Bản án số 08/2025/HNGĐ-ST ngày 29/08/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 8 - Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 08/2025/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 08/2025/HNGĐ-ST ngày 29/08/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 8 - Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân khu vực 8 - Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên
Số hiệu: 08/2025/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 29/08/2025
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Vụ án ly hôn giữa nguyên đơn Hứa Thị H - bị đơn Hoàng Văn T
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
KHU VỰC 8 - THÁI NGUYÊN
Bản án số:
08/2025/HNGĐ-ST
Ngày: 29-8-2025
V/v tranh chấp
ly hôn,
nuôi con chung
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN KHU VỰC 8 - THÁI NGUYÊN
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Tạ Huyền Trang
Các Hội thẩm nhân dân: Bà Long Thị Thịnh và bà Hoàng Thị Liên
- Thư ký phiên tòa: Bà Hà Thị Hoàn; Thư ký Tòa án nhân dân khu vực 8 -
Thái Nguyên
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân
khu vực 8 - Thái Nguyên tham gia
phiên toà: Bà Triệu Kim Thuý - Kiểm sát viên
Trong ngày 29 tháng 8 năm 2025, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân
khu vực 8 - Thái Nguyên xét xử thẩm công khai
vụ án thụ số:
56/2025/TLST-HNngày 04 tháng 6 năm 2025 về tranh chấp ly hôn, nuôi
con chung theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2025/QĐXX-ST ngày 08
tháng 8 năm 2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Hứa Thị H, sinh năm 1980 (có mặt).
Địa chỉ: Thôn N, xã C, huyện N, tỉnh Bắc Kạn.
Nay là thôn N, xã T, tỉnh Thái Nguyên.
- Bị đơn: Anh Hoàng Văn T, sinh năm 1977 (có mặt).
Địa chỉ: Thôn N, xã C, huyện N, tỉnh Bắc Kạn.
Nay là thôn N, xã T, tỉnh Thái Nguyên.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Nông Thị Lệ Q,
Trợ giúp viên pháp Trung tâm Tr giúp pháp Nnước s 2, tỉnh Thái
Nguyên (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 22 tháng 5 năm 2025, các lời khai trong quá
trình giải quyết vụ án và tại phiên toà nguyên đơn chị Hứa Thị H trình bày:
Về quan hhôn nhân: Ch H anh T kết hôn trên s t nguyn tìm
hiểu, được hai bên gia đình t chức cưới hi theo phong tục địa phương
đăng kết hôn ti UBND C, huyn N, tnh Bc Kn nay T, tnh Thái
Nguyên vào năm 2004. Sau khi kết hôn, v chng ch sng cùng b m chng
mấy năm rồi ra riêng. Thời gian đầu v chng chung sống bình thường, anh T
2
người nóng tính, thnh thong uống rượu tchi mng, do đánh chị H
nhưng chị H nhn nhịn. Đến năm 2014, anh T uống rượu thường xuyên hơn, hay
chi mng ch H, không chăm lo làm ăn, xây dng kinh tế gia đình, thậm chí
còn đánh chị H 02 ln, 01 ln ch H b đánh vào đu phải đi vin khám. Mâu
thun quá gay gắt nên năm 2015 chị H quyết định đi làm công ty, v chng sng
xa nhau mt thời gian đ anh T thay đổi tính tình nhưng trong suốt thi gian ch
H đi làm công ty anh T thưng xuyên gọi đin chi mng, xúc phm ch H. Đến
cuối năm 2024, chị H ngh làm công ty v nhà anh T vẫn thường xuyên ung
u say, chi mng, xúc phm, do đánh chị H, ch H không dám v nhà phi
đi nhà họ hàng nh. Hin nay v chồng đã sống ly thân. Nay ch H xác định
tình cm v chng không còn yêu cu Toà án gii quyết cho ly hôn.
Về con chung: Vợ chồng 02 con chung Hoàng Thị L, sinh ngày
21/01/2004 Hoàng Đình H1, sinh ngày 31/7/2011. Con lớn Hoàng Thị L đã
thành niên, phát triển bình thường nên không yêu cầu Toà án giải quyết; con nhỏ
Hoàng Đình H1 chị H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng. Chị H không yêu cầu
anh T cấp dưỡng tiền nuôi con chung.
Về tài sản chung: Không yêu cầu Toà án giải quyết.
Về nợ chung: Không yêu cầu Toà án giải quyết.
Tại bản trình bày ý kiến ngày 07 tháng 6 năm 2025, các lời khai trong quá
trình giải quyết vụ án và tại phiên toà bị đơn anh Hoàng Văn T trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Anh T và chị H kết hôn trên tinh thần tự nguyện, có
đăng kết hôn tại UBND C, huyện N, tỉnh Bắc Kạn nay T, tỉnh Thái
Nguyên vào năm 2004. Quá trình chung sống vợ chồng chỉ có những mâu thuẫn
nhỏ. Hiện vợ chồng đang sống ly thân, anh T không biết chị H đang đâu. Nay
chị H yêu cầu Toà án giải quyết ly hôn với anh T, anh T không nhất trí ly hôn vì
còn tình cảm với chị H.
Về con chung: Vợ chồng 02 con chung Hoàng Thị L, sinh ngày
21/01/2004 Hoàng Đình H1, sinh ngày 31/7/2011. Con lớn Hoàng Thị L đã
thành niên, phát triển bình thường nên không yêu cầu Toà án giải quyết; con nhỏ
Hoàng Đình H1 nhất trí để chị H trực tiếp nuôi con do anh T không đủ khả năng
nuôi con.
Về tài sản chung: Anh T yêu cầu Toà án giải quyết về tài sản chung
toàn bộ thu nhập có trong tài khoản của chị H thời gian đi làm công ty, xác định
tổng số tiền gửi, số cũng như các giao dịch tài chính từ tài khoản của chị H
để đưa toàn bộ số tài sản này vào khối tài sản chung của vợ chồng để tiến hành
chia theo quy định. Ngoài ra, anh T còn ý kiến chị H trả lại 02 đôi hoa tai
bằng vàng ta (mỗi đôi 01 chỉ), 01 đôi hoa tai vàng tây (01 chỉ), số tiền 8.100.000
đồng và bổ sung phần chi phí nuôi con trong thời gian chung sống nhưng không
đóng góp.
Về nợ chung: Không yêu cầu Toà án giải quyết.
Tại biên bản xác minh ngày 21 tháng 7 năm 2025, Phạm Thị T1, chức
vụ: Chánh văn phòng HĐND-UBND T trình bày: Quá trình chung sống, chị
H thường xuyên đi làm công ty, anh T ở nhà thường xuyên uống rượu. Bà T1
nghe thông tin mấy tháng trước vợ chồng nảy sinh mâu thuẫn, anh T đánh
3
đuổi chị H ra khỏi nhà. Hiện chị H không ở nhà, sống ở đâu không rõ, vchồng
đã sống ly thân.
Tại biên bản xác minh ngày 22 tháng 7 năm 2025, ông Triệu Văn T2
trưởng thôn Ban, T trình bày: Trước đây, chị H đi làm công ty, anh T
nhà thường xuyên uống rượu say, không chăm lo làm ăn, phát triển kinh tế gia
đình. Khi say rượu thì thường xuyên chửi mắng, xúc phạm chị H. Hiện nay chị
H đã nghỉ việc về nhà. Ông T2 nghe thông tin ngày 23/4/2025 (âm lịch) vợ
chồng chị H xảy ra cãi cọ, anh T đuổi chị H ra khỏi nhà, không cho chị H làm
nhà anh T cho rằng đất vợ chồng đang đất của anh T. Ngày 31/5/2025,
ông T2 nhận được tin của Công an C là chị H bị anh T chửi mắng, đuổi đánh
thì ông T2 cùng ông Hoàng Văn H2 đến nhà anh T giải quyết, khi đến nhà anh T
đang say rượu nên chỉ nhắc nhở, ông T2 gọi điện khuyên chị H về nhà nhưng
chị H không dám về sợ bị đánh. Hiện nay, chị H không còn nhà, vợ chồng đã
sống ly thân.
Tại biên bản xác minh ngày 22 tháng 7 năm 2025, ông Hoàng Văn H2
tổ trưởng tổ bảo vệ an ninh trật tự thôn N trình bày: Ông H2 anh trai ruột của
anh T. Quá trình chung sống vợ chồng chị H cãi chửi nhau nhưng không
việc anh T đánh chị H. Đầu năm 2025, chị H gọi ông H2 đến nhà hoà giải,
lần thứ nhất vào ngày 04/01/2025 (âm lịch); lần thứ hai ông H2 không nhớ chính
xác ngày tháng năm chỉ nhớ sau lần thứ nhất khoảng 10 ngày; lần thứ ba chị H
không báo ông mà báo lên công an xã, ông H2 cùng ông T2 trưởng thôn vào nhà
anh T để nhắc nhở. Anh T thường xuyên uống rượu, không chăm lo làm ăn.
Hiện chị H không ở nhà, không biết đi đâu, ở đâu, vợ chồng đã sống ly thân.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn trình bày: Nhất trí với
trình bày của bị đơn về thời gian, địa điểm đăng kết hôn. Quá trình chung
sống vợ chồng nảy sinh mâu thuẫn nhưng những mâu thuẫn nhỏ. Chị H
không giao nộp được các tài liệu chứng minh anh T chửi mắng, đuổi đánh, xúc
phạm chị H. Tại phiên toà anh T mong muốn hàn gắn với chị H. Đề nghị Hội
đồng xét xử căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình không chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc ly hôn.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký
phiên toà đương sự trong quá trình giải quyết vụ án đều chấp hành đúng các
quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, điểm a
khoản 1 Điều 39, Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2025); các Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân gia đình; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy
định ván phí, lệ phí Toà án. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn. Chị H được ly hôn với anh T. Về con chung: Chị
H được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Hoàng
Đình H1 cho đến khi con đủ 18 tuổi; về nghĩa vụ cấp dưỡng không yêu cầu giải
quyết nên không xem xét. Về tài sản chung, nợ chung không yêu cầu giải quyết
nên không xem xét; về án phí đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp
luật.
4
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra tại
phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Nguyên đơn chị Hứa Thị H đơn khởi kiện ly hôn, nuôi
con chung với bị đơn anh Hoàng Văn T. Đây là tranh chấp về hôn nhân và gia
đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án. Bị đơn Hoàng Văn T trú tại
thôn N, C, huyện N, tỉnh Bắc Kạn hiện nay thôn N, T, tỉnh Thái
Nguyên. Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2025) vụ án thuộc thẩm quyền giải
quyết của Toà án nhân dân khu vực 8 - Thái Nguyên.
[2] Về nội dung:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Hứa Thị H anh Hoàng Văn T kết hôn
trên sở tự nguyện tìm hiểu, đăng kết hôn tại Ủy ban nhân dân C,
huyện N, tỉnh Bắc Kạn vào năm 2004 (nay y ban nhân dân T, tỉnh Thái
Nguyên) theo giấy chứng nhận kết hôn số 07, quyển số 01/2004, ngày
19/3/2004. Do vậy, quan hệ hôn nhân của chị H, anh T quan hệ hôn nhân hợp
pháp theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Qua lời trình bày của nguyên đơn thể hiện, trong thời gian chung sống vợ
chồng nảy sinh nhiều mâu thuẫn, anh T thường xuyên say rượu, không chăm lo
làm ăn, phát triển kinh tế gia đình, thường xuyên mắng chửi, xúc phạm chị H.
Lời khai của nguyên đơn phù hợp với nội dung các biên bản xác minh ngày 21
và ngày 22 tháng 7 năm 2025. Anh T cũng thừa nhận được tát chị H 01 lần và đã
được trưởng thôn, tổ bảo van ninh trật tsở thôn đến nhắc nhở, hoà giải
mâu thuẫn. Chị H anh T đều thừa nhận vợ chồng đã sống ly thân, trong suốt
quá trình Tán giải quyết vụ án, anh T cho rằng còn tình cảm với chị H, mong
muốn chH quay về đoàn tụ nhưng lại chưa biện pháp nào để động viên chị
H tiếp tục duy trì mối quan hệ hôn nhân với mình. Mặt khác, trong quá trình giải
quyết vụ án tại phiên toà chị H cương quyết ly hôn, cho thấy ý chí của chị H
không muốn đoàn tụ với anh T. Từ những căn cứ trên, Hội đồng xét xử thấy hôn
nhân giữa chị H, anh T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không
thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu xin
ly hôn của chị H.
[2.2] Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Hoàng Thị L, sinh ngày
21/01/2004 và Hoàng Đình H1, sinh ngày 31/7/2011.
Con chung Hoàng Thị L đã thành niên, phát triển bình thường, các bên
không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải
quyết.
Đối với con chung Hoàng Đình H1, chị H yêu cầu được trực tiếp nuôi
con, anh T cũng nhất trí để chị H trực tiếp nuôi con. Do đó, căn cứ khoản 2 Điều
81 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử quyết định giao con Hoàng Đình
H1 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng.
Về nghĩa vụ cấp dưỡng: ChH không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét
xử không xem xét giải quyết.
5
[2.3] Về tài sản chung: Nguyên đơn chHứa Thị H không yêu cầu Tòa án
giải quyết.
Tại bản trình bày ý kiến ngày 07/6/2025, bản tự khai ngày 17/6/2025
biên bản lấy lời khai ngày 01/7/2025, bị đơn anh Hoàng Văn T yêu cầu Toà án
giải quyết về tài sản chung là toàn bộ thu nhập có trong tài khoản của chị H thời
gian đi làm công ty, xác định tổng số tiền gửi, số cũng như các giao dịch tài
chính từ tài khoản của chị H để đưa toàn bộ số tài sản này vào khối tài sản chung
của vợ chồng để tiến hành chia theo quy định. Ngoài ra, anh T còn có ý kiến chị
H trả lại 02 đôi hoa tai bằng vàng ta (mỗi đôi 01 chỉ), 01 đôi hoa tai vàng tây (01
chỉ), số tiền 8.100.000 đồng bổ sung phần chi phí nuôi con trong thời gian
chung sống nhưng không đóng góp. Toà án đã tiến hành lập biên bản giải thích
cho anh Hoàng Văn T về quyền đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn. Tuy nhiên,
trong quá trình giải quyết vụ án, anh T không làm đơn phản tố. Đồng thời tại
phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ ngày 04/8/2025
anh T không yêu cầu phản tố. vậy, Hội đồng xét xử không xem xét yêu
cầu giải quyết vtài sản chung của anh T trong vụ án này. Sau này, nếu anh T
có đơn yêu cầu sẽ được giải quyết trong một vụ án khác.
[2.4] Về nợ chung: Không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử
không xem xét giải quyết.
[3] Về án phí: Chị Hứa Thị H phải chịu toàn bộ tiền án phí ly hôn
thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các Điều 147,
266, 271, 272, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2025);
Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình;
Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà
án;
Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện xin ly hôn, nuôi con
chung của nguyên đơn.
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Hứa Thị H được ly hôn với anh Hoàng Văn
T.
2. Về con chung:
Con chung Hoàng Thị L, sinh ngày 21/01/2004 đã thành niên, phát triển
bình thường, các đương skhông yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét
xử không xem xét, giải quyết.
Giao con chung Hoàng Đình H1 cho chị Hứa Thị H được quyền trực tiếp
trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi con Hoàng Đình H1 đủ
18 tuổi.
Sau khi ly hôn, anh Hoàng n T quyền, nghĩa vụ thăm nom con
không ai được cản trở.
6
Về nghĩa vụ cấp dưỡng: Không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng
xét xử không xem xét, giải quyết.
3. Về tài sản chung: Không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử
không xem xét, giải quyết.
4. Về nợ chung: Không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử
không xem xét, giải quyết.
5. V án phí: Chị Hứa Thị H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn
đồng) án phí ly hôn thẩm. Được trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn
đồng) tạm ứng án phí chH đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí
Toà án số 0003705 ngày 05/6/2025 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Na
Rì, tỉnh Bắc Kạn nay là Phòng Thi hành án dân sự khu vực 8 - Thái Nguyên.
6. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn quyền kháng cáo bản án
trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
" Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân s quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự
nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều
6,7 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành được thực hiện theo quy
định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự".
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- TAND tỉnh Thái Nguyên;
- VKSND khu vực 8 - Thái Nguyên;
- UBND xã Trần Phú, tỉnh Thái Nguyên
- THADS tỉnh Thái Nguyên;
- Lưu hồ sơ vụ án;
TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
(Đã ký)
Tạ Huyền Trang
Tải về
Bản án số 08/2025/HNGĐ-ST Bản án số 08/2025/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 08/2025/HNGĐ-ST Bản án số 08/2025/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất