên thay đổi một phần
yêu cầu khởi kiện, yêu cầu Công ty chi trả quỹ lương còn thừa của mùa vụ
2017-2018 cho với số tiền 3.445.000 đồng x (5,75/12 tháng) x 11 tháng =
18.158.020 đồng.
Trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện hợp pháp của bị đơn
Công ty cổ phần Mía đường S là ông Nguyễn Thanh H trình bày:
Các nguyên đơn yêu cầu Tòa án buộc Công ty c phần Mía đường S thanh
toán số tiền còn lại của Quỹ lương a vụ 2017-2018 (tính tngày 01/7/2017
đến ngày 30/6/2018). Vụ việc xảy ra từ tháng 6/2018 nhưng đến ngày
11/10/2024, các nguyên đơn mới đơn khởi kiện gửi cho Toà án. Căn cứ
khoản 3 Điều 190 của Bộ luật Lao động năm 2019 khoản 2 Điều 184 của Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015, thì thời hiệu để các nguyên đơn yêu cầu Tòa án
giải quyết đến nay đã hết nên yêu cầu Toà án áp dụng thời hiệu khởi kiện
đình chỉ giải quyết vụ án.
Công ty thừa nhận ban hành Thông báo số 37/TB-ĐST/2020 ngày
10/9/2020 với nội dung như phía các nguyên đơn trình bày, nhưng mục đích
Công ty ban hành là để người lao động yên tâm công tác. Hiện nay, 11 vụ kiện
theo thông báo trên của Công ty đều đã được đưa ra xét xử xong và có hiệu lực.
Đối với yêu cầu của các nguyên đơn, Công ty ý kiến: H, ông Th,
ông Ch, H1 là người lao động làm việc tại Công ty, theo đó H, H1 làm
theo thời vụ. Trong mùa vụ sản xuất, kinh doanh 2017-2018, bà H làm việc
được 11 tháng (không làm tháng 9/2023), còn H1 làm việc được 09 tháng
(không làm tháng 7, tháng 8 tháng 9/2023, do nghỉ chờ việc), ông Th ông
Ch làm việc đủ 12 tháng. Đến nay, H, ông Th, ông Ch H1 vẫn còn làm
việc tại Công ty.
Điều 25 của Quy chế tiền lương ban hành kèm theo Quyết định 161/QĐ-
TGĐ.2009 ngày 31/8/2009 và Điều 10.3 của Quy chế thanh toán tiền lương, tiền
thưởng ban hành kèm theo Quyết định số 43/QĐ-HĐQT ngày 27/12/2017, Công
ty thấy rằng không bất kỳ sở, nội dung nào thể hiện Công ty buộc phải
thanh toán cho người lao động phần tiền còn lại của Quỹ lương vụ sản xuất năm
2017-2018 8.904.588.883 đồng, c thể căn cứ Điều 5 của Thỏa ước lao
động ngày 30/9/2016: “Công ty áp dụng hình thức trả lương theo sản phẩm
(đơn giá theo kế hoạch được Đại hội đồng cổ đông hàng năm thông qua). Tiền
lương người lao động được đảm bảo chi trả đúng Quy chế thanh toán tiền
lương, tiền thưởng của công ty”; Điều 10.3 của Quy chế lương năm 2017 quy
định: Trường hợp phát sinh tiền thừa của quỹ lương, Tổng Giám đốc sẽ quyết
định chi hết trong thời gian theo quy định đảm bảo chi phí được trừ khi xác định
thuế thu nhập doanh nghiệp”. Theo đó, bao gồm quy định tại Điều 10.3 các
điều khoản khác của Quy chế, không bất kỳ nội dung nào cho rằng Công ty
5
buộc phải thanh toán hết phần tiền còn lại của quỹ lương cho người lao động
trong vụ sản xuất tương ứng; công thức, cách tính ra số tiền tương ứng chi tương
ứng. Thực tế, tính từ thời điểm thành lập Công ty ngày 02/02/1996 cho đến nay,
Công ty luôn quán triệt và sử dụng quỹ lương theo bản chất là một nguồn tiền để
hỗ trợ Công ty cân đối dòng tiền nhằm mục đích chi lương, chi thưởng, phụ cấp,
trợ cấp chi phí khác cho người lao động như được quy định theo Điều 10.2
Quy chế tiền lương 2017, không khoản tiền lương để buộc chi hết cho
toàn thể người lao động cuối bất kỳ vụ sản xuất cụ thể nào. Bên cạnh đó, các
nguyên đơn buộc Công ty phải trả tiền cho nguyên đơn thì các khoản tiền này sẽ
được xác định khoản tiền nào theo quy chế lương và hệ số để tính lương
như thế nào. nếu xét tính chất tiền lương, các khoản tiền này không tính
chất tiền lương, do vượt quá hạn mức tiền lương được Công ty thỏa thuận với
người lao động tại hợp đồng lao động; đồng thời, mỗi nguyên đơn thời gian
tham gia quan hệ lao động tại Công ty khác nhau nên hệ số tính lương sẽ áp
dụng không như nhau, quan trọng nhất chính Công ty đã trả lương đầy đủ,
đúng hạn cho người lao động tương ứng với thời gian làm việc của mỗi người.
Nếu xét tính chất tiền thưởng, trong mùa vụ 2017-2018, Công ty đã chi thưởng
cho người lao động với mức thưởng lên đến 02 tháng tiền lương và đến nay,
Công ty chưa từng có quyết định hoặc chính sách nào nhằm tuyên bố rằng Công
ty sẽ tiếp tục chi thưởng từ khoản tiền của quỹ lương. Do đó, Công ty không
đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn.
Tại Bản án số 06/2025/-ST ngày 31/3/2025, Tòa án nhân dân thành
phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng (nay là Tòa án nhân dân khu vực 5 - Cần Thơ) đã
quyết định:
Căn cứ khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39, Điu 92, Điều 95, Điu 190, khoản 1 Điu 244, Điều 271, Điu 273 Bộ luật
Tố tụng dân sự; khoản 3 Điều 187, Điều 188, khoản 1 Điều 190, Điều 220 B
luật Lao động năm 2019; điểm b khoản 1 Điu 157 Bộ luật Dân sự năm 2015 và
đim a khoản 1 Điều 12, khon 4 Điu 26 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngô Thị H, ông Hoàng Minh Th,
ông Nguyễn Khắc Ch. Buộc Công ty Cổ phần Mía đường S phải thanh toán tiền
lương theo sản phẩm của vụ sản xuất 2017-2018 còn lại chưa thanh toán cho bà
Ngô Thị H số tiền 18.158.020 đồng, ông Hoàng Minh Th số tiền 25.685.250
đồng, ông Nguyễn Khắc Ch số tiền 25.110.250 đồng.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Phan Thị H1. Buộc
Công ty Cổ phần Mía đường S phải thanh toán tiền lương theo sản phẩm của vụ
sản xuất 2017-2018 còn lại chưa thanh toán cho bà Phan Thị H1 số tiền
16.072.687 đồng.
6
3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Phan Thị H1, về việc yêu
cầu Công ty Cổ phần Mía đường S phải thanh toán số tiền 5.357.562 đồng.
Ngoài ra, bản án thẩm còn quyết định về án phí, nghĩa vụ phải trả tiền
lãi do chậm thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án ngay của các nguyên đơn
quyền kháng cáo của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm:
Ngày 10/4/2025, Công ty cphần Mía đường S có đơn kháng cáo toàn bộ
bản án thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét, giải quyết theo hướng
hủy toàn bộ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án.
Ngày 15/4/2025, bà H1 cũng đơn kháng cáo một phần bản án thẩm,
yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét, giải quyết sửa bản án thẩm theo
hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà, buộc Công ty cổ phần Mía đường S
phải thanh toán cho bà quỹ tiền lương còn thừa của mùa vụ sản xuất, kinh doanh
2017-2018 với số tiền 21.430.250 đồng.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Người đại diện hợp pháp của các nguyên đơn người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của các nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp của các nguyên đơn không đơn rút lại đơn
khởi kiện, không rút kháng cáo của H1; người đại diện hợp pháp của bị đơn
không rút kháng cáo và các đương sự cũng không thỏa thuận được với nhau về
việc giải quyết vụ án.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp
luật của những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng trong quá
trình giải quyết vụ án giai đoạn phúc thẩm. Đối với yêu cầu kháng cáo của bà
H1 và của Công ty cổ phần Mía đường S không căn cứ nên đnghị Hội
đồng xét xử không chấp nhận và áp dụng khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về svắng mặt của người đại diện hợp pháp của các nguyên đơn
ông Nguyễn Ngọc Đ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các nguyên
đơn là ông Nguyễn Văn N: Các ông đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất
để tham gia phiên tòa phúc thẩm, nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Do đó,
căn cứ khoản 2 Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử
phúc thẩm tiến hành phiên tòa phúc thẩm xét xử vắng mặt các ông.
[2] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của Phan Thị
H1, của Công ty cổ phần Mía đường S đảm bảo về mặt hình thức nội dung,
đúng người có quyền kháng cáo, còn trong thời hạn kháng cáo theo quy định tại
7
các Điều 271, Điều 272 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nên hợp
lệ, đủ điều kiện để giải quyết, xét xử theo trình tự phúc thẩm.
[3] Xét kháng cáo của H1, của Công ty cổ phần Mía đường S, Hội
đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy:
[4] Trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện hợp pháp của Công ty
cổ phần Mía đường S đều xác nhận NThị H, ông Hoàng Minh Th, ông
Nguyễn Khắc Ch Phan Thị H1 người lao động của Công ty, lĩnh lương
hàng tháng trong mùa vụ sản xuất, kinh doanh 2017-2018. Căn cứ khoản 2 Điều
92 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, đây tình tiết các nguyên đơn không
phải chứng minh.
[5] Theo các tài liệu, chứng cứ do các đương sự cung cấp đã thể hiện, mùa
vụ sản xuất, kinh doanh 2016-2017, Công ty còn thừa quỹ tiền lương
715.002.892 đồng; mùa vụ sản xuất, kinh doanh 2017-2018, Công ty đạt sản
lượng 45.538,45 tấn đường nhập kho, đơn giá tiền lương mỗi tấn 800.000 đồng,
quỹ lương trích trong vụ này 36.430.760.000 đồng, đã chi trả tiền lương 12
tháng cho toàn thể người lao động hết 24.520.252.317 đồng, chi thưởng hết
3.005.918.800 đồng, còn lại 9.619.591.775 đồng (trong đó 715.002.892 đồng
của mùa vụ sản suất, kinh doanh 2016-2017 chuyển qua). Như vậy, căn cứ
xác định số tiền quỹ lương còn thừa của vụ sản xuất, kinh doanh năm 2017-2018
của Công ty là 9.619.591.775 đồng - 715.002.892 đồng = 8.904.588.883 đồng.
[6] Điều 5 của Thỏa ước lao động tập thể ngày 30/9/2016 quy định:
“Công ty áp dụng hình thức trả lương theo sản phẩm (đơn giá theo kế hoạch
được Đại hội đồng cổ đông thường niên hàng năm thông qua). Tiền lương của
người lao động được đảm bảo chi trả đúng Quy chế thanh toán tiền lương,
thưởng của công ty”. Theo Điều 25 của Quy chế thanh toán tiền lương, thưởng
ban hành kèm theo Quyết định số 161/QĐ-TGĐ.2009 ngày 31/8/2009 của Tổng
Giám đốc Công ty cổ phần Mía đường S thì việc xử lý quỹ lương thừa được xác
định như sau: “…Hình thức chi theo cách phân phối sản phẩm theo hệ số CBCV
+ thành tích thi đua cá nhân tại mỗi thời điểm chi thích hợp; Thanh toán hết cho
người lao động được hưởng trong thời hạn không quá quy định của pháp luật
vào đầu năm sau”. Khoản 3 Điều 10 của Quy chế thanh toán tiền lương, tiền
thưởng ban hành kèm theo Quyết định số 43/QĐ-HĐQT.2017 ngày 27/12/2017
(thay thế Quy chế thanh toán tiền lương, tiền thưởng năm 2009) quy định việc
xử lý quỹ lương thừa như sau: “…Tổng giám đốc sẽ quyết định chi hết trong
thời gian theo quy định đảm bảo chi phí được trừ khi xác định thuế Thu nhập
doanh nghiệp”.
[7] Khoản 1, khoản 2 Điều 4; khoản 1 Điều 5 Thông số 78/2014/TT-
BTC ngày 18/6/2014, đã được sửa đổi, bổ sung bằng Thông tư s96/2016/TT-
BTC ngày 22/6/2016 của Bộ Tài chính, hướng dẫn thi hành Nghị định số
218/2013/NĐ-CP ngày 26/12/2013 của Chính phủ, quy định hướng dẫn thi
hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, thì quỹ tiền lương không thuộc doanh
thu để tính thu nhập chịu thuế không thuộc thu nhập chịu thuế thu nhập
doanh nghiệp.
8
[8] Như vậy, theo Thỏa ước lao động tập thể; Quy chế thanh toán tiền
lương, tiền thưởng nêu trên thì quỹ tiền lương còn lại (còn thừa) của mùa vụ sản
xuất, kinh doanh 2017-2018 phải được thanh toán cho người lao động tham gia
lao động trong mùa vụ này.
[9] Theo phía Công ty cổ phần Mía đường S, Hội đồng quản trị của Công
ty ban hành Nghị quyết số 05/NQ-HĐQT.2019 ngày 04/01/2019, trong đó tại
mục 11 Điều 1 thể hiện nội dung: “Quỹ lương còn lại của vụ 2017-2018
9.619.591.775 đồng, yêu cầu BCH hoàn nhập trong vụ 2018-2019 để giảm lỗ
cho công ty”; sau đó ban hành Nghị quyết số 45/NQ-HĐQT ngày 15/5/2019 quy
định: “…Thống nhất sử dụng quỹ tiền lương còn lại của năm 2017-2018
9.619.591.775 đồng đbổ sung cho quỹ lương năm 2018-2019 để đảm bảo đủ
nguồn chi lương cho NLĐ”. Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy, các Nghị quyết
này ban hành khi gần kết thúc mùa vụ sản xuất, kinh doanh 2018-2019 để chi
phối quỹ tiền lương của mùa vụ sản xuất, kinh doanh 2017-2018 (mùa vụ này đã
kết thúc từ ngày 30/6/2018) không đúng với Thỏa ước lao động tập thể ngày
30/9/2016 và Quy chế thanh toán tiền lương, tiền thưởng ban hành kèm theo
Quyết định số 43/QĐ-HĐQT.2017 ngày 27/12/2017.
[10] Do đó, Hội đồng xét xử sơ thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện
của Ngô Thị H, ông Hoàng Minh Th, ông Nguyễn Khắc Ch; chấp nhận một
phần yêu cầu khởi kiện của bà Phan Thị H1, lấy quỹ tiền lương còn thừa mùa vụ
sản xuất, kinh doanh 2017-2018 là 8.904.588.883 đồng chia cho tổng tiền lương
thực tế Công ty chi trả cho tất cả người lao động vào tháng cuối cùng của
mùa vụ này, tức tháng 6/2018 (1.547.373.212 đồng), để từ đó tính ra số lương
bình quân của mỗi người lao động được hưởng thêm 5,75 tháng, nhân với số
tiền lương chính, phụ cấp thâm niên, số tháng thực tế mà các nguyên đơn đã làm
việc, cụ thể: Mùa vụ sản xuất, kinh doanh 2017-2018, ông Th, ông Ch làm việc
đủ 12 tháng, H làm việc được 11 tháng, còn H1 làm việc được 09 tháng
nên Công ty phải trả cho ông Th 25.685.250 đồng, ông Ch 25.110.250 đồng,
H 18.158.020 đồng H1 16.072.687 đồng căn cứ, đúng quy định của
pháp luật.
[11] H1 kháng cáo cho rằng mùa vụ 2017-2018, làm việc đủ 12
tháng nên yêu cầu Công ty phải thanh toán quỹ tiền lương còn thừa của mùa vụ
này cho đủ 12 tháng với số tiền 21.430.250 đồng. Căn cứ vào Bảng lương
chính (bảng lương theo sản phẩm) của mùa vụ sản xuất, kinh doanh 2017-2018
do Công ty cung cấp thể hiện, bà chỉ có tên trong bảng lương 09 tháng, từ tháng
10/2017 đến tháng 6/2018, mùa vụ sản xuất, kinh doanh 2017-2018 bắt đầu từ
ngày 01/7/2017 kết thúc 30/6/2018, còn các tháng 7, 8, 9/2017 thì không
tham gia sản xuất trong 03 tháng này, hưởng lương chờ nghỉ việc, nên yêu cầu
kháng cáo của bà là không có cơ sở để Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận.
[12] Đối với Công ty cổ phần Mía đường S kháng cáo cho rằng, các
nguyên đơn yêu cầu Công ty chi trả quỹ lương còn thừa 8.904 588.883 đồng của
mùa vụ sản xuất, kinh doanh 2017-2018 cho các nguyên đơn không sở,
nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ mới, ngoài những văn bản
9
Công ty đã viện dẫn nêu trên, do đó Hội đồng xét xử phúc thẩm cũng không
căn cứ để xem xét và chấp nhận.
[13] Về thời hiệu khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án, Công ty cho
rằng các nguyên đơn yêu cầu Công ty chi trả quỹ lương còn thừa 8.904 588.883
đồng của mùa vụ sản xuất, kinh doanh 2017-2018, mùa vụ này bắt đầu từ ngày
01/7/2017 đến ngày 30/6/2018, nhưng đến ngày 11/10/2024 các nguyên đơn mới
nộp đơn khởi kiện, theo quy định tại khoản 3 Điều 190 của Bộ luật Lao động
năm 2019 là hết thời hiệu khởi kiện, Công ty đã nộp đơn yêu cầu Tòa án áp
dụng thời hiệu khởi kiện yêu cầu áp dụng điểm e khoản 1 Điều 217 của Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015, đình chỉ giải quyết vụ án. Hội đồng xét xử
thẩm không chấp nhận yêu cầu này và xác định còn thời hiệu khởi kiện là có căn
cứ.
[13.1] Bởi lẽ, sau khi kết thúc mùa vụ 2017-2018, vào năm 2019, nhiều
người lao động Công ty đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc
Công ty chi trả quỹ lương còn thừa 8.904 588.883 đồng của mùa vụ sản xuất,
kinh doanh 2017-2018 (11 vụ kiện). Công ty đã ban hành Văn bản số 37/TB-
ĐST/2020 ngày 10/9/2020 nội dung: “….Sau khi bản án của Tòa án cấp
cao nhất của vụ kiện cuối cùng được đưa ra xét xử, nếu phán quyết của Tòa án
buộc Công ty phải thanh toán tiền lương cho người lao động thì Công ty sẽ thực
hiện, tiền lương sẽ được chi trả cho người có đơn kiện và những người không có
đơn kiện đã làm việc tại Công ty trong vụ 2017-2018”. Văn bản này được niêm
yết công khai tại Công ty cho người lao động biết. Thời điểm này, bà H, ông Th,
ông Ch và bà H1 những người lao động không đơn khởi kiện do xuất phát
từ nội dung văn bản này của Công ty. Đây được xem là Công ty đã thừa nhận
nghĩa vụ của mình đối với người lao động, cam kết chi trả cho người lao động
khi có quyết định cuối cùng của Tòa án, trong đó có cả người lao động không có
đơn khởi kiện đã làm việc tại Công ty tronga vụ 2017-2018. Tại phiên tòa
thẩm, người đại diện hợp pháp của Công ty cũng thừa nhận những người có đơn
kiện trước đây đã được Tòa án giải quyết xong, trong đó vụ tranh chấp về
quyền, lợi ích liên quan đến tiền lương giữa ông Nguyễn Văn Nh, Nguyễn
Thanh Ph với Công ty vụ cuối cùng, đã được Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng
xét xử phúc thẩm, tuyên án ngày 26/8/2024 hiệu lực pháp luật, kết quả là
Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của những người lao động, buộc Công ty
phải chi trả quỹ lương còn thừa 8.904 588.883 đồng của vụ sản xuất, kinh doanh
2017-2018 cho những người lao động. Tuy nhiên, sau đó Công ty không thực
hiện đúng như cam kết tại Văn bản số 37 nêu trên.
[13.2] Khoản 4 Điều 190 của Bộ luật Lao động năm 2019 quy định:
“Trường hợp người yêu cầu chứng minh được vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại
khách quan hoặc do khác theo quy định của pháp luật không thể yêu cầu
đúng thời hạn quy định tại Điều này thì thời gian skiện bất khả kháng, trở
ngại khách quan hoặc lý do đó không tính vào thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh
chấp lao động nhân”. Khoản 1 Điều 157 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy
định thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự bắt đầu lại trong các trường hợp: “a. Bên
nghĩa vụ đã thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình đối với
10
người khởi kiện; b. Bên nghĩa vụ thừa nhận hoặc thực hiện xong một phần
nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện; c. Các bên đã tự hòa giải với nhau.
Căn cứ các quy định này, thời hiệu khởi kiện được tính lại kể từ ngày tiếp theo
của ngày 26/8/2024. Đến ngày 11/10/2024, các nguyên đơn nộp đơn khởi kiện là
còn trong thời hiệu khởi kiện quy định tại khoản 3 Điều 190 của Bộ luật Lao
động năm 2019.
[14] Như vậy, Công ty kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm hủy bản án
thẩm đình chỉ giải quyết vụ án do hết thời hiệu khởi kiện ng ty đã
yêu cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án giải
quyết vụ án theo quy định tại Điều 311 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 là
không có căn cứ để Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận.
[15] Các phần khác trong quyết định của bản án thẩm không kháng
cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[16] Tnhững phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận đề
nghị của Kiểm sát viên, không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của H1, của
Công ty căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, giữ
nguyên bản án lao động sơ thẩm.
[17] Về án phí dân sự phúc thẩm: Khoản 1 Điều 29 Nghị quyết s
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí lphí Tòa
án quy định: “Đương sự kháng cáo phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, nếu Tòa
án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết định thẩm bị kháng cáo, trừ
trường hợp được miễn hoặc không phải chịu án phí phúc thẩm điểm a
khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết này cũng quy định những trường hợp được
miễn nộp tiền án phí trong đó đối tượng người lao động khởi kiện đòi tiền
lương. Như vậy, H1 người kháng cáo không được Tòa án chấp nhận
người lao động khởi kiện đòi tiền lương, có đơn yêu cầu miễn nộp tiền án p
phúc thẩm nên Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận miễn án phí phúc thẩm
cho bà; còn đối với Công ty cổ phần Mía đường S cũng người kháng cáo
không được chấp nhận cũng không thuộc trường hợp được miễn hoặc không
phải chịu án phí phúc thẩm nên Công ty phải chịu án phí dân sự phúc thẩm
300.000 đồng và được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308, khoản 6 Điều 313 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015; điểm a khoản 1 Điều 12, khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của nguyên đơn Phan Thị H1
bị đơn Công ty cổ phần Mía đường S.
11
1. Giữ nguyên Bản án lao động sơ thẩm số 06/2025/LĐ-ST ngày 31 tháng
3 năm 2025 của Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng (nay
Tòa án nhân dân khu vực 5 - Cần Thơ), như sau:
Tuyên xử:
1.1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngô Thị H, ông Hoàng
Minh Th ông Nguyễn Khắc Ch. Buộc Công ty cổ phần Mía đường S thanh
toán quỹ tiền lương còn thừa của mùa vụ sản xuất, kinh doanh 2017-2018 cho:
- NThị H số tiền 18.158.020 đồng (Mười tám triệu một trăm năm
mươi tám nghìn không trăm hai mươi đồng);
- Ông Hoàng Minh Th số tiền 25.685.250 đồng (Hai mươi lăm triệu sáu
trăm tám mươi lăm nghìn hai trăm năm mươi đồng);
- Ông Nguyễn Khắc Ch số tiền 25.110.250 đồng (Hai mươi lăm triệu một
trăm mười nghìn hai trăm năm mươi đồng).
1.2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Phan Thị H1. Buộc
Công ty cổ phần Mía đường S thanh toán quỹ tiền lương còn thừa của mùa vụ
sản xuất, kinh doanh 2017-2018 cho Phan Thị H1 số tiền 16.072.687 đồng
(Mười sáu triệu không trăm bảy mươi hai nghìn sáu trăm tám mươi bảy đồng).
Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Phan Thị H1, về
việc yêu cầu Công ty cổ phần Mía đường S thanh toán quỹ tiền lương còn thừa
của mùa vụ sản xuất, kinh doanh 2017-2018 cho bà với số tiền 5.357.562 đồng
(Năm triệu ba trăm năm mươi bảy nghìn năm trăm sáu mươi hai đồng.
1.3. Ngô Thị H, ông Hoàng Minh Th, ông Nguyễn Khắc Ch
Phan Thị H1 có quyền yêu cầu thi hành án ngay khoản tiền Công ty cổ phần
Mía đường S nghĩa vụ thanh toán cho các ông, theo quy định tại điểm a
khoản 2 Điều 482 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 2 Điều
2 của Luật Thi hành án dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung).
1.4. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của Ngô Thị H, ông Hoàng
Minh Th, ông Nguyễn Khắc Ch Phan Thị H1 cho đến khi thi hành án
xong; hàng tháng, Công ty cổ phần Mía đường S còn phải chịu khoản tiền lãi
của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468
của Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
1.5. Án phí dân sự sơ thẩm:
- Bà Phan Thị H1 được miễn.
- Công ty cổ phần Mía đường S phải chịu là 2.550.786 đồng (Hai triệu
năm trăm năm mươi nghìn bảy trăm tám mươi sáu đồng).
2. Án phí dân sự phúc thẩm:
- Bà Phan Thị H1 được miễn.
- Công ty cổ phần Mía đường S phải chịu là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn
đồng), được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm
12
nghìn đồng), theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000241 ngày 11
tháng 4 năm 2025 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố S, tỉnh Sóc Trăng
và như vậy, Công ty cổ phần Mía đường S đã nộp đủ án phí phúc thẩm.
3. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân
sự, người phải thi hành án dân sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu
cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy
định tại các Điều 6, 7, 7a 9 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung
năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND khu vực 5 - Cần Thơ;
- VKSND TP Cần Thơ;
- VKSND khu vực 5 - Cần Thơ;
- THADS TP C;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Hoàng Lâm
Tải về
Bản án số 06/2025/LĐ-PT Bản án số 06/2025/LĐ-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 06/2025/LĐ-PT Bản án số 06/2025/LĐ-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất