Bản án số 09/2024/DS ngày 30/09/2024 của TAND TX. Ayun Pa, tỉnh Gia Lai về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 09/2024/DS
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 09/2024/DS
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 09/2024/DS
Tên Bản án: | Bản án số 09/2024/DS ngày 30/09/2024 của TAND TX. Ayun Pa, tỉnh Gia Lai về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TX. Ayun Pa (TAND tỉnh Gia Lai) |
Số hiệu: | 09/2024/DS |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 30/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Bà Huỳnh Thị L và ông Huỳnh Ch tranh chấp đòi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THỊ XÃ A TỈNH X Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 09/2024/DS - ST
Ngày 30/9/2024
V/v “Tranh chấp đòi lại giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất”
NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ A, TỈNH X
- Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
- Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Ksor H’Đuen
- Các Hội thẩm nhân dân: 1. Ông Nguyễn Đức Thại
2. Ông Trần Văn Công
- Thư ký phiên toà: Bà Trần Thị Hợi – Thư ký Toà án nhân dân thị xã A, tỉnh
X.
- Đại diện viện kiểm sát nhân thị xã A tham gia phiên tòa: Ông Nay Ha –
Kiểm sát viên
Ngày 30 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã A, tỉnh X, xét xử
sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 67/2024/TLST-DS ngày 16 tháng 8 năm
2024, về việc: “Tranh chấp đòi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”, theo Quyết
định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2024/QĐXXST - DS ngày 16 tháng 9 năm 2024,
giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị L, sinh năm: 1976. Có mặt
Địa chỉ: Bôn H, xã I, thị xã A, tỉnh X.
Là người giám hộ cho ông Huỳnh U, sinh năm 1966.
Địa chỉ: Tổ 03, phường S, thị xã A, tỉnh X
- Bị đơn: Ông Huỳnh Ch, sinh năm: 1971. Có mặt
Địa chỉ: Tổ 03, phường S, thị xã A, tỉnh X
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Huỳnh C, sinh năm 1963. Có mặt
Địa chỉ: Thôn X, xã An, huyện T, tỉnh X
2. Ông Huỳnh N, sinh năm 1964. Có mặt
Địa chỉ: Tổ 4, phường S, thị xã A, tỉnh X
3. Ông Huỳnh B, sinh năm 1968.
Địa chỉ: Tổ 5, phường S, thị xã A, tỉnh X.
Ông Huỳnh B vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trong đơn khởi kiện và bản tự khai ngày 16/8/2024 và các biên bản hòa giải,
nguyên đơn bà Huỳnh Thị L trình bày:
2
Gia đình bà hiện có 6 anh em ruột gồm có ông Huỳnh C, Huỳnh N, Huỳnh U,
Huỳnh B, Huỳnh Ch và bà là Huỳnh Thị L. Ông Huỳnh U bị tàn tật đi lại khó khăn.
Trước đây bố mẹ ông bà chia cho các con mỗi người một lô đất kể cả ông Huỳnh U.
Đất bố mẹ chia cho ông Huỳnh U đã được Ủy ban Nhân dân thị xã A cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 600067, thửa đất số 2, tờ bản đồ số 79 cấp
ngày 01 tháng 12 năm 2008 đứng tên ông Huỳnh U . Địa chỉ thửa đất ở tại số nhà
103, đường hai Bà Trưng, phường S, thị xã A, tỉnh X. Trên đất hiện có căn nhà tạm
của ông Huỳnh U.
Trước đây ông Huỳnh U sống chung với với gia đình em trai là ông Huỳnh
Ch. Từ năm 2008 ông Huỳnh U làm nghề Điện cơ tại căn nhà tạm của ông tại số nhà
103, đường hai Bà Trưng, phường S, thị xã S tỉnh X, năm 2020 ông Huỳnh U bị tai
biến nặng mất nhận thức, ông Huỳnh Ch không chịu chăm sóc ông Huỳnh U nên đã
bỏ mặc ông Huỳnh U.
Do vậy, ngày 25 tháng 12 năm 2021, gia đình bà bao gồm: bà (Huỳnh Thị L),
ông Huỳnh C, Huỳnh N, Huỳnh B, Huỳnh Ch, Huỳnh U đã họp và giao trách nhiệm
cho bà nuôi dưỡng chăm sóc ông Huỳnh U đến hết đời. Cuộc họp gia đình đã thống
nhất ủy quyền cho vợ chồng bà được bán lô đất của ông Huỳnh U tại số nhà 103 Hai
Bà Trưng, phường S, thị xã A (chiều ngang 4 mét, chiều dài 58 mét) đất của cha mẹ
cho ông Huỳnh U, anh em trong gia đình thống nhất bán để lấy tiền nuôi dưỡng,
chăm sóc ông Huỳnh U đến hết đời. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK
600067 do ông Huỳnh Ch đang giữ. Khi nói ông Huỳnh Ch trả lại Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất của ông Huỳnh U thì ông Huỳnh Ch không đồng ý trả lại. Mặc
dù các thành viên trong gia đình đã có ý kiến và Ủy ban nhân dân phường S cũng đã
hòa giải nhưng ông Huỳnh Ch cũng không đồng ý trả lại cho ông U.
Ngày 12/6/2024, TAND thị xã Ayun Pa đã ban hành Quyết định giải quyết
việc dân sự, tuyên bố ông Huỳnh U là người mất năng lực hành vi dân sự nên ngày
31/7/2024 tại UBND phường S thị xã A gia đình thống nhất cử bà là Huỳnh Thị L là
người giám hộ cho ông Huỳnh U.
Nay bà là người giám hộ cho ông Huỳnh U làm đơn yêu cầu Tòa án nhân dân
thị xã Ayun Pa buộc ông Huỳnh Ch phải trả lại cho bà, bản chính Giấy chứng nhận
Quyền sử dụng đất số AK 600067 cấp ngày 01 tháng 12 năm 2008 của ông Huỳnh
U.
Tại bản tự khai và các biên bản hòa giải bị đơn ông Huỳnh Ch trình bày:
Ông Huỳnh U sinh sống cùng ông từ lúc ông chưa lập gia đình, cho đến lúc
lập gia đình và đến khi cả cha mẹ đều qua đời. Khi ở cùng, ông có giữ Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất của ông Huỳnh U và có lần ông mượn Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất của ông Huỳnh U để thế chấp tại Ngân hàng vay vốn làm ăn, nay
đã ông trả tiền Ngân hàng và lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất về. Năm 2020
ông Huỳnh U bị tai biến nặng gia đình ông chăm sóc được một năm, đến năm 2021
gia đình ông gặp khó khăn nên mong muốn anh em trong gia đình thay nhau chăm
sóc ông U, nên ông đồng ý giao cho bà L chăm sóc ông U. Thời gian gần đây ông
muốn đưa ông U về để chăm sóc thì bà L và gia đình bà L phản đối.

3
Hiện nay ông đang giữ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Huỳnh
U nhưng ông không chấp nhận đưa cho bà L vì ông không đồng ý bán đất của ông
Huỳnh U. Nếu bà L không nuôi được ông U thì ông sẽ đưa ông U về nuôi.
Nay bà L khởi kiện yêu cầu ông trả lại bản chính Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất của ông U cho bà L. Ông không đồng ý, vì ông không đồng ý bán đất của
ông U, ông có đủ điều kiện để chăm sóc, nuôi dưỡng ông U mà không cần thiết phải
bán đất.
Tại bản tự khai và biên bản hòa giải, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
ông Huỳnh C trình bày: Ông là anh ruột và là anh cả trong gia đình, ông đồng ý với
ý kiến của bà L, bà L có trách nhiệm nuôi dưỡng ông Huỳnh U. Khi còn sống cha
mẹ đã cho tất cả các con tài sản, lô đất là tài sản của ông U, hiện ông U đã già yếu và
đang đau bệnh, nên phải có người chăm sóc và phải có tiền để chữa bệnh để nuôi
dưỡng chăm sóc tốt cho ông U. Tôi đồng ý giao cho bà L tiếp tục nuôi dưỡng, chăm
sóc ông U, tôi không đồng ý giao cho ông Ch nuôi dưỡng ông U. Nay tôi yêu cầu
ông Huỳnh Ch trả lại bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 600067
cho ông Huỳnh U do em gái là Huỳnh Thị L giám hộ nhận.
Tại bản tự khai và biên bản hòa giải, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
ông Huỳnh N trình bày: Ông là anh ruột của ông Huỳnh U, ông đồng ý với ý kiến
của bà L, bà L có trách nhiệm nuôi ông Huỳnh U. Cha mẹ đã cho tất cả các con tài
sản, lô đất là tài sản của ông U, ông U không có vợ con, hiện ông U đã già yếu và
đang đau bệnh, anh em ai cũng khó khăn nên cần thiết phải bán đất của ông U để ông
U được hưởng phần tài sản của ông ấy. Hiện ông U đang bệnh cần phải có người
chăm sóc và cần phải có tiền để chữa bệnh. Tôi đồng ý giao cho bà L tiếp tục nuôi
dưỡng, chăm sóc ông U. Nên yêu cầu ông Huỳnh Ch trả lại bản chính Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số AK 600067 cho ông Huỳnh U do em gái là Huỳnh Thị L
giám hộ nhận.
Tại bản tự khai và biên bản hòa giải, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
ông Huỳnh B trình bày: Tôi là em ruột của ông Huỳnh U, tôi đồng ý với ý kiến của
bà L và cũng như anh em đã thống nhất trước đây giao bà L có trách nhiệm nuôi
dưỡng, chăm sóc cho anh Huỳnh U. Đề nghị ông Huỳnh Ch trả lại giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho anh Huỳnh U thông qua người giám hộ là bà Huỳnh Thị L.
*Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư
ký phiên tòa: Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án, đã xác định đúng quan hệ
tranh chấp, thụ lý vụ án đúng thẩm quyền, xác định đúng tư cách pháp lý và mối
quan hệ giữa những người tham gia tố tụng, tiến hành thu thập đầy đủ chứng cứ. Tại
phiên tòa, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ
luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm, các quyền và nghĩa vụ của đương sự trong
tranh tụng tại phiên tòa được bảo đảm thực hiện.
- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của những người tham gia tố tụng: Trong
quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa các đương sự đã thực hiện đầy đủ
quyền, nghĩa vụ của họ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

4
- Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ khoản 2 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35,
39, 147, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 105, 115, 166, 279 Bộ luật dân sự; Khoản
16 Điều 3 Luật đất đai; Khoản 2 và khoản 3 Điều 28 Nghị định số 62/2015/NĐ-
CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Thi hành án dân sự và các quy định khác của pháp luật; Điều 26,
27 Nghị quyết số 326/2016/UBTV-QH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ
phí Tòa án:
+ Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Thị L.
Buộc ông Huỳnh Ch phải trả lại cho ông Huỳnh U thông qua người giám hộ là bà
Huỳnh Thị L bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 600067, thửa đất
số 02, tờ bản đồ số 79, địa chỉ đất tại 103 Hai Bà Trưng, phường S, thị xã A, X (tài
sản gắn liền với đất là nhà ở, 01 tầng, diện tích xây dựng 40m2, kết cấu nhà: tạm) do
Ủy ban nhân dân thị xã Ayun Pa, Gia Lai cấp ngày 01/02/2008, đứng tên ông Huỳnh
U.
- Về án phí: Buộc bị đơn ông Huỳnh Ch phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo
quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
toà,Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả
lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên đây là quan hệ pháp luật tranh chấp về
“Kiện đòi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Bộ
luật tố tụng dân sự và bị đơn cơ nơi cư trú tại thị xã A nên tranh chấp này thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã A theo quy định tại điểm b khoản 1
Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về tố tụng: Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông ông Huỳnh B có
đơn xin xét xử vắng mặt nên căn cứ Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến
hành xét xử vụ án vắng người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Huỳnh B.
[3] Về yêu cầu của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy: Ông Huỳnh U là
chủ sử dụng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 600067, thửa đất số 2, tờ
bản đồ số 79, địa chỉ thửa đất ở tại số nhà 103, Hai Bà Trưng, phường S, thị xã A,
tỉnh X, (tài sản gắn liền với đất là nhà ở, 01 tầng, diện tích xây dựng 40m2, kết cấu
nhà: tạm) do Ủy ban nhân dân thị xã A cấp ngày 01/12/2008, đứng tên ông Huỳnh U.
Trước đây ông Huỳnh U ở chung nhà với gia đình em trai là ông Huỳnh Ch nên Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Huỳnh U là do ông Huỳnh Ch cất giữ. Nay
do ông Huỳnh U bị tai biến không ai chăm sóc nên em gái là Huỳnh Thị L đưa về
nhà chăm sóc. Sau đó anh em thống nhất giao cho bà L chăm sóc ông Huỳnh U.
Ngày 12/6/2024, TAND thị xã A đã giải quyết việc dân sự tuyên bố ông Huỳnh U là

5
người mất năng lực hành vi dân sự, ngày 31/7/2024 tại UBND phường S, thị xã A
gia đình thống nhất cử bà là Huỳnh Thị L là người giám hộ cho ông Huỳnh U.
Trong quá trình Tòa án giải quyết, anh em trong gia đình gồm Huỳnh C,
Huỳnh N và Huỳnh B đều thống nhất giao bà L nuôi dưỡng chăm sóc ông Huỳnh U
và yêu cầu ông Huỳnh Ch giao trả bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
AK 600067 cho ông Huỳnh U để bà L cất giữ hoặc bán để lo chi phí ăn uống thuốc
men cho ông Huỳnh U.
Ông Huỳnh Ch thừa nhận hiện nay đang giữ 01 bản gốc Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số AK 600067 của ông Huỳnh U. Ông Huỳnh Ch không đồng ý
giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông U cho bà L, vì ông Ch không đồng
ý để bán lô đất này của ông U. Nếu bà L không có điều kiện để chăm sóc ông U thì
giao lại cho ông Ch chăm sóc.
Từ năm 2021 đến nay ông Huỳnh U được bà L đưa về nhà chăm sóc, nuôi
dưỡng và việc này cũng đã được anh em trong gia đình thống nhất, nên bà L và anh
em trong gia đình gồm ông C, ông N và ông B yêu cầu ông Ch giao Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất của ông U cho bà L là hoàn toàn chính đáng vì quyền lợi của
ông U.
Ông Ch cho rằng, ông có đủ điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc ông U nên không
cần bán đất của ông U và không đồng ý giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của
ông U cho bà L. Ý kiến này của ông Ch là không phù hợp và không có căn cứ để
chấp nhận. Bởi lẽ, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là giấy tờ chứng nhận quyền
về tài sản của ông U nên phải giao lại cho ông U, hiện gia đình đã thống nhất giao
cho bà L chăm sóc, nuôi dưỡng ông U và bà L là người giám hộ cho ông U nên Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất của ông U, ông Ch phải trả lại cho ông U thông qua
người giám hộ của ông U là bà L. Việc ông Ch giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất của ông U là trái pháp luật, cản trở việc thực hiện quyền người sử dụng đất của
ông U.
Từ những xem xét, đánh giá và nhận định trên, xét thấy yêu cầu của bà L là có
căn cứ, phù hợp với Điều 3, 115, Điều 279 và Điều 356 Bộ luật dân sự; khoản 16
Điều 3 Luật đất đai, nên cần chấp nhận yêu cầu của bà L. Cần buộc ông Huỳnh Ch
phải giao trả cho ông Huỳnh U thông qua người giám hộ là bà Huỳnh Thị L bản
chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 600067.
[3] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn ông
Huỳnh Ch phải chịu toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm. Trả lại tiền tạm ứng án phí
cho nguyên đơn.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Áp dụng khoản 2 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39;
Điều 147, điểm b, Điều 228; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
- Áp dụng Điều 3, Điều 105, 115, Điều 279 và Điều 356 Bộ luật dân sự;
- Áp dụng khoản 16 Điều 3 Luật đất đai;

6
- Áp dụng Điều 26, Điều 27 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12
năm 2016 của Uỷ ban tường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án.
Tuyên xử:
[1] Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Thị L.
Buộc ông Huỳnh Ch phải trả lại cho ông Huỳnh U thông qua người giám hộ là
bà Huỳnh Thị L bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 600067, thửa
đất số 2, tờ bản đồ số 79, địa chỉ đất tại 103, Hai Bà Trưng, phường S, thị xã A, tỉnh
X, do Ủy ban nhân dân thị xã A cấp ngày 01/12/2008, đứng tên ông Huỳnh U.
Nếu ông Huỳnh Ch không giao trả bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất trên thì bà Huỳnh Thị L (người giám hộ của ông Huỳnh U) có quyền yêu cầu Chi
cục thi hành án dân sự đề nghị cơ quan có thẩm quyền hủy Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất trên và cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Huỳnh U
theo Luật đất đai 2024
[2] Về án phí: Bị đơn ông Huỳnh Ch phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm
ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Trả lại cho bà Huỳnh Thị L số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo
biên lai số 0012070 ngày 16/8/2024 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Ayun Pa,
Gia Lai.
[3] Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo
bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 30/9/2024. Đương sự vắng mặt có
quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc
ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo luật định.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại
Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi
hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự
nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a,
7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định
tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Nơi nhận Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
- VKSND TX Ayun Pa;
- THA DS Tx Ayun Pa;
- TAND tỉnh;
- Các đương sự ; Đã ký
- Lưu HS, AV.
Ksor H’Đuen
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 17/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 21/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 18/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 17/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 12/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 10/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 10/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 10/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 07/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 28/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 23/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 23/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 22/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm