Bản án số 08/2019/HNGĐ-PT ngày 14/11/2019 của TAND tỉnh Ninh Bình về ly hôn, tranh chấp nuôi con và chia tài sản khi ly hôn

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 08/2019/HNGĐ-PT

Tên Bản án: Bản án số 08/2019/HNGĐ-PT ngày 14/11/2019 của TAND tỉnh Ninh Bình về ly hôn, tranh chấp nuôi con và chia tài sản khi ly hôn
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Ninh Bình
Số hiệu: 08/2019/HNGĐ-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 14/11/2019
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan kháng cáo toàn bộ bản án
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH NINH BÌNH
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 08/2019/HNGĐ-PT
Ngày: 14 -11 - 2019
V/v: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con
và chia tài sản khi ly hôn”.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA V NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NINH BÌNH
- Thành phần hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Đinh Huy Lưỡng
Các thẩm phán: Ông Tạ Văn Vinh
Ông Nguyễn Tử Lượng.
- T ký phiên tòa: Bà Vũ Th Len, Thm tra viên, Tòa án nhân dân tnh Ninh Bình.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình tham gia phiên tòa:
Bà Bùi Thị Thúy Hằng, Kiểm sát viên trung cấp.
Ngày 14 tháng 11 năm 2019, tại trsở Tòa án nn dân tỉnh Ninh Bình, xét x
phúc thẩm ng khai v án hôn nhân gia đình thụ lý 08/2019/TLPT-HNGĐ ngày
27 tháng 6 năm 2019 v vic Ly hôn, tranh chp nuôi con, chia tài sn khi ly hôn”.
Do bản án hôn nhân gia đình thẩm số 11/2019/HNGĐ-ST ngày 07
tháng 5 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Ninh Bình bkháng
cáo, kháng nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 11/2019/QĐXX-PT
ngày 30 tháng 9 năm 2019 Quyết định hoãn phiên tòa số 06/2019/QĐPT-
HNGĐ ngày 29/10/2019 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Anh Phùng Quốc V, sinh năm 1976 (Có mặt).
Nơi ĐKHKTT: Thôn Nội, xã NX, huyện HL, tỉnh Ninh Bình.
Tạm trú tại: Phố ĐL, Phường T, thành phố N, tỉnh Ninh Bình.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn:
Bà Phùng Thị Song T1, sinh năm 1972 (Có mặt).
Địa chỉ: Tập thể Viện sốt rét sinh trùng côn trùng Trung ương,
phường TV, quận NTL, Thành phố Nội đại diện theo ủy quyền của
nguyên đơn về yêu cầu chia tài sản khi ly hôn (theo giấy ủy quyền ngày
06/11/2017, giấy ủy quyền ngày 21/5/2018 và giấy ủy quyền ngày 12/11/2018).
2. Bị đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1977 (Có mặt).
2
Địa chỉ: Số nhà 72, đường L, phố T2, phường T, thành phố N, tỉnh Ninh
Bình.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn:
Ông Phạm Quang X, sinh năm 1977 (Có mặt)
Địa chỉ: Phòng 513, nhà 5 tầng, phường XL, quận TH, thành phố Nội
người đại diện theo ủy quyền của chị Nguyễn Thị H về yêu cầu chia tài sản
khi ly hôn (theo giấy ủy quyền ngày 19/4/).
3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
3.1. Chị Nguyễn Thị Q, sinh năm 1971 (Vắng mặt)
Địa chỉ: Số nhà 03, tổ 18, đường NTT, phường PL, thành phố HB, tỉnh
Hòa Bình.
3.2. Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Ninh Bình, địa chỉ: Số 440, đường
NH, phường NP, thành phố N, tỉnh Ninh Bình.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trịnh Quang N1, chức vụ: Giám đốc
Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Ninh Bình.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Văn M (Có mặt), chức vụ: Giám
đốc Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai thành phố N (theo giấy y quyền số
137/GUQ –VPĐK ngày 26/3/2019).
3.3. Ngân hàng N2, địa chỉ: số 02, LH, phường TC, quận , thành phố
Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trịnh Ngọc Kh, chức vụ: Chủ tịch
Hội đồng thành viên Ngân hàng N2.
Người đại diện theo ủy quyền: Thị Tr, chức vụ: Giám đốc Ngân
hàng N2, chi nhánh .
Người đại diện theo ủy quyền lại: Nguyễn Thị Hợi (Vắng mặt), chức
vụ: Phó Giám đốc Ngân hàng N2, chi nhánh (theo văn bản ủy quyền lại
ngày 06/02/2018).
Địa chỉ Ngân hàng N2, chi nhánh : Số 302, đường QT, phường BS,
thành phố , tỉnh Ninh Bình.
3.4. Văn phòng công chứng ĐT, địa chỉ: Số 09, đường LHP, phường VG,
thành phố N, tỉnh Ninh Bình.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Văn T2 (Vắng mặt), Trưởng
Văn phòng công chứng ĐT.
3.5. Ông Phạm n T2 (Vắng mặt), Công chứng viên Văn phòng ng
chứng ĐT
Địa chỉ: Số 09, đường LHP, phường VG, thành phố N, tỉnh Ninh Bình.
3
4. Người kháng cáo: Bị đơn chị Nguyễn Thị H; những người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thị Q, ông Phạm Văn T2 Văn phòng
công chứng ĐT.
5. Viện kiểm sát nhân dân kháng nghị: Viện trưởng, Viện kiểm sát nhân
dân thành phố N, tỉnh Ninh Bình.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn anh
Phùng Quốc V và người đại diện của nguyên đơn trình bày:
Về quan hệ hôn nhân:
Anh V chị H tự do tìm hiểu tự nguyện đăng kết hôn ngày
11/02/2003 tại Ủy ban nhân dân SN, thị HB, tỉnh Hòa Bình. Sau khi kết
hôn vchồng anh chị chung sống hạnh phúc được một thời gian thì nảy sinh
mâu thuẫn. Anh V cho rằng vợ chồng phát sinh mâu thuẫn từ năm 2005 cho đến
nay, nguyên nhân do chị H thái độ xử hỗn láo, chửi bới bố mchồng, anh
em họ hàng bên nội không quan tâm, không hỏi han, thăm nom bố m chồng
cũng như anh em trong nhà. Chị H không coi anh V chồng, thường xuyên
chửi bới những lời lẽ thô tục, xúc phạm danh dự, nhân phẩm với anh,
hành vi cấm đoán anh trong các mối quan hệ với bạn bè, gia đình, đồng nghiệp
cũng như các mối quan hệ trong xã hội công việc. không muốn các con
phải khổ nên anh đã chịu đựng, nhẫn nhịn nhưng chị H không thay đổi cách
xử. Anh thấy cuộc sống vợ chồng ngày càng ngột ngạt, không hạnh phúc. Anh V
chị H đã sống ly thân từ ngày 05/9/2017 đến nay, mỗi người một nơi,
không quan tâm đến cuộc sống của nhau. Anh V xác định tình cảm vợ chồng
không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho anh ly hôn với chị H.
Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân, anh V và chị H hai con chung là
cháu Phùng Quý Q1, sinh ngày 11/9/2002 cháu Phùng Thiện B, sinh ngày
27/3/2009. Khi Tòa án giải quyết ly hôn anh V đề nghị được trực tiếp nuôi cháu
B, chị H trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cháu Q1. Không ai phải cấp dưỡng nuôi
con chung.
Về tài sản chung: Nguyên đơn người đại diện của nguyên đơn xác định
vợ chồng có khối tài sản chung gồm:
- Quyền sử dụng thửa đất số 121, tờ bản đồ số 30, diện tích 100 m
2
, địa chỉ:
Phố T2, phường T, thành phố N, tỉnh Ninh Bình đã được UBND thành phố N
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Phùng Quốc V Nguyễn Thị
H ngày 21/8/2009. Trên đất có ngôi nhà 7 tầng kinh doanh khách sạn.
- Quyền sử dụng thửa đất số 19a, tờ bản đồ số 6G-IV-32, diện tích 21m
2
tại
địa chỉ: Số 11, ngách 99/27, ngõ 354, đường TC, phường KT, quận Đ, thành phố
Nội. Đất đã được UBND quận Đ, thành phố Nội cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số BU 626829 ngày 30/12/2014.
4
- Quyền sử dụng thửa đất số D3, tờ bản đồ quy hoạch, diện tích 100,8m
2
,
địa chỉ: Phố T2, phường T, thành phố N, tỉnh Ninh Bình. Đất đã được UBND
thành phố N cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH 318571 ngày
26/4/2017 mang tên Phùng Quc Vvà Nguyễn Thị H.
- Quyền sử dụng thửa đất số D4, tờ bản đồ quy hoạch, diện tích 100,8m
2
,
địa chỉ: Phố T2, phường T, thành phố N, tỉnh Ninh Bình. Đất đã được UBND
thành phố N cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH 318558 ngày
26/4/2017 mang tên Phùng Quốc V và Nguyễn Thị H.
- Quyền sdụng thửa đất số 306, tờ bản đồ số 30, diện tích 114,7m
2
, địa
chỉ: Thôn H1, N2, thành phố N, tỉnh Ninh Bình. Đất đã được UBND thành
phố N cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất số AL 482732 ngày 26/2/2008
mang tên Phùng Quốc V và Nguyễn Thị H.
Ngày 12/9/2017 do chị H cầm dao dọa giết anh V, đe dọa tính mạng của cả
bố mẹ anh nên trong lúc tâm trí bị ức chế anh V đã phải đồng ý xác lập văn bản
thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng tại Văn phòng công chứng ĐT với
nội dung “Bà Nguyễn Thị H được toàn quyền sử dụng, sở hữu quyền sử dụng
đất” đối với 03 thửa đất tài sản gắn liền với đất gồm: Thửa đất số D3, tờ bản
đồ quy hoạch, diện tích 100,8m
2
, địa chỉ: Phố T2, phường T, thành phố N, tỉnh
Ninh Bình; thửa đất số D4, tờ bản đồ quy hoạch, diện tích 100,8m
2
, địa chỉ: Phố
T2, phường T, thành phố N, tỉnh Ninh Bình; thửa đất số 306, tờ bản đồ số 30,
diện tích 114,7m
2
, địa chỉ: Thôn H1, xã N2, thành phố N, tỉnh Ninh Bình.
Sau khi nhận thấy văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ
chồng ngày 12/9/2017 là không hợp pháp. Ngày 25/9/2017, anh V đã có văn bản
đề nghị rút lại ý kiến về việc phân chia tài sản chung của vợ chồng. Ngày
14/11/2017 anh V làm đơn đnghị dừng sang tên giấy chứng nhận quyền s
dụng đất với nội dung không đồng ý thỏa thuận chia cho chị Nguyễn Thị H
quyền sử dụng ba thửa đất trên, kèm bản photo Thông báo thụ vụ án số
279/2017/TLST-HNGĐ ngày 06/10/2017 về việc “ly n, tranh chấp về nuôi
con, chia tài sản khi ly hôn” của Tòa án nhân dân thành phố N gửi đến Văn
phòng đăng đất đai tỉnh Ninh Bình, Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai
thành phố N, UBND phường T. Các quan này đều đã nhận được đơn đề nghị
của anh V. Tuy vậy, Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố N vẫn cố ý
chứng nhận việc chuyển quyền sử dụng đất vào ngày 19/9/2017 đối với thửa đất
số AL 482732 ngày 18/12/2017 đối với thửa đất số CH 318558 CH
318571.
Sau đó, chị Nguyễn Thị H đã giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất tài sản gắn liền với đất cả 03 thửa đất nêu trên cho chị Nguyễn Thị
Q. Việc chị H chuyển nhượng quyền sử dụng cho chị Q trái pháp luật bởi lẽ
giữa anh V chị H đang tranh chấp quyền sử dụng đất đối với ba thửa đất nêu
trên nên chưa đủ điều kiện chuyển nhượng theo quy định. UBND phường T,
UBND xã N2 và Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố N chứng nhận
việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa chị H với chị Q không đúng, vi
phạm quy định của pháp luật. Anh V đề nghị Tòa án:
5
- Tuyên bố các văn bản công chứng sau hiệu: Văn bản thỏa thuận phân
chia tài sản chung của vợ, chồng ngày 12/9/2017, được Văn phòng công chứng
ĐT công chứng ngày 12/9/2017 số 1379, 1380, 1381 quyển số 01 TP/CC-
SCC/HĐGD.
- Hủy các Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất:
+ Hợp đồng số 37/CN-QSĐ&TS ngày 14/3/2018 đối với thửa đất số 306,
tờ bản đồ số 30, diện tích 114,7m
2
, địa chỉ: Thôn H1, N2, thành phố N, tỉnh
Ninh Bình có giá trị chuyển nhượng là 80.000.000 đồng.
+ Hợp đồng số 34/CN-QSĐ&TS hợp đồng số 35/CN-QSĐ&TS ngày
13/3/2018 đối với thửa đất số 84 thửa đất số 85, tờ bản đồ số 29, đều diện
tích 100,8m
2
, bản đồ địa chính phường T (trước đâythửa số D3 và D4, tờ bản
đồ quy hoạch, khu cánh đồng Son, phường T), giá trị chuyển nhượng
100.000.000 đồng mỗi thửa.
- Anh V đề nghị được hưởng: Quyền sử dụng đất và khách sạn 7 tầng trên
đất tại số 72, phố T2, phường T, thành phố N, tỉnh Ninh Bình. Trị giá
7.035.000.000 đồng. Khách sạn này khi anh V đi ra khỏi nhà đã đóng cửa, chị H
không kinh doanh tất cả mối quan hkhác hàng đều của anh V nên chị H
không khả năng kinh doanh nên anh sẽ lấy khách sạn để tiếp tục kinh doanh.
Chị H được hưởng số tài sản chung còn lại của vợ chồng (quyền sử dụng thửa
đất số D3, D4, thửa số 306, thửa số19a) tổng trị giá 4.277.800.000 đồng. Anh V
sẽ thanh toán số tiền chênh lệch cho chị H đúng thời hạn pháp luật quy định.
Anh V đồng ý để chị H lưu cư tại căn nhà đang ở trong thời hạn 06 tháng.
Về công nợ: Anh V thừa nhận ngày 20/4/2017, vợ chồng anh chị
hợp đồng tín dụng số 3304LAV201700543 với Ngân hàng N2 để vay stiền
1.500.000.000 đồng. Sau khi giao kết hợp đồng, anh chị đã nhận số tiền vay gốc
1.240.000.000 đồng. Đến nay, anh chị đã trả được 719.000.000 đồng, tiền nợ
còn lại 521.000.000 đồng. Tài sản thế chấp cho khoản vay theo Hợp đồng thế
chấp quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đất số 3304LCL-20170408 ngày
20/4/2017, quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đất thửa s121, tờ bản
đồ số 30, diện tích 100m
2
, địa chỉ: Phố T2, phường T, thành phố N, tỉnh Ninh
bình; đã được UBND thành phố N cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày
21/8/2009 mang tên Phùng Quốc V Nguyễn Thị H. Anh V đnghị số tiền
còn nợ Ngân hàng là 521.000.000 đồng mỗi người chịu trách nhiệm trả mt nửa.
Bị đơn chị H người đại diện theo uỷ quyền về chia tài sản khi ly hôn là
ông Phạm Quang X trình bày:
Về quan hệ hôn nhân:
Về điều kiện kết hôn thời gian kết hôn như nguyên đơn anh V trình bày
đúng, sau khi kết hôn vợ chồng anh chị chung sống hạnh phúc đến năm 2012
thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do anh V người
phụ nữ khác, không quan tâm chăm lo gì đến gia đình, mặc dù chH đã cố gắng
hàn gắn tình cảm nhưng cả hai anh chị đều không tìm thấy tiếng nói chung.
Thực tế anh chị sống ly thân từ ngày 05/9/2017 đến nay, về tình cảm chị H vẫn
6
còn yêu thương anh V, chị mong muốn vợ chồng đoàn tụ để cùng nhau nuôi dậy
con cái nên chị không nhất trí ly hôn.
Về con chung: Trong thời k hôn nhân vợ chồng anh chị có hai con chung
như Nguyên đơn anh V trình bày là đúng, nếu Tòa án giải quyết ly hôn, chị H đề
nghị được trực tiếp nuôi cháu Phùng Quý Q1 cháu Phùng Thiện B. Anh V
nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung: Bị đơn người đại diện của bị đơn xác định vợ chồng
khối tài sản chung như nguyên đơn người đại diện của nguyên đơn trình
bày là đúng. Riêng đối với 03 thửa đất và tài sản gắn liền với đất gồm: Thửa đất
số D3, tờ bản đồ quy hoạch, diện tích 100,8m
2
, địa chỉ: Phố T2, phường T, thành
phố N, tỉnh Ninh Bình; thửa đất số D4, tbản đồ quy hoạch, diện tích 100,8m
2
,
địa chỉ: Phố T2, phường T, thành phố N, tỉnh Ninh Bình; thửa đất số 306, tờ bản
đồ số 30, diện tích 114,7m
2
, địa chỉ: Thôn H1, N2, thành phố N, tỉnh Ninh
Bình. 03 thửa đất này trước đây nguồn gốc tài sản chung của vợ chồng,
ngày 12/9/2017 vợ chồng anh chị đã thỏa thuận chia 03 thửa đất tài sản gắn
liền với đất nêu trên cho chị H nội dung này được xác lập tại Văn phòng công
chứng ĐT. Việc thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ, chồng là hoàn toàn
tự nguyện, không sép buộc được Văn phòng công chứng ĐT lập thành
văn bản, công chứng vào ngày 12/9/2017 số 1379, 1380, 1381, quyển số
01TP/CC-SCC/HDDGD với nội dung chị H được toàn quyền sử dụng, sở hữu
quyền sử dụng đất đối với 03 thửa đất như nguyên đơn trình bày. Việc chuyển
quyền sử dụng đối với 03 thửa đất trên đã được chi nhánh văn phòng đăng
đất đai thành phố N xác nhận nội dung biến động vào 03 giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất tài sản gắn liền với đất số CH 318571, CH 318558, AL 482732.
Sau khi thủ tục sang tên 03 thửa đất trên cho chị H hoàn tất, chị H đã chuyển
nhượng cả 03 thửa đất này cho chị Q theo Hợp đồng số 34/CN-QSĐ&TS
Hợp đồng số 35/CN-QSĐ&TS ngày 13/3/2018, Hợp đồng số 37/CN-QSĐ&TS
ngày 14/3/2018. Chị xác định việc chuyển nhượng quyền sử dụng 03 thửa đất là
hợp pháp, trình tự thủ tục đã đảm bảo đúng quy định của pháp luật.
Về công nợ: Chị H nhất trí với phần trình bày của nguyên đơn là đúng,
chị H đề nghị nếu giải quyết ly hôn đề nghị Tòa án giao nhà và đất tại địa chỉ số
72, đường L, phố T2, phường T, thành phố N, tỉnh Ninh Bình cho chị và chị xin
trả ncho Ngân hàng N2 chi nhánh thành phố . Tiền lãi chị trả cho Ngân
hàng hàng tháng đề nghị anh V trách nhiệm trả cho chị. Chị H sẽ thanh
toán tiền chênh lệch giá trị tài sản cho anh V qua quan Thi hành án sau khi
bản án hiệu lực pháp luật. Nhà đất tại địa chỉ số 11 ngách 27/99, ngõ 354,
đường TC, quận Đ, thành phố Hà Nội chH nhất trí để anh V sử dụng.
Người có quyền lợi nghĩa vụ ln quan, chị Nguyễn Thị Q trìnhy:
Khi giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với chH, chị
đã kiểm tra giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của chị H đầy đủ theo hồ
số 2635 ngày 15/9/2017 và ngày 18/12/2017 do Sở tài nguyên môi trường,
Văn phòng đăng đất đai thành phố N cấp. Việc tranh chấp giữa anh V chị
H không liên quan đến chị. ChQ yêu cầu Tòa án xem xét lại sự việc.
7
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan, Văn phòng công chứng ĐT
công chứng viên trình bày:
Công chứng viên Văn phòng Công chứng ĐT đã công chứng 03 văn bản
thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng giữa anh V và chị H theo đúng
quy định của pháp luật.
Về thủ tục công chứng: Công chứng viên đã hướng dẫn anh V, chị H tuân
thủ đúng các quy định về thủ tục công chứng các quy định của pháp luật
liên quan đến anh V, chị H ký văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ
chồng. Công chng viên đã giải thích cho anh V, chị H hiểu quyền, nghĩa vụ
lợi ích hợp pháp, ý nghĩa hậu quả pháp của việc kết văn bản thỏa
thuận phân chia tài sản chung. Anh V, chị H đã hoàn toàn tnguyện thỏa thuận
lập văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng và ký tên, điểm chỉ
để làm bằng chứng trước mặt công chứng viên tại Văn phòng công chứng ĐT.
Các văn bản thỏa thuận nêu trên không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã
hội, đã hiệu lực pháp luật được quan thẩm quyền chấp nhận chuyển
thành tài sản riêng theo thỏa thuận, đề nghị Tòa án bác yêu cầu của anh V.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh
Ninh Bình trình bày:
Chi nhánh Văn phòng Đăng đất đai thành phố N xác nhận nội dung
biến động trong các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AL 482732 ngày
26/2/2008, số CH 318558 CH 318571 ngày 26/4/2017 mang tên Phùng Quốc
Vvà Nguyễn Thị H, đối với việc chuyển quyền sử dụng đất sang tên chị Nguyễn
Thị H trên sở 03 văn bản phân chia tài sản chung của v chồng ngày
12/9/2017 đã được Văn phòng công chứng ĐT công chứng ngày 12/9/2017.
Đồng thời, xác nhận chuyển quyền sử dụng 03 thửa đất nêu trên cho chị Nguyễn
Thị Q theo 03 Hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất tài sản gắn liền
với đất số 37/CN-QSĐ&TS ngày 14/3/2018, Hợp đồng số 34/CN-QSĐ&TS
Hợp đồng số 35/CN-QSĐ&TS ngày 13/3/2018. Việc xác nhận nội dung biến
động đều có cơ sở pháp lý.
Cả 03 thửa đất nêu trên khi làm thủ tục chuyển nhượng sang tên, công dân
đều không đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới, thủ tục đăng ký
như trên là có giá trị pháp lý như cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới.
Đối với ý kiến của anh V về việc đã văn bản đề nghị dừng sang tên
quyền sử dụng đất từ tài sản chung của anh V, chị H thành tài sản riêng của chị
H chuyển quyền sử dụng đất từ chị H sang chị Q, chi nhánh Văn phòng đăng
ký đất đai xác định không có đủ cơ sở pháp lý để dừng thủ tục sang tên quyền sử
dụng đất.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, Ngân hàng N2 trình bày:
Ngân hàng N2 đề nghị anh V, chị H hoàn thành toàn bộ nghĩa vụ trả nợ các
khoản vay theo Hợp đồng tín dụng số 3303LAV201700543 ngày 20/4/2017 tại
Ngân hàng N2.
8
Tại bản án số 11/2019/HN-ST ngày 07/5/2019 của Tòa án nhân dân
thành phố N đã quyết định:
Căn cứ vào các Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 228, khoản 2 Điều 244
của Bộ luật Ttụng Dân sự; Điều 123, khoản 2 Điều 131, 407, 500 của Bộ luật
Dân sự; Điều 33, khoản 1 Điều 56, khoản 2, 3, 5 Điều 59, Điều 63, 81, 82, 83
Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 41, 42, 52 Luật công chứng; khoản 1 Điều 167,
điểm a, b khoản 1 Điều 188 Luật Đất đai; Điều 26, 27 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về
mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Phùng Quốc V.
1. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của anh Phùng Quốc V về việc đề nghị
Tòa án tuyên hủy 03 văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ, chồng
anh Phùng Quốc V, chị Nguyễn Thị H cùng xác lập ngày 12/9/2017.
2. Về quan hệ hôn nhân: Anh Phùng Quốc V ly hôn với chị Nguyễn Thị H.
3. Về nuôi con chung: Giao cháu Phùng Thiện B, sinh ngày 27/3/2009 cho
anh Phùng Quốc V, giao cháu Phùng Quý Q1, sinh ngày 11/9/2002 cho chị
Nguyễn Thị H trực tiếp trông nom, chăm c, giáo dục, nuôi dưỡng đến khi các
cháu đủ 18 tuổi, trưởng thành tự lập. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con
chung.
4. Về tài sản:
4.1. Tuyên bố 03 văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ, chồng
giao kết giữa anh Phùng Quốc V chị Nguyễn Thị H cùng ngày 12/9/2017,
được Văn phòng ng chứng ĐT công chứng ngày 12/9/2017 số 1379, số 1380,
số 1381 quyển số 01 TP/CC-SCC/HĐGD vô hiệu.
Hủy 03 hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 37/CN-QSĐ&TS
giao kết ngày 14/3/2018; số 34/CN-QSDĐ&TS ngày 13/3/2018; số 35/CN-
QSDĐ&TS ngày 13/3/2018 giữa chị Nguyễn Thị H và chị Nguyễn Thị Q.
Buộc chị Nguyễn Thị Q phải trả lại cho chị Nguyễn Thị H 03 giấy chứng
nhận quyền sdụng đất số CH 318571 ngày 26/4/2017, số CH 318558 ngày
26/4/2017, số AL 482732 ngày 26/2/2008.
Buộc chị Nguyễn Thị H trả lại cho chị Nguyễn Thị Q số tiền
280.000.000 đồng.
Anh Phùng Quốc V được quyền sử dụng thửa đất số 121, tờ bản đồ số 30,
diện tích 100m
2
, địa chỉ: Phố T2, phường T, thành phố N, tỉnh Ninh Bình sở
hữu công trình xây dựng trên đất trị giá 7.035.000.000 521.000.000 =
6.514.000.000 nghĩa vụ thực hiện Hợp đồng tín dụng số
3304LAV201700543 ngày 20/4/2017.
Anh V nghĩa vụ thanh toán chênh lệch cho chị H số tiền 1.118.100.000
đồng.
9
Chị Nguyễn Thị H được quyền sử dụng thửa đất số 84, tờ bản đồ số 29,
diện tích 100,8m
2
, địa chỉ: Phố T2, phường T, thành phố N, tỉnh Ninh Bình, trị
giá 806.400.000 đồng; quyền sử dụng thửa đất số 85, tờ bản đồ số 29, diện tích
100,8m
2
, địa chỉ: Phố T2, phường T, thành phố N, tỉnh Ninh Bình, trị g
806.400.000 đồng; quyền sử dụng thửa đất số 306, tờ bản đồ số 30, diện tích
114,7m
2
và sở hữu công trình xây dựng trên đất, địa chỉ: Thôn H1, N2, thành
phố N, tỉnh Ninh Bình, trị giá 1.015.000.000 đồng; quyền sử dụng thửa đất số
19a tờ bản đồ số 6G-IV-32, diện tích 21m
2
sở hữu công trình xây dựng trên
đất tại địa chỉ số 11, ngách 99/27, ngõ 354, đường TC, phường KT, quận Đ,
thành phố Hà Nội, trị giá 1.650.000.000 đồng.
4.2. Ghi nhận việc anh Phùng Quốc V tự nguyện tạo điều kiện để chị H
hưởng quyền lưu tại số nhà 72, phố T2, phường T, thành phố N, tỉnh Ninh
Bình trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật để chị H
thời gian xây nhà hoặc tìm mua nhà nơi khác.
Ngoài ra bản án còn quyết định về án phí quyền kháng cáo cho các
đương sự.
Ngày 20 tháng 5 năm 2019, chị Nguyễn Thị H kháng cáo toàn bộ bản án sơ
thẩm số 11/2019/HNGĐ-ST ngày 07/5/2019 của Tòa án nhân dân thành phố N
với nội dung: Chị không chấp nhận ly hôn với anh V chị vẫn còn tình cảm với
anh V. Về con chung, chị không chấp nhận để anh V nuôi cháu Bảo, vì các cháu
còn nhỏ cần sự chăm sóc, nuôi dưỡng của chị nguyện vọng của các cháu đều
mong muốn với chị nên chị xin nuôi cả hai cháu. Về tài sản, chị không chấp
nhận hủy 03 văn bản công chứng phân chia tài sản chung của vợ chồng chị
các văn bản này đã tuân thủ đúng, đầy đủ về hình thức trình tự, thủ tục theo
quy định của pháp luật. Việc chuyển nhượng quyền sử dụng 03 thửa đất cho
Q đúng trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật, 03 thửa đất này không
còn tài sản chung của vợ chồng chị nữa tài sản của chị Q nên không
được chia trong vụ án này. Chị cũng không đồng ý việc Tòa án giao ngôi nhà số
72, đường L, phố T2, phường T, thành phố N cho anh V, chị muốn được lại
ngôi nhà này vì hiện tại chị và các con đang sinh sống ở đó và là nơi để chị kinh
doanh có thu nhập để nuôi con chị ăn học. Chị sẽ có trách nhiệm thanh toán tiền
chênh lệch giá trị cho anh V quan quan Thi hành án sau khi án hiệu lực
pháp luật, còn nhà đất tại Hà Nội để lại cho anh V.
Chị H đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình hủy toàn bộ bản án
thẩm: Bác đơn yêu cầu ly hôn của anh V; giao 02 con chung cho chị nuôi; bác
đơn yêu cầu hủy 03 văn bản công chứng phân chia tài sản chung của vợ chồng
của anh V; bác đơn yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa chị chị Q của anh V; giao căn nhà số 72 đường L, phố T2, phường T,
thành phố N, tỉnh Ninh Bình cho chị quản lý để ở và kinh doanh; giao cho anh V
căn nhà ở Hà Nội, chị có trách nhiệm trả tiền chênh lệch cho anh V. Chị yêu cầu
anh V trả tiền cấp dưỡng nuôi con cho chị 10.000.000đ/tháng cho 02 cháu từ
tháng 9/2017 cho đến nay; trả tiền cấp dưỡng nuôi con từ nay cho đến khi cháu
18 tuổi mỗi tháng 10.000.000đ cho 02 cháu. Về công nợ, chị đề nghị chia đôi
10
số tiền 521.000.000 nợ Ngân hàng N2 chi nhánh thành phố và đề nghị anh V
trả tiền lãi cho chị từ tháng 9 năm 2017 cho đến nay số tiền là 2.500.000đ/tháng.
Ngày 27 tháng 5 năm 2019, người đại diện hợp pháp của Văn phòng công
chứng ĐT ng chứng viên là ông Phạm Văn T2 kháng cáo một phần bản án
sơ thẩm với nội dung: Việc tuyên bố 03 văn bản công chứng vô hiệu là không có
căn cứ, trái với quy định của pháp luật. Chủ tọa phiên tòa chỉ căn cứ vào một vài
từ ngữ trong câu của ba văn bản thỏa thuận ghi “bà Nguyễn Thị H được toàn
quyền sử dụng, sở hữu quyền sử dụng đất” để tuyên bố 03 văn bản công chứng
hiệu là phiến diện, mang cảm tính nhân. Giả thiết nếu sử dụng từ “sở hữu
quyền sử dụng đất” sai thì đó chỉ lỗi kỹ thuật trong văn bản công chứng,
không làm ảnh hưởng đến quyền nghĩa vụ của các bên đã thỏa thuận bởi khi
tiến hành công chứng H ông V tự nguyện bàn bạc, thỏa thuận, thống nhất
đồng ý ký vào ba văn bản thỏa thuận phân chia khối tài sản chung của vợ chồng.
Việc sdụng từ ngữ “sở hữu quyền sử dụng đất” hoàn toàn chính xác, phù
hợp pháp luật nên công chứng viên không tiến hành sửa chữa lỗi kỹ thuật theo
quy định tại Điều 50 Luật công chứng.
Mặt khác, trong suốt quá trình khởi kiện, cung cấp tài liệu chứng cứ tham
gia phiên họp tiếp cận, công khai chứng cứ, anh V khởi kiện đề nghị Tòa án
nhân dân thành phố N tuyên hủy 03 văn bản công chứng hiệu với do chị
Nguyễn Thị H “cầm dao đe dọa, cưỡng bức”, tuyệt nhiên không đnghị tuyên
bố 03 văn bản công chứng vô hiệu với do anh V và chị H thỏa thuận “bà
Nguyễn Thị H được quyền sở hữu quyền sử dụng đất” nêu tại phần 2 của văn
bản thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng. Như vậy Tòa án nhân dân
thành phố N đã thụ lý xét xử ngoài phạm vi khởi kiện của anh V là vi phạm quy
định tại khoản 1, Điều 5 Luật tố tụng dân sự. vậy ông Phạm Văn T2 đề nghị
Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình tuyên hủy phần bản án sơ thẩm đã tuyên đối với
03 văn bản công chứng hiệu để công nhận sthỏa thuận phân chia tài sản
chung của vợ chồng chị H anh V tại 03 văn bản thỏa thuận phân chia tài sản
chung của vợ chồng đã công chứng ngày 12/9/2018.
Ngày 04 tháng 6 năm 2019 chị Nguyễn Thị Q kháng cáo một phần bản án
thẩm với nội dung: Chị không chấp nhận hủy 03 hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất của chị H cho chị vì việc giao kết giữa chị và chị H hoàn toàn
tự nguyện, nội dung và hình thức hợp đồng đúng quy định của pháp luật. Anh V
nói đơn đề nghị chi nhánh văn phòng đăng đất đai dừng sang tên cho chị
là bịa đặt, không đúng và không đưa ra được chứng cứ đó vì ngày 22/3/2018 chị
đã làm xong bìa đất nhưng tận ngày 31/5/2018 anh V mới đơn khởi kiện yêu
cầu Tòa án hủy 3 hợp đồng chuyển nhượng đất giữa chị và chị H. Chị Q đề nghị
Tòa án tỉnh Ninh Bình hủy phần tuyên án của 03 hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa chị chị H, bác đơn yêu cầu hủy 03 hợp đồng này của
anh V.
Ngày 22/5/2019 Viện Kiểm sát nhân dân thành phố N ra quyết định s
04/QĐKNPT-VKS-DS kháng nghị phúc thẩm đối với bản án số 11/2019/HNGĐ-
ST ngày 07/5/2019 của Tòa án nhân dân thành phố N với nội dung:
11
Về nuôi con chung: Kể từ khi anh V và chị H sống ly thân từ 07/9/2017, cả
hai con chung cháu Quốc cháu Bảo đều do chị H trực tiếp chăm sóc, nuôi
dưỡng. Chị H đã đảm bảo các điều kiện về vật chất, tinh thần, các cháu vẫn phát
triển, học tập tốt, hơn nữa 02 cháu đều nguyện vọng với mẹ khi bố mẹ ly
hôn. vậy để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho sự phát triển, học tập, sinh
sống, ổn định cuộc sống của các cháu không bị gián đoạn, xáo trộn cần giao cả
02 cháu cho chị H chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục buộc anh V phải có nghĩa
vụ cấp dưỡng nuôi con tốt nhất, phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82, 83
Luật Hôn nhân và gia đình. Do đó, bản án sơ thẩm quyết định giao cháu Bảo cho
anh V, giao cháu Quốc cho chị H trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng
chưa đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp của các con chưa thành niên khi vợ
chồng ly hôn theo quy định của pháp luật.
Về tài sản chung: Đối với 03 thửa đất số 306, tờ bản đồ số 30 tại thôn H1,
N2, thành phố N; thửa 84 thửa 85, tờ bản đồ số 29 (trước đây thửa số
D3 D4, tờ bản đồ quy hoạch) tại khu Cánh đồng Son, phố T2, phường T,
thành phố N. Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện nguồn gốc 03
thửa đất này tài sản chung của anh V chị H. Ngày 12/9/2017 anh V và chị
H lập 03 văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng với nội
dung chị H được toàn quyền sử dụng, sở hữu quyền sử dụng đất đối với 03 thửa
đất trên. Cùng ngày Văn phòng công chứng ĐT đã công chứng nội dung thỏa
thuận về việc phân chia. Bản án thẩm đã nhận định 03 văn bản thỏa thuận
phân chia tài sản chung của vợ chồng anh V chH nội dung ghi “Bà Nguyễn
Thị H được toàn quyền sử dụng, sở hữu quyền sử dụng đất…” trái với Điều
167 Luật đất đai; Điều 41, 46 Luật công chứng quyết định tuyên 03 văn bản
thỏa thuận này vô hiệu, tuyên hủy 03 hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất giữa chị H chị Q không đúng quy định của pháp luật, m ảnh hưởng
nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của các đương sự. Bởi lẽ: Mặc dù 03 văn bản
thỏa thuận phân chia tài sản chung nội dung nêu trên là không đúng quy định
tại Điều 4 Luật đất đai, tuy nhiên việc nội dung văn bản thỏa thuận ghi chị H
được toàn quyền sử dụng, sở hữu tài sản được thực hiện đúng tại mục II của văn
bản thỏa thuận nên chị H cũng chỉ đề nghị các cơ quan thẩm quyền nhà nước
về đất đai xác định quyền sử dụng đất cho chị theo quy định của pháp luật. Chi
nhánh văn phòng đăng đất đai thành phố N cũng chỉ xác định chị H được
quyền sử dụng đất tài sản riêng đối với 03 thửa đất trên. Khi chuyển nhượng
cho chị Q thì các bên cũng xác lập Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
được quan thẩm quyền cho phép chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Mặt khác, tại thửa đất số 306, tờ bản đồ số 30 tại thôn H1, N2, thành phố N
ngoài quyền sử dụng đất, trên đất còn có tài sản là căn nhà cấp 4 nên tài sản trên
đất được quyền sở hữu. vậy, căn cứ xác định việc thỏa thuận phân chia
tài sản chung của vợ chồng thành tài sản riêng đã được Văn phòng ng chứng
ĐT công chứng việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa chị H với chị Q
là trên cơ sở quy định tại các Điều 38 Luật Hôn nhân gia đình, Điều 213 Bộ luật
Dân sự, Điều 95 Luật đất đai. Do đó cần bác yêu cầu của anh V về việc yêu cầu
12
hủy 03 văn bản công chứng 03 Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đât
và tài sản gắn liền với đất vô hiệu là đúng quy định của pháp luật.
Về chia tài sản chung: Đối với tài sản quyền sử dụng đất thửa 121, tờ
bản đồ số 30, diện tích 100m
2
phố T2, phường T, thành phố N, tài sản trên đất
là ngôi nhà 07 tầng kinh doanh khách sạn. Thực tế, khi vợ chồng anh V chị H ly
thân ktừ ngày 07/9/2017 đến nay chị H người trực tiếp quản lý, sử dụng
kinh doanh, toàn bộ quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đất đối với thửa
đất này hiện tại đang thế chấp tại Ngân hàng N2 chi nhánh thành phố , từ đó
đến nay chị H người trực tiếp trả lãi hàng tháng. Mặt khác, theo trình bày của
các đương sự, nghề nghiệp của chị H kinh doanh khách sạn, nghề nghiệp của
anh V kiến trúc nên tài sản này cần trực tiếp giao cho chH quản lý, sử
dụng nhằm tạo điều kiện để chị H kinh doanh, nuôi con buộc chị H phải
thanh toán tiền chênh lệch giá trị tài sản phù hợp với Điều 59, 62, 64 Luật
Hôn nhân gia đình đảm bảo quyền lợi cho người phụ ncon chưa thành
niên khi ly hôn.
Vì vậy, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố N đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh
Ninh Bình xét xử phúc thẩm, sửa một phần bản án hôn nhân gia đình thẩm
theo hướng phân tích ở trên.
Tại phiên tòa phúc thẩm, chị H đồng ý ly hôn với anh V còn nội dung khác
chị H giữ nguyên nội dung như đơn kháng cáo; anh V không đồng ý với kháng
cáo của chị H kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N đề nghị
giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình tham gia phiên tòa rút nội
dung kháng nghị vnuôi con sau khi ly hôn chia tài sản khi ly hôn về hiện
vật đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình áp dụng khoản 2 điều 308, điều
147, điều 148 BLTTDS và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của UBTVQH, xử:
1. Bác nội dung kháng cáo của chị Nguyễn Thị H về việc xin nuôi 02 con
chung sử dụng nhà đất tại thửa số 121, tờ số 30 phố T2, phường T,TP
Ninh Bình; Giữ nguyên quyết định của bản án thẩm số 11/2019/HNGĐ-ST
ngày 07/5/2019 của TAND thành phố N tại mục 2, mục 3.
2. Chấp nhận nội dung kháng nghị số 04/QĐKTPT-VKS-DS ngày
22/05/2019 của Viện Trưởng VKSND thành phố N; Chấp nhận một phần kháng
cáo của chị H, văn phòng công chứng ĐT ông Phạm Văn T2: Sửa bản án
thẩm số 11/2019/HNGĐ-ST ngày 07/5/2019 của TAND thành phố N về phần tài
sản chung, chia i sản chung, công nợ như sau:
- Chia cho anh V quyền sử dụng đất diện tích 100m
2
(thửa số 121, tờ bản
đồ số 30) địa chỉ: phố T2, phường T, thành phố N (GCNQSDĐ số AQ 151145
cấp ngày 21/8/2009 mang tên Phùng Quốc V Nguyễn Thị H). Tài sản trên đất
ngôi nhà 07 tầng để kinh doanh khách sạn. Tổng trị giá: 7.035.000.000đ, anh
V nghĩa vụ thực hiện HĐTD số 3304LAV2011700543 ngày 20/4/2017 và trả
nợ trả ngân hàng nông nghiệp PTNTVN - chi nhánh TP, tỉnh Ninh Bình
13
số tiền: 521.000.000đồng nghĩa vụ thanh toán chênh lệch tài sản chung
cho chị H số tiền 2.432.000.000 đồng.
- Chia cho chH được quyền sử dụng đất diện tích 21m
2
(thửa số 19a, tờ
bản đồ số 6G-IV-32), đâị chỉ: số 11, ngách 99/27, n354 đường TC, phường
KT, quận Đ, thành phố Hà Nội và tài sản trên đất, trị giá: 1.650.000.00, đồng
thời được nhận s tiền anh Viêt thanh toán chênh lệch tài sản chung
2.432.000.000đ.
- Ghi nhn vic anh Phùng Quc V tự nguyn tạo điu kiện để chị H ởng
quyền lưu tại s nhà 72, phố T2, phường T, thành phố N, tỉnh Ninh Bình
trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày bản ánhiệu lực pháp luật để chị H thời
gian xây nhà hoặc tìm mua nhà nơi khác.
3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Phùng Quốc V về việc
tuyên bố các văn bản công chứng sau hiệu: Văn bản thỏa thuận phân chia tài
sản chung vợ chồng ngày 12/9/2017 được văn phòng công chứng ĐT công
chứng ngày 12/9/2017 số1379, số 1380, số 1381 quyển số 01TP/CC-
SCC/HĐGD không chấp nhận yêu cầu tuyên hy 03 hp đng chuyn nhượng
quyn sử dng đt số 37/CN-QSDĐ&TS ngày 14/3/2018; s34/CN-QSDĐ&TS ngày
13/3/2018; số 35/CN-QSDĐ&TS ngày 13/3/2018 gia ch Nguyn Th H và ch
Nguyn Th Q.
4 - Án phí STDS, LH: Các bên đương s phải nộp theo quy định của pháp
luật.
- Án phí DSPT: Chị H, chị Q, ông T2 và Văn phòng công chứng ĐT
không phải nộp, được hoàn lại mỗi người 300.000đ tiền tạm ứng án phí phúc
thẩm đã nộp.
Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng:
Đơn kháng cáo của các đương sự kháng nghị của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân thành phố N làm trong thời hạn pháp luật quy định đúng
hình thức, nội dung nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
Đối với kháng cáo của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị
Q. Tòa án đã triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không
có đơn xin xét xử vắng mặt, không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách
quan nên theo quy định khoản 3 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự coi như chị Q
từ bỏ việc kháng cáo, Tòa án đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần kháng cáo
của chị Q.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình tham gia phiên tòa rút
một phần kháng nghị về nội dung nuôi con sau khi ly hôn chia tài sản khi ly
hôn về hiện vật nên theo quy định khoản 3 Điều 298 Bộ luật Tố tụng dân sự.
14
Tòa án chấp nhận rút một phần kháng nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân
tỉnh Ninh Bình.
[2] Về nội dung:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân:
Anh V và chị H đều xác định anh chị đã sống ly thân từ ngày 05/9/2017
đến nay, trong thời gian sống ly thân mỗi người tự lo cuộc sống riêng không
còn quan tâm chăm sóc đến nhau. Mặc chị H xác định vẫn còn tình cảm với
anh V nhưng chị không có biện pháp khắc phục để hàn gắn quan hệ tình cảm vợ
chồng. Như vậy, anh V, chị H đã vi phạm quyền nghĩa vụ vợ chồng làm cho
hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục
đích hôn nhân không đạt được. Tại phiên tòa phúc thẩm sau khi tranh luận chị H
đã đồng ý ly hôn anh V. Do đó, cần công nhận thuận tình ly hôn giữa anh V
chị H.
[2.2]. Về nuôi con chung khi ly hôn:
Trong thời kỳ hôn nhân anh V, chị H có 02 con chung là cháu Phùng Quý
Quốc, sinh ngày 11/9/2002 cháu Phùng Thiện Bảo, sinh ngày 27/3/2009.
Theo quy định tại Điều 71 Luật Hôn nhân gia đình cha, mẹ nghĩa vụ
quyền ngang nhau trong việc chăm sóc nuôi dưỡng con chưa thành niên. Bản án
thẩm đã giao cháu Quốc cho chị H trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng giao
cháu Bảo cho anh V trực tiếp nuôi dưỡng khi ly , không ai phải cấp dưỡng
nuôi con là đã xem xét đầy đủ quyền và nghĩa vụ chăm sóc nuôi dưỡng của cha,
mẹ đối với con chung theo quy định tại các Điều 72, 81, 82 Luật Hôn nhân
gia đình đảm bảo được quyền lợi về mọi mặt của trẻ em. vậy, kháng cáo của
chị H đề nghị Tòa án giao cho chị được nuôi cả hai con chung không căn cứ
để chấp nhận.
[2.3]. V chia tài sản chung khi ly hôn:
[2.3.1] Anh V và chị H c định trong thời kỳ hôn nhân vợ chồng có khối
tài sản chung gồm: Quyền sử dụng thửa đất số 121, tbản đồ số 30, diện tích
100m
2
, địa chỉ: Phố T2, phường T, thành phố N, tỉnh Ninh Bình, đã được
UBND thành phố N cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Phùng
Quốc Vvà Nguyễn Thị H ngày 21/8/2009. Trên đất ngôi nhà 7 tầng kinh
doanh khách sạn; Quyền sử dụng thửa đất số 19a, tbản đồ số 6G-IV-32, diện
tích 21m
2
tại địa chỉ: Số 11, ngách 99/27, ngõ 354, đường TC, phường KT, quận
Đ, thành phố Nội. Đất đã được UBND quận Đ, thành phố Nội cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số BU 626829; Quyền sử dụng thửa đất số D3, tờ
bản đồ quy hoạch, diện tích 100,8m
2
, địa chỉ: Phố T2, phường T, thành phố N,
tỉnh Ninh Bình. Đất đã được UBND thành phố N cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số CH 318571 ngày 26/4/2017 mang tên Phùng Quốc V và Nguyễn Thị
H; Quyền sử dụng thửa đất số D4, tờ bản đồ quy hoạch, diện tích 100,8m
2
, địa
chỉ: Phố T2, phường T, thành phố N, tỉnh Ninh Bình. Đất đã được UBND thành
phố N cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH 318558 ngày 26/4/2017
mang tên Phùng Quốc V Nguyễn Thị H; Quyền sử dụng thửa đất số 306, t
15
bản đồ số 30, diện tích 114,7m
2
, địa chỉ: Thôn H1, N2, thành phố N, tỉnh
Ninh Bình. Đất đã được UBND thành phố N cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số AL 482732 ngày 26/2/2008 mang tên Phùng Quốc Vvà Nguyễn Thị
H. Khối tài sản này được định giá có tổng giá trị là 11.312.800.000 đồng.
[2.3.2] Anh V chị H lập văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung của
vợ chồng với nội dung chia cho chị H được quyền sử dụng 03 thửa đất gồm:
Thửa số D3, tờ bản đồ quy hoạch, diện tích 100,8m
2
; thửa đất số D4, tờ bản đồ
quy hoạch, diện tích 100,8m
2
; thửa đất số 306, t bản đồ số 30, diện tích
114,7m
2
. Anh V, chị H đều thừa nhận ký văn bản này vào ngày 12/9/2017 trước
mặt công chứng viên. Công chứng viên đã giải thích cho anh V, chị H hiểu
quyền, nghĩa vụ lợi ích hợp pháp, ý nghĩa và hậu quả pháp của việc kết
văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung. Anh V, chị H đều người đủ
năng lực pháp luật. Do đó, các văn bản thỏa thuận của anh V, chị H về việc chia
tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân lập ngày 12/9/2017 tự nguyện, không
trái pháp luật, phù hợp với quy định tại Điều 38 Luật Hôn nhân gia đình,
Điều 213 Bộ luật Dân sự không trái đạo đức hội cũng như không vi phạm
các nội dung được quy định tại Điều 42 Luật Hôn nhân gia đình. Bản án
thẩm đã nhận định 03 văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng
anh V chị H nội dung ghi “Bà Nguyễn Thị H được toàn quyền sử dụng, sở
hữu quyền sử dụng đất…” trái với Điều 167 Luật đất đai; Điều 41, 46 Luật
công chứng quyết định tuyên 03 văn bản thỏa thuận này hiệu không
đúng quy định của pháp luật. Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát thành
phố N các yêu cầu kháng cáo của bị đơn và người quyền lợi nghĩa vụ liên
quan về nội dung này là có cơ sở cần được chấp nhận.
[2.3.3] Văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của anh V chị H đã được
công chứng tại Văn phòng công chứng ĐT là đúng quy định của pháp luật. Theo
đó, chị H được toàn quyền sử dụng đối với thửa đất số D3, D4 tờ bản đồ quy
hoạch (thửa 84 thửa 85, tờ bản đồ số 29) và thửa 306. Chị H đã đăng
quyền sử dụng đất được chi nhánh Văn phòng đăng đất đai thành phố N
xác nhận nội dung biến động vào 03 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tài
sản gắn liền với đất số CH 318571, CH 318558, AL 482732. Sau khi làm thủ tục
đăng ký hoàn tất, chị H đã chuyển nhượng cả 03 thửa đất này cho chị Q theo
Hợp đồng số 37/CN-QSĐ&TS ngày 14/3/2018, Hợp đồng số 34/CN-QSĐ&TS
Hợp đồng số 35/CN-QSĐ&TS ngày 13/3/2018. Việc chuyển nhượng 03 thửa
đất của chị H cho chị Q theo đúng quy định tại Điều 167 Luật đất đai. Nội dung,
hình thức, thủ tục chuyển nhượng 03 thửa đất của chị H cho chị Q đúng theo
quy định tại các Điều 500, 501, 502 hiệu lực theo quy định tại Điều 503
Bộ luật Dân sự năm 2015. vậy, căn cứ xác định các hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất số 37/CN-QSĐ&TS ngày 14/3/2018, Hợp đồng số
34/CN-QSĐ&TS Hợp đồng số 35/CN-QSĐ&TS ngày 13/3/2018 từ chị H
sang cho chị Q đúng quy định của pháp luật. Tòa án nhân dân thành phố N đã
tuyên bố hủy các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng 03 thửa đất này từ chị
H cho chị Q là không đúng theo quy định của pháp luật. Kháng nghị của Viện
16
trưởng Viện kiểm sát thành phố N và các yêu cầu kháng cáo của bị đơn và người
có quyền lợi nghĩa vụ liên quan về nội dung này là có cơ sở cần được chấp nhận.
[2.3.4] Để giải quyết yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
cần phải xác định tài sản chung của vợ chồng anh V chị H trong thời kỳ hôn
nhân các tài sản nêu mục [2.3.1] tổng giá trị là 11.312.800.000 đồng.
(Bao gồm: Tài sản đã chia cho chị H theo các văn bản ngày 12/9/2017 giá trị
2.627.800.000 đồng tài sản chung chưa chia giá trị 8.685.000.000
đồng). Công nợ chung theo Hợp đng tín dng số 3303LAV201700543 ny
20/4/2017 tại Ngân ng N2 với nợ chưa thanh toán 521.000.000 đng lãi
phát sinh.
Theo quy định tại Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình thì khối tài sản
chung công nợ chung của anh V, chị H trong thời kỳ n nhân khi ly hôn
được chia đôi mỗi người được hưởng ½ giá trị tài sản chịu trách nhiệm thanh
toán ½ công nợ chung. Tuy nhiên, chị H đã được chia trong thời kỳ hôn nhân số
tài sản trị giá 2.627.800.000 đồng tương đương khoảng 23% giá trị khối tài sản
chung. Anh V chưa được chia tài sản trong thời k hôn nhân. Do đó, căn cứ vào
công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì phát triển khối tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân khi chia số tài sản còn lại cần phân định cho anh
V tỷ lệ cao hơn đbảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên. Cụ thể khối tài sản
còn lại chưa chia giá trị 8.685.000.000 đồng trừ đi nợ chưa thanh toán
521.000.000 đồng giá trị còn lại là 8.164.000.000 đồng được chia theo tỷ lệ
anh V 65% = 5.306.600.000 đồng, chị H 35% = 2.857.400.000 đồng.
[2.3.5] Căn cứ giá trị tài sản mà mỗi bên được chia, thực trạng tài sản chia
cho anh V được quyền sử dụng thửa đất số 121, tờ bản đồ số 30, diện tích
100m
2
, địa chỉ: Phố T2, phường T, thành phố N, tỉnh Ninh Bình đã được UBND
thành phố N cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Phùng Quốc V
Nguyễn Thị H ngày 21/8/2009. Trên đất ngôi nhà 7 tầng trị giá
7.035.000.000 đồng và có trách nhiệm thanh toán số nợ 521.000.000 đồng lãi
phát sinh theo Hợp đồng tín dụng số 3303LAV201700543 ngày 20/4/2017 tại
Ngân hàng N2. Chia cho chH được quyền sử dụng thửa đất số 19a, tờ bản đồ
số 6G-IV-32, diện tích 21m
2
tại địa chỉ: Số 11, ngách 99/27, ngõ 354, đường
TC, phường KT, quận Đ, thành phố Nội. Đất đã được UBND quận Đ, thành
phố Hà Nội cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BU 626829 ngày
30/12/2014 trị giá 1.650.000.000 đồng.
Anh V trách nhiệm thanh toán cho chị H số tiền chênh lệch về tài sản là
1.207.400.000 đồng. Chị H được quyền lưu cư tại số nhà 72, phố T2, phường T,
thành phố N, tỉnh Ninh Bình trong thời hạn 06 tháng.
[3] Về án phí thẩm:
Anh V phải chịu án phí ly hôn, án phí chia tài sản chung, án phí về yêu
cầu tuyền bố văn bản công chứng hiệu, án phí về yêu cầu hủy hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Chị H phải chịu án phí chia tài sản chung.
17
[4] Án phí phúc thẩm: Do sửa án thẩm nên chị H, chị Q, Văn phòng
công chứng ĐT và ông T2, công chứng viên không phải nộp tiền án phí phúc
thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308, khoản 2 khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều
148 Bộ luật tố Tụng dân sự năm 2015; các Điều 213, 220, 500, 501, 502, 503 B
luật Dân sự năm 2015; các Điều 38, 39, 40, 43, 44, khoản 1 Điều 56, Điều 59,
60, 62, 71, 72, 81, 82, 83 Luật Hôn nhânGia đình; Điều 4, 95, 167, 168 Luật
Đất đai; Điều 40, 49 Luật Công chứng; Điều 26, khoản 5 Điều 27, khoản 2 Điều
29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí lệ
phí Tòa án.
1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với nội dung kháng cáo của chị Q.
2. Đình chỉ xét xử phúc thẩm một phần đối với kháng nghđại diện Viện
Kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình về nội dung nuôi con sau khi ly hôn chia
tài sản khi ly hôn về hiện vật.
3. Chấp nhn chp nhận nội dung kháng nghị về việc tuyên bố các n bản
ng chng sau hiu yêu cầu hủy 03 hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất số 34/CN-QSDĐ&TS ngày 13/3/2018; số 35/CN-QSDĐ&TS ngày
13/3/2018 số 37/CN-QSĐ&TS giao kết ngày 14/3/2018 tại Quyết định kháng
nghsố 04/QĐKNPT-VKS-DS ngày 22/5/2019 ca VKSND tnh ph N.
4. Chấp nhận một phần kháng cáo của chị Nguyễn Thị H, Văn phòng công
chứng ĐT và ông Phạm Văn T2;
5. Sửa bản án dân sự thẩm số 11/2019/HN-ST ngày 07/5/2019 của
Tòa án nhân dân thành phố N v phần tài sản chung, chia tài sản, công nợ
chung.
Tuyên xử:
5.1. Về quan hhôn nhân: Công nhận thuận tình ly hôn giữa anh Phùng
Quốc V chị Nguyễn Thị H.
5.2. Về con chung: Giao cháu Phùng Quý Q1, sinh ngày 11/9/2002 cho chị
Nguyễn Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi ng, giáo dục cho đến khi
cháu Phùng Quý Q1 đủ 18 tuổi. Giao cháu Phùng Thiện B, sinh ngày 27/3/2009
cho anh V trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu
Phùng Thiện B đủ 18 tuổi. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung đều
quyn, nghĩa vthăm nom con mà không ai được cản trở.
5.3. Về tài sản chung và công nợ chung:
5.3.1 Chia cho anh V được quyền sử dụng thửa đất số 121, tờ bản đồ số 30,
diện tích 100m
2
, địa chỉ: Phố T2, phường T, thành phố N, tỉnh Ninh Bình đã
được UBND thành phố N cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên
18
Phùng Quốc Vvà Nguyễn Thị H ngày 21/8/2009. Trên đất có ngôi nhà 7 tầng trị
giá 7.035.000.000 đồng trách nhiệm thanh toán số nợ 521.000.000 đồng
lãi phát sinh theo Hợp đồng tín dụng số 3303 LAV201700543 ngày
20/4/2017 tại Ngân hàng N2.
5.3.2. Chia cho chH được quyền sử dụng thửa đất số 19a, tờ bản đồ số
6G-IV-32, diện tích 21m
2
tại địa chỉ: Số 11, ngách 99/27, ngõ 354, đường TC,
phường KT, quận Đ, thành phố Nội. Đất đã được UBND quận Đ, thành phố
Hà Nội cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BU 626829 ngày 30/12/2014,
trị giá 1.650.000.000 đồng.
5.3.3. Anh V có trách nhiệm thanh toán cho chị H số tiền chênh lệch về tài
sản là 1.207.400.000 đồng.
5.3.4. Chị H được quyền lưu tại số nhà 72, phố T2, phường T, thành
phố N, tỉnh Ninh Bình trong thời hạn 06 tháng.
5.3.5. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Phùng Quốc V về việc
tuyên bố các văn bản công chứng sau hiệu: Văn bản thỏa thuận phân chia tài
sản chung của vợ, chồng ngày 12/9/2017, được Văn phòng công chứng ĐT công
chứng ngày 12/9/2017 số 1379, 1380, 1381 quyển số 01 TP/CC-SCC/HĐGD.
5.3.6. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Phùng Quốc V về việc
yêu cầu hủy 03 hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 34/CN-
QSDĐ&TS ngày 13/3/2018; số 35/CN-QSDĐ&TS ngày 13/3/2018 số
37/CN-QSĐ&TS giao kết ngày 14/3/2018 giữa chị Nguyễn Thị H chị
Nguyễn Thị Q.
5.4. Về án phí dân sự sơ thẩm:
5.4.1. Anh Phùng Quốc V phải chịu các khoản án phí sau:
Án phí ly hôn 300.000 đồng; tiền án phí chia tài sản 5.306.600.000
đồng (112.000.000 + 0,1% x 1.306.600.000 = 113.306.600 đồng); án phí đối với
yêu cầu tuyên bố 03 văn bản công chứng vô hiệu là 900.000 đồng; án phí đối với
yêu cầu hủy 03 hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tài sản gắn liền
với đất 900.000 đồng. Tổng số tiền án phí sơ thẩm anh V phải nộp là
115.406.600 đồng. Được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 59.750.000
đồng theo biên lai thu tiền số AA/2016/0000640 ngày 04/10/2017; số tiền
14.000.000 đồng theo biên lai thu tiền sAA/2010/06769 ngày 24/11/2017; số
tiền 900.000 đồng theo biên lai thu số AA/2018/0000872 ngày 07/8/2018; số
tiền 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số AA/2018/0000762 ngày 05/6/2018;
số tiền 900.000 đồng theo biên lai thu số AA/2018/0000882 ngày 17/8/2018 của
Chi cục Thi hành án dân sự thành phố N, tỉnh Ninh Bình. Anh Phùng Quốc
Vcòn phải nộp số tiền án phí Dân sự sơ thẩm là 39.556.600 đồng.
4.4.2. Chị Nguyễn Thị H phải chịu tiền án phí chia tài sản là 2.857.400.000
đồng (72.000.000 đồng + 2% x 875.400.000 đồng = 89.148.000 đồng).
6. Án phí dân sự phúc thẩm:
19
- Chị Nguyễn Thị H không phải chịu tiền án phí phúc thẩm, được hoàn trả
tiền tạm ứng án p phúc thẩm đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số
AA/2018/0001124 ngày 20/5/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố N,
tỉnh Ninh Bình.
- Chị Nguyễn Thị Q không phải chịu tiền án phí phúc thẩm, được hoàn trả
tiền tạm ứng án p phúc thẩm đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số
AA/2018/0001143 ngày 04/6/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố N,
tỉnh Ninh Bình.
- Văn phòng công chứng ĐT ông Phạm Văn T2 không phải chịu tiền án
phí phúc thẩm, được hoàn trả tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp 300.000
đồng theo biên lai số AA/2018/0001138 ngày 27/5/2019 của Chi cục Thi hành
án dân sự thành phố N, tỉnh Ninh Bình.
7. Những phần bản án không kháng cáo kháng nghị hiệu lực ktừ
ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
8. Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan
thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn
yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho
người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn
phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất được
quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
9. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a, 7b
Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo
quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.
9. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Các đương sự (7);
- VKSND tỉnh Ninh Bình (2);
- Phòng KTGĐ (1);
- TAND cấp cao (1);
- Chi cục THADS tp Ninh Bình(1);
- TAND tp Ninh Bình (1);
- Lưu VP, hồ sơ (2).
T.M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đinh Huy Lưỡng
20
Tải về
Bản án số 08/2019/HNGĐ-PT Bản án số 08/2019/HNGĐ-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất