Bản án số 08/2024/LĐ-ST ngày 04/09/2024 của TAND TP. Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 08/2024/LĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 08/2024/LĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 08/2024/LĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 08/2024/LĐ-ST ngày 04/09/2024 của TAND TP. Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Sóc Trăng (TAND tỉnh Sóc Trăng) |
Số hiệu: | 08/2024/LĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 04/09/2024 |
Lĩnh vực: | Lao động |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Bà Nguyễn Thị Kiều T - Công ty TNHH Kim Anh tranh chấp bảo hiểm xã hội |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG
TỈNH SÓC TRĂNG
——————————
Bản án số: 08/2024/LĐ-ST
Ngày 04-9-2024
V/v Tranh chấp bảo hiểm xã hội
(bao gồm: quỹ hưu trí, tử tuất, ốm
đau, thai sản, tai nạn lao động-bệnh
nghề nghiệp, bảo hiểm thất nghiệp
và bảo hiểm y tế)
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
———————————————————
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Võ Văn Như
Các Hội thẩm nhân dân:
Bà Trần Thị Thùy Trang
Nghề nghiệp: Phó Trưởng phòng – Phòng lao động Thương binh & Xã
hội thành phố Sóc Trăng
Ông Nguyễn Phước
Nghề nghiệp: Cán bộ Hưu trí
- Thư ký phiên tòa: Bà Phạm Thị Cẩm Vân-Thư ký Tòa án nhân dân
thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc
Trăng tham gia phiên tòa: Bà Nguyễn Lê Ngọc-Kiểm sát viên.
Ngày 04 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sóc
Trăng, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án lao động thụ lý số
10/2024/TLST-LĐ ngày 14/5/2024 về việc “Tranh chấp bảo hiểm xã hội (bao
gồm: quỹ hưu trí, tử tuất, ốm đau, thai sản, tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp,
bảo hiểm thất nghiệp và bảo hiểm y tế)” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số
408/2024/QĐXXST-LĐ ngày 30/7/2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Kiều T, sinh năm 1981; Địa chỉ: Số F ấp C,
xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng. (có mặt)
- Bị đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn K1; Địa chỉ trụ sở: Số E đường Q
(nay là Võ Văn K), Phường B, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng .
Người đại diện theo pháp luật:
1. Ông Đỗ Ngọc Q, sinh năm 1965; Chức danh: Chủ tịch Hội đồng thành
viên kiêm tổng giám đốc; Địa chỉ: Số E đường Q (nay là Võ Văn K), Phường B,
thành phố S, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt)
2
2. Bà Đỗ Thị Ngọc T1, sinh năm 1984; chức danh: Phó tổng giám đốc; Số
E đường Q (nay là Võ Văn K), Phường B, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng (vắng
mặt)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bảo hiểm Xã hội tỉnh K1; Địa
chỉ: Số B đường N, Phường B, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.
- Người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan: Ông Nguyễn Văn H; Chức vụ: Trưởng phòng Thanh tra – Kiểm tra thuộc
Bảo hiểm Xã hội tỉnh K1. Địa chỉ: Số B đường N, Phường B, thành phố S, tỉnh
Sóc Trăng (Theo Giấy ủy quyền số 1866/GUQ-BHXH ngày 08/8/2024) (có
mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên
toà, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kiều T trình bày:
Bà Nguyễn Thị Kiều T là người lao động (nhân viên) của Công ty trách
nhiệm hữu hạn K1 (gọi tắt là Công ty K1) từ ngày 01/12/2018 cho đến ngày
01/09/2023, loại hợp đồng không xác định thời hạn, chức vụ nhân viên, bộ phận
Nhân viên Ban điều hành. Đến ngày 01/09/2023 thì bà T thôi việc theo Quyết
định số 01.QĐN.T9.23 ngày 01/09/2023 của Công ty trách nhiệm hữu hạn K1.
Sau khi nhận được quyết định trên thì bà T có liên hệ công ty để yêu cầu giao sổ
bảo hiểm xã hội, hợp đồng lao động và các loại văn bản giấy tờ khác, còn yêu
cầu công ty chốt thời gian tham gia bảo hiểm cho bà T từ ngày 01/12/2018 đến
01/09/2023 nhưng công ty không thực hiện mà chỉ chốt bảo hiểm đến tháng 12
năm 2020 cho bà T. Sau đó, bà T có liên hệ với Bảo hiểm Xã hội tỉnh K1 thì biết
được Công ty trách nhiệm hữu hạn K1 chỉ mới đóng bảo hiểm cho bà T đến
tháng 12 năm 2020, còn từ khoảng thời gian ngày 01/01/2021 đến thời gian bà T
thôi việc tháng 08/2023 thì công ty chưa đóng.
Bà Nguyễn Thị Kiều T khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Sóc
Trăng, tỉnh Sóc Trăng giải quyết buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn K1 chốt
thời gian bảo hiểm xã hội và tiếp tục đóng bảo hiểm xã hội cho bà T từ ngày
01/01/2021 đến hết tháng 8 năm 2023, số tiền bà T yêu cầu là 39.200.922 đồng.
Tại phiên tòa, bà T xin thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện, cụ thể: Bà
Nguyễn Thị Kiều T yêu cầu Công ty trách nhiệm hữu hạn K1 và tiếp tục đóng
bảo hiểm xã hội cho bà từ ngày 01/01/2021 đến hết ngày tháng 8/2023, tương
ứng số tiền chậm đóng theo cơ quan bảo hiểm xã hội tỉnh K1 xác định tại phiên
tòa là: 34.339.929 đồng, bao gồm các loại quỹ bảo hiểm: Bảo hiểm xã hội (quỹ
hưu trí, tử tuất, ốm đau, thai sản) là 29.250.000 đồng, bảo hiểm y tế là 2.468.633
đồng, bảo hiểm thất nghiệp là 2.066.443 đồng; tai nạn lao động-bệnh nghề
nghiệp là 554.853 đồng.
Đối với số tiền lãi chậm đóng là trách nhiệm của bị đơn Công ty TNHH
K1 đối với Nhà nước bà T không yêu cầu.
Đối với bị đơn Công ty TNHH K1 từ khi Tòa án thụ lý vụ án cấp tống đạt
các văn bản tố tụng hợp lệ, Tòa án không ghi nhận được ý kiến trình bày của bị
đơn.
3
Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên toà, người đại diện
theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (Bảo hiểm Xã hội tỉnh
K1) là ông Nguyễn Văn H trình bày:
Công ty TNHH K1 có đăng ký tham gia bảo hiểm xã hội cho bà Nguyễn
Thị Kiều T tại đơn vị Bảo hiểm Xã T với mã số 5806000982. Tính đến thời
điểm hiện tại (04/9/2024), thì Công ty C đóng tiền bảo hiểm xã hội cho bà T từ
tháng 01/2021 đến tháng 8/2023 với tổng số tiền là 34.339.929 đồng, bao gồm
các loại quỹ bảo hiểm: Bảo hiểm xã hội (quỹ hưu trí, tử tuất, ốm đau, thai sản) là
29.250.000 đồng, bảo hiểm y tế là 2.468.633 đồng, bảo hiểm thất nghiệp là
2.066.443 đồng; tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp là 554.853 đồng;
Đối với tiền lãi chậm đóng bảo hiểm xã hội: 4.452.484 đồng, bảo hiểm y
tế 638.840 đồng; bảo hiểm thất nghiệp: 160.586 đồng, bảo hiểm tai nạn bệnh
nghề nghiệp: 14.343 đồng, là phần Công ty TNHH K1 phải chịu với Nhà nước,
đến hiện tại chưa thực hiện việc xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội, giải
quyết các chế độ bảo hiểm cho bà T. Nay đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của bà T.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:
- Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến khi Hội đồng xét xử vào nghị án thì
Thẩm phán xác định về thẩm quyền, quan hệ pháp luật, tư cách đương sự, thời
hạn chuẩn bị xét xử đúng quy định của pháp luật và thời hạn gửi hồ sơ cho Viện
kiểm sát cũng đảm bảo. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử, Thư ký cũng chấp hành
đúng theo quy định của pháp luật.
- Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, qua thẩm
tra chứng cứ và kết quả tranh luận tại phiên tòa. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp
nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận
định:
[1]. Bà Nguyễn Thị Kiều T khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết về tranh
chấp các quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với Công ty K1 có trụ sở chính tại số
E đường Q (nay là Võ Văn K), Phường B, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng nên
quan hệ pháp luật tranh chấp là tranh chấp “Bảo hiểm Xã hội (bao gồm: quỹ hưu
trí, tử tuất, ốm đau, thai sản, tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp, bảo hiểm thất
nghiệp và bảo hiểm y tế)” và Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng đã thụ lý
giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại Khoản 1 Điều 32, Khoản 1 Điều
35, Khoản 1 Điều 39; Điều 40 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2]. Tại phiên tòa, bị đơn là Công ty K1 vắng mặt lần thứ hai không có lý
do chính đáng mà không có người đại diện hợp pháp tham gia phiên tòa. Căn cứ
vào Khoản 2 Điều 227; Khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng
xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị đơn.
[3] Tại phiên tòa, bà Nguyễn Thị Kiều T xin thay đổi một phần yêu cầu
khởi kiện, cụ thể: Bà Nguyễn Thị Kiều T yêu cầu Công ty trách nhiệm hữu hạn
K1 và tiếp tục đóng bảo hiểm xã hội cho bà vẫn giữ thời gian từ ngày
01/01/2021 đến hết tháng 8/2023 nhưng số tiền thay đổi từ số tiền 39.200.922
4
đồng thành số tiền 34.339.929 đồng. Xét thấy việc thay đổi yêu cầu khởi kiện
này không vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu theo quy định tại khoản 1 Điều
244 Bộ luật Tố tụng dân sự, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4]. Đối với bị đơn Công ty K1 sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã tiến hành
cấp, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án cho đương sự nêu trên Công
ty K1 không cử người đại diện hợp pháp tham gia phiên họp và phiên hòa giải,
không có ý kiến gì về kết quả phiên họp công khai chứng cứ nên điều này cho
thấy đã tự từ chối quyền được trình bày để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Do đó, căn cứ vào Điều 6, Khoản 2, Khoản 4 Điều 91; Điều 93; Điều 95
của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xác định những tình tiết, sự kiện và
tài liệu do nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã cung cấp và
Tòa án thu thập có giá trị dùng làm chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện
và tiến hành giải quyết vụ án theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ
sơ vụ án.
[5]. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, ý kiến của người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan theo các tình tiết, sự kiện không phải chứng minh, Hội đồng
xét xử xác định:
[6]. Bà Nguyễn Thị Kiều T với Công ty K1 có phát sinh quan hệ lao động,
theo đó bà T là nhân viên của Công ty K1. Do đó, quan hệ lao động giữa bà T và
Công ty K1 là hợp pháp theo quy định tại Điều 7 của Bộ luật Lao động, nên bà
T và Công ty K1 phải có nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định
tại Khoản 2 Điều 3 của Luật Bảo hiểm Xã hội với mục đích nhằm đảm bảo cho
người lao động là bà T được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội khi làm việc
cũng như khi nghỉ việc tại công ty theo quy định tại Điều 4 của Luật Bảo hiểm
Xã hội, gồm các loại quỹ bảo hiểm: bảo hiểm xã hội (quỹ hưu trí, tử tuất, ốm
đau, thai sản), tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp, bảo hiểm thất nghiệp và bảo
hiểm y tế theo quy định tại Điều 168 của Bộ luật Lao động; Điều 19, Điều 21,
Điều 85 và Điều 86 Luật Bảo hiểm xã hội; Điều 12, Điều 13 và Điều 15 của
Luật Bảo hiểm Y tế; Khoản 4 Điều 3, Điều 43, Điều 44, Điều 45, Điều 57 và
Điều 58 của Luật Việc làm; Điều 41, Điều 43 và Điều 44 của Luật An toàn, vệ
sinh Lao động.
[7]. Theo các tài liệu, chứng cứ do Bảo hiểm Xã hội tỉnh K1 cung cấp thể
hiện: Bà Nguyễn Thị Kiều T có đăng ký sổ bảo hiểm xã hội với mã số
5806000982, quá trình đóng bảo hiểm thì hàng tháng Công ty K1 đều nộp tiền
bảo hiểm xã hội cho bà T vào đơn vị Bảo hiểm Xã hội tỉnh K1. Tuy nhiên, Công
ty K1 đã chậm đóng bảo hiểm xã hội cho bà Nguyễn Thị Kiều T từ tháng
01/2021 đến tháng 8/2023 với tổng số tiền là 34.339.929 đồng, bao gồm các loại
quỹ bảo hiểm: Bảo hiểm xã hội (quỹ hưu trí, tử tuất, ốm đau, thai sản) là
29.250.000 đồng, bảo hiểm y tế là 2.468.633 đồng, bảo hiểm thất nghiệp là
2.066.443 đồng; tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp là 554.853 đồng. Tại phiên
tòa, người đại diện theo ủy quyền của Bảo hiểm Xã hội tỉnh K1 cũng khẳng định
đến tại thời điểm xét xử sơ thẩm thì phía Công ty K1 vẫn chưa hoàn thành việc
đóng bảo hiểm còn nợ nêu trên cho bà Nguyễn Thị Kiều T.
[8]. Mặt khác, thực tế Công ty K1 hàng tháng đều đã trích tiền lương của
bà Nguyễn Thị Kiều T để nộp bảo hiểm xã hội nhưng lại không nộp bảo hiểm lại
5
cho cơ quan bảo hiểm xã hội mà cụ thể là Bảo hiểm Xã hội tỉnh K1 cho bà T từ
tháng 01/2021 đến tháng 08/2023 là vi phạm pháp luật về bảo hiểm, làm ảnh
hưởng đến quyền lợi chính đáng của bà Nguyễn Thị Kiều T. Căn cứ theo quy
định tại Khoản 5 Điều 21 của Luật Bảo hiểm Xã hội quy định về trách nhiệm
của người sử dụng lao động: “Phối hợp với cơ quan bảo hiểm xã hội trả sổ bảo
hiểm xã hội cho người lao động, xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội khi
người lao động chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc thôi việc
theo quy định của pháp luật.” Căn cứ vào Khoản 3 Điều 48 của Bộ luật Lao
động thì người sử dụng lao động có trách nhiệm: “Hoàn thành thủ tục xác nhận
thời gian đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp và trả lại cùng với bản
chính giấy tờ khác nếu người sử dụng lao động đã giữ của người lao động”. Căn
cứ vào Khoản 3 Điều 18 của Nghị định 115/2015/NĐ-CP ngày 11/11/2015 của
Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo hiểm Xã hội quy định:
“Người sử dụng lao động có trách nhiệm đóng đủ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
thất nghiệp, bao gồm cả tiền lãi chậm đóng theo quy định đối với người lao
động đủ điều kiện hưởng bảo hiểm xã hội hoặc chấm dứt hợp đồng lao động,
hợp đồng làm việc để kịp thời giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất
nghiệp cho người lao động.” Như vậy, ngoài việc Công ty K1 phải có nghĩa vụ
hoàn thành việc nộp bảo hiểm xã hội vào đơn vị Bảo hiểm Xã hội tỉnh K1 cho
bà Nguyễn Thị Kiều T, Công ty còn phải chịu tiền lãi chậm đóng tiền bảo hiểm
cho cơ quan bảo hiểm xã hội theo quy định.
[9]. Từ những nhận định và cơ sở nêu trên, xét thấy yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn là hoàn toàn có căn cứ và đúng với các quy định pháp luật nên Hội
đồng xét xử chấp nhận.
[10]. Về án phí lao động sơ thẩm: Yêu cầu khởi kiện của nguyên được chấp
nhận nên bị đơn Công ty K1 phải chịu án phí có giá ngạch 3% tương ứng nghĩa
vụ phải thực hiện theo khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[11]. Xét đề nghị của Kiểm sát viên về tố tụng và quan điểm giải quyết vụ
án, kiến nghị xem xét hành vi chậm đóng bảo hiểm xã hội của Công ty TNHH
K1 là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[12]. Hội đồng xét xử kiến nghị Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh K1 xem
xét hành vi chậm đóng bảo hiểm xã hội của Công ty TNHH K1 để xử phạt theo
quy định pháp luật. Trường hợp hành vi chậm đóng bảo hiểm xã hội của Công ty
TNHH K1 vượt thẩm quyền thì trong chức trách của mình đề nghị Giám đốc
Bảo hiểm xã hội tỉnh K1 tiếp tục kiến nghị cơ quan, người thẩm quyền xem xét
hành vi chậm đóng bảo hiểm xã hội của Công ty TNHH K1 theo quy định pháp
luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào Điều 6; Khoản 1 Điều 32, Khoản 1 Điều 35, Khoản 1 Điều
39; Điều 40; Điều 91; Điều 93; Điều 95; Khoản 1 Điều 147; Điều 227, Điều
228; Điều 244; Điều 271; Điều 273; Điều 278; Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự.
6
Căn cứ vào Điều 4, Điều 6, Điều 7; Khoản 3 Điều 48; Điều 168 của Bộ
luật Lao động.
Căn cứ vào Điều 3, Điều 4, Điều 19, Khoản 5 Điều 21, Điều 85, Điều 86
của Luật Bảo hiểm xã hội.
Căn cứ vào Điều 12, Điều 13 và Điều 15 của Luật Bảo hiểm y tế.
Căn cứ vào Khoản 4 Điều 3, Điều 43, Điều 44, Điều 45, Điều 57, Điều 58
của Luật Việc làm.
Căn cứ vào Điều 41, Điều 43, Điều 44 của Luật An toàn, vệ sinh Lao
động.
Căn cứ vào Khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Kiều T
đối với bị đơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn K1 về tranh chấp bảo hiểm xã
hội.
Buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn K1 phải đóng tiền bảo hiểm xã hội
(bao gồm: quỹ hưu trí, tử tuất, ốm đau, thai sản, tai nạn lao động-bệnh nghề
nghiệp, bảo hiểm thất nghiệp và bảo hiểm y tế) vào quỹ bảo hiểm xã hội của đơn
vị thu là Bảo hiểm Xã hội tỉnh K1 cho bà Nguyễn Thị Kiều T có sổ Bảo hiểm xã
hội mã số 5806000982 từ tháng 01/2021 đến tháng 8/2023, với số tiền là
34.339.929 đồng (Ba mươi bốn triệu, ba trăm ba mươi chín nghìn chín trăm hai
mươi chín đồng), bao gồm các loại quỹ bảo hiểm: Bảo hiểm xã hội (quỹ hưu trí,
tử tuất, ốm đau, thai sản) là 29.250.000 đồng, bảo hiểm y tế là 2.468.633 đồng,
bảo hiểm thất nghiệp là 2.066.443 đồng; tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp là
554.853 đồng.
Công ty trách nhiệm hữu hạn K1 còn phải chịu lãi suất do chậm đóng bảo
hiểm xã hội cho cơ quan bảo hiểm xã hội với mức lãi suất theo quy định pháp
luật về bảo hiểm xã hội tương ứng với thời gian chậm đóng. Số tiền lãi cụ thể
phải đóng của Công ty trách nhiệm hữu hạn Kim Anh do Bảo hiểm Xã hội tỉnh
K1 thu tại thời điểm Công ty trách nhiệm hữu hạn K1 để làm thủ tục xác nhận
(chốt sổ) thời gian đóng bảo hiểm xã hội cho bà Nguyễn Thị Kiều T.
2. Về án phí lao động sơ thẩm: Buộc bị đơn Công ty Trách nhiệm Hữu
hạn K1 phải chịu án phí là 1.030.198 đồng (Một triệu không trăm ba mươi nghìn
một trăm chín mươi tám đồng)
Nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền
kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng bị
đơn có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận
được bản án hoặc bản án được cấp, tống đạt hợp lệ theo quy định pháp luật. Để
yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.
3. Bản án của Tòa án cấp sơ thẩm về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất
nghiệp, bảo hiểm y tế được thi hành ngay mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng
nghị theo quy định tại điểm a Khoản 2 Điều 482 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi
hành án Dân sự năm 2008 (được sửa đổi bổ sung), thì người được thi hành án
7
dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền
yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo
quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 của Luật Thi hành án Dân sự năm 2008 (được
sửa đổi bổ sung); Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều
30 của Luật Thi hành án Dân sự năm 2008 (được sửa đổi bổ sung).
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Sóc Trăng;
- VKSND TPST;
- Chi cục THADS TPST;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN–CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Võ Văn Như
Tải về
Bản án số 08/2024/LĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 08/2024/LĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 25/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 24/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 24/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 19/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 12/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 12/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 12/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 12/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 04/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 26/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 26/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm