Bản án số 07/2025/DS-PT ngày 06/01/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 07/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 07/2025/DS-PT ngày 06/01/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đắk Lắk
Số hiệu: 07/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 06/01/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: yêu cầu khởi kiện của bà Võ Thị Phương T
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà:Nguyễn Thị Hạnh Vân.
Các Thẩm phán: Ông Trương Công Bình, bà Lê Thị Thanh Huyền.
- Thư ký phiên tòa: Ông Vũ Đức Anh - Thư ký TAND tỉnh Đắk Lắk.
- Đại diện Viện kiểm t nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa: Ông
Nguyễn Chí Hiếu - Kiểm sát viên.
Ngày 06 tháng 01 năm 2025 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử
phúc thẩm ng khai vụ án dân sự thụ số 296/2024/TLPT-DS ngày 15/10/2024
về việc Tranh chấp quyền sử dụng đất”. Do bản án n sự thẩm s
105/2024/DSST ngày 09/7/2024 của Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột,
tỉnh Đắk Lắk bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số
360/2024/QĐXX-PT ngày 19/11/2024 Quyết định hoãn phiên tòa số
346/2024/QĐ-PT ngày 05/12/2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Võ Thị Phương T, sinh năm 1986 (có mặt).
Địa chỉ: 96/2 H, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
2. B đơn: Bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1963 (vắng mặt).
Địa chỉ: 130/14 Y, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Minh H, sinh năm 1991 (có mặt).
Địa chỉ: Số 02B N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Ông Văn H1 - Luật sư Công ty Luật
Trách nhiệm Hữu hạn Một thành viên Đ (vắng mặt).
Địa chỉ: Căn hộ A.DV01, tầng 01, tòa nhà Khu A, dự án phát triển nhà
hội, đường T, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
3.1. Bà Huỳnh Thị Thùy M, sinh năm 1982 (vắng mặt).
Địa chỉ: 41 N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk;
3.2 Ông Lương Đình K, sinh năm 1966 (có mặt) Lưu Thị L, sinh năm
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
Bản án số: 07/2025/DS-PT
Ngày 06 - 01 - 2025
V/v: Tranh chấp quyền sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
1971 (vắng mặt).
Địa chỉ: 122 L, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
4. Người kháng cáo: Bị đơn bà Nguyễn Thị S.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện ngày 21/12/2023, đơn khởi kiện bổ sung ngày
04/5/2024 trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ThPhương T
trình bày:
Năm 2020 T nhận chuyển nhượng của Huỳnh Thị Thùy M thửa đất số
341, tờ bản đồ số 69, diện tích là 101,1 m
2
tại xã C, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Bà
T khai được Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Đắk Lắk cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CT
352128 ngày 12/02/2020 đứng tên Thị Phương T. Đến khoảng tháng 4/2023,
Nguyễn Thị S xây dựng hàng rào giữa hai nhà đã lấn chiếm sang diện tích đất
của T đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện ch đất lấn chiếm
37,1 m
2
. T đã làm đơn đề nghị Ủy ban nhân dân C tiến hành hòa giải
nhưng không thành.
Theo đơn khởi kiện ban đầu, bà T đề nghị tòa án giải quyết buộc Nguyễn
Thị S trả lại phần diện tích đất đã lấn chiếm khoảng 32 m
2
thuộc thửa đất số 341,
tờ bản đồ số 69. Sau khi có kết quả đo đạc chính xác trên thực địa, ngày 04/5/2024
bà T có đơn khởi kiện bổ sung yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà S trả lại diện tích
đất lấn chiếm là 37,1 m
2
. Đồng thời, buộc bà S tháo dỡ tài sản trên diện tích đất lấn
chiếm là tường xây gạch cao khoảng 0,8m và 07 trụ bê tông.
* Quá trình tham gia tố tụng bị đơn Nguyễn Thị S người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn Luật sư Văn H1 trình bày:
Năm 2018 S nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ Thị Tố N
diện tích 104,4 Thuộc thửa đất số 340, tờ bản đồ số 69, tại C, thành phố B.
Thời điểm nhận chuyển nhượng bà Nguyên đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số CM 301771 do Sở TN&MT tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 15/3/2018, Chi
nhánh văn phòng đăng đất đai thành phố Buôn Ma T xác nhận chuyển nhượng
cho Nguyễn Thị S ngày 18/12/2018. Theo đồ thửa đất thì chiều ngang mặt
đường của đất là 5 m chiều ngang phía sau 5,05m. Hiện nay Nguyễn
Thị S đang sử dụng đúng như diện tích đất đã nhận chuyển nhượng tThị
Tố N. Đối với hàng rào bà S đã xây vào năm 2022. Đối với yêu cầu khởi kiện của
Võ Thị Phương T không có căn cứ nên đề nghị Tòa án bác yêu cầu khởi kiện
của bà T.
* Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Lương Đình K Lưu
Thị L cùng trình bày:
Ngày 30/3/2022 vợ chồng ông K, L nhận chuyển nhượng quyền sử dụng
đất diện tích 128,9 thửa đất số 342, tờ bản đồ số 69 đã được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số DD236150 ngày 30/03/2022 thời điểm đó các đt
đều mốc giới. Ngay sau khi nhận chuyển nhượng, ông K, L đã xây hàng rào
ranh giới với đất của T, không xảy ra tranh chấp. Thời điểm này đất giữa T
3
và bà S có mốc đóng cọc chứ chưa xây hàng rào, sau đó bà S xây hàng rào mới xảy
ra tranh chấp với bà T. Ông K và bà L đề nghị Tòa án xét xử theo quy định.
* Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Huỳnh Thị Thùy M trình
bày:
Khoảng tháng 02/2020 M chuyển nhượng cho T thửa đất số 341 tờ bản đồ
số 69, diện tích 101,1 . Khi sang nhượng M đã bàn giao đầy đủ đúng giấy
tờ, bàn giao đất trên thực địa, cột mốc ranh giới như trên giấy chứng nhận. Sau
đó S xây hàng rào mới xảy ra tranh chấp với T. Do bận công việc nên không
thể tham gia phiên tòa, nên M đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt theo quy
định.
Tại bản án Dân sự sơ thẩm số 105/2024/QĐST-DS ngày 09/7/2024 của Toà
án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
Áp dụng Điều 100, Điều 166, Điều 170; Điều 203 Luật đất đai năm 2013;
Điều 164; Điều 166 Bộ luật dân sự năm 2015.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Thị Phương T về việc: Buộc
Nguyễn Thị S phải phải tháo gỡ tài sản trên đất hàng rào tường xây gạch cao
khoảng 0,8 m 07 trụ tông trả lại diện tích đã lấn chiếm 37,1 đất
trồng cây hàng năm khác thuộc thửa đất số 341, tờ bản đồ số 69 đã được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số CT 352128 ngày 12/02/2020 cho Thị
Phương T.
Đất tứ cận: Phía Đông giáp đường tông dài 0,5m; Phía y giáp giáp
thửa đất 608 dài 3,3m; Phía Nam giáp thửa đất 341 cạnh dài 22,4m; Phía Bắc
giáp thửa 340 đất bà S dài 19,4 m.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí quyền kháng
cáo.
Ngày 23/7/2024 Nguyễn Thị S kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm xét xử
theo hướng không chấp nhận đơn yêu cầu của nguyên đơnVõ Thị Phương T.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn Thị Phương T giữ nguyên yêu
cầu khởi kiện, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn Nguyễn Thị S giữ
nguyên yêu cầu kháng cáo. Các đương sự không thoả Tận được với nhau về việc
giải quyết vụ án.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn trình bày
bổ sung: khi bà S nhận chuyển nhượng đất, bà S đã bàn giao tiền và nhận đất ngoài
thực địa, các ranh giới mốc bằng trụ tông còn nguyên trạng, bà S sử dụng ổn
định đến tháng 7 năm 2022 thì tiến hành xây bờ rào theo các mốc giới đó. Đến
tháng 11 năm 2023 T mới làm đơn tranh chấp đất đai đến UBND C, lúc này
S mới biết quyền sử dụng đất bị tranh chấp với T. Quá trình S xây dựng
thì T biết không u cầu tạm dừng việc xây dựng, do đó việc bà S xây dựng
đúng hiện trạng tứ cận thửa đất của mình. Tại phần nhận định của bản án
thẩm xác định chủ thửa đất 339 xây dựng lấn sang thửa đất của S nhưng không
triệu tập chủ thửa đất 339 vào tham gia tố tụng theo hồ ván thì không
căn cứ nào chứng minh chủ thửa đất 339 lấn đất của S, nhưng lại hướng dẫn bà
4
S khởi kiện chủ thửa đất 339 không phù hợp. Bản án sơ thẩm nhận định chủ đất
trước đây người đồng bào đã bán cho công ty bất động sản đã phân thành
nhiều thửa để bán và thửa cuối cùng là 339, do vậy các hộ lấn theo dây chuyền dẫn
đến S thiếu đất rào lấn đất bà T, tuy nhiên hồ vụ án không tài liệu
chứng cứ chứng minh nội dung này. Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ bản lồng ghép của
Công ty vấn nông lâm nghiệp làm căn cứ xác định việc tranh chấp lấn đất của
nhau không sở, bởi đồ lồng ghép này chỉ mang mục đích tham khảo
không giá trị về mặt pháp lý. Do Tòa án cấp thẩm đưa thiếu người tham gia
tố tụng dẫn đến ra bản án chưa khách quan, không đảm bảo lợi ích cho các đương
sự, vi phạm thủ tục tố tụng, đề nghị Hội đồng xét xử hủy án thẩm để giải quyết
lại.
Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk:
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Tphiên toà và đương sđã
chấp hành đúng các quy định của pháp luật.
Về nội dung: Toà án cấp thẩm chấp nhận đơn khởi kiện của T, buộc
S trả lại diện tích đất lấn chiếm 37,1 m
2
thuộc thửa đất số 341, tờ bản đồ số 69
buộc tháo dỡ tài sản trên đất là phù hợp. Tuy nhiên, S người cao tuổi, Thuộc
trường hợp được miễn án phí. Do vậy, đnghị Hội đồng xét xử chấp nhận một
phần kháng cáo của bà S, sửa bản án sơ thẩm về phần án phí.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu T thập được trong hồ vụ án, được
thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem
xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và các đương sự.
Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Nguyễn Thị S nộp đơn kháng cáo trong thời hạn luật định
nên được xem t, giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về nội dung: Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơnNguyễn Thị S.
[2.1]. Đối với thửa đất số 341, tờ bản đồ s69, diện tích 101,1 m
2
, địa chỉ
C, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, được Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Đắk Lắk
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn
liền với đất số CT 352128 ngày 12/02/2020 đứng tên Võ Thị Phương T.
Tại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thể hiện: thửa đất 341 diện tích
101,1 m
2
, tcận phía đông giáp đường rộng 05 m, phía tây giáp thửa đất số 170
rộng 5,05 m, phía nam giáp thửa đất số 342 dài 19,88 m, phía bắc giáp thửa đất số
340 dài 20,54 m. Hình thể thửa đất hình thang, các cạnh nam, bắc đường
thẳng vuông góc với cạnh đông, còn cạnh phía tây là đường chéo.
Tại trích đo hiện trạng thửa đất ngày 08/4/2024 của Công ty Trách nhiệm Hữu
hạn Đo đạc, vấn N thể hiện: thửa đất 341 diện tích 73,1 m
2
, tứ cận phía đông
giáp đường rộng 4,89 m, phía tây giáp thửa đất số 608 rộng 1,7 m, phía nam giáp
thửa đất số 342 dài 22,67 m, phía bắc giáp với thửa đất số 340 dài 23,0 m. Hình thể
thửa đất là một hình thang, cạnh phía nam là đường thẳng vuông góc với cạnh phía
đông, còn cạnh phía tây, phía bắc là đường chéo.
5
Tại sơ đồ lồng ghép thửa đất trên giấy chứng nhận và trên hiện trạng thể hiện:
thửa đất số 341 có diện tích thực tế ít hơn so với giấy chứng nhận 28 m
2
(101,1 m
2
- 73,1 m
2
), trong đó cạnh phía đông chiều rộng ít hơn 0,11 m (5 m - 4,89 m),
phía tây ít 3,35 m (5,05 m - 1,7 m), phía nam nhiều hơn 2,79 m (22,67 m - 19,88
m), phía bắc nhiều hơn 1,91 m (22,45 m - 20,54 m).
[2.2]. Đối với thửa đất số 340, tờ bản đồ số 69, diện tích 104,4 m
2
, địa chỉ tại
C, thành phố Buôn Ma T, tỉnh Đắk Lắk, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
CM 301771 do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 15/3/2018,
Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố B xác nhận chuyển nhượng cho bà
Nguyễn Thị S ngày 18/12/2018.
Tại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thể hiện: thửa đất 340 diện tích
104,4 m
2
, tcận phía đông giáp đường rộng 05 m, phía tây giáp thửa đất số 170
rộng 5,05 m, phía nam giáp thửa đất số 341 dài 20,54 m, phía bắc giáp thửa đất số
339 dài 21,21 m. Hình thể thửa đất hình thẳng, các cạnh nam, bắc đường
thẳng vuông góc với cạnh đông, còn cạnh tây là đường chéo.
Tại trích đo hiện trạng thửa đất ngày 08/4/2024 của Công ty Trách nhiệm Hữu
hạn Đo đạc, vấn N thể hiện: thửa đất 340 diện tích 113 m
2
, tứ cận phía đông
giáp đường rộng 4,99 m, phía tây giáp thửa đất số 608 rộng 5 m, phía nam giáp
thửa đất 341 dài 22,45m, phía bắc giáp thửa đất số 339 dài 23,01m. Hình thể thửa
dất hình thang, các cạnh i phía đông, tây, nam, bắc đều đường chéo không
vuông góc.
Tại sơ đồ lồng ghép thửa đất trên giấy chứng nhận và trên hiện trạng thể hiện:
thửa đất số 340 có diện tích thực tế nhiều hơn so với giấy chứng nhận 11,6 m
2
(113
m
2
- 101,4 m
2
), trong đó cạnh phía đông ít hơn 0,1 m (5 m - 4,99 m), phía tây ít
hơn 0,05 m (5,05 m - 5 m), cạnh phía nam nhiều hơn 1,91 m (22,45 m - 20,54 m),
phía bắc nhiều hơn 1,8 m (23,01 m - 21,21 m).
[2.3]. Về ranh giới đất giữa hai thửa đất số 341 của Thị Phương T
thửa đất số 340 của bà Nguyễn Thị S.
Theo trình bày của nguyên đơn bà T, trước khi xảy ra tranh chấp thì ranh giới
giữa hai nhà là trụ tông, theo đó cạnh phía đông trụ tông cách tường gạch
xây về phía đất S là 0,5 m, cạnh phía tây trụ bê tông cách tường gạch xây về
phía đất bà S là 3,35 m. Sau này bị đơn bà S xây dựng tường đã lấn sang đất của bà
T. Theo trình bày của bị đơn S, trước khi xảy ra tranh chấp thì ranh giới giữa
hai nhà trụ tông, sau này S xây tường rào chồng lên đúng vị trí của trụ
tông, không lấn chiếm sang đất của T. Tuy nhiên, nguyên đơn T lại xác
định tường rào là do bị đơn xây sau này. Quá trình giải quyết vụ án, cả nguyên đơn
và bị đơn đều không xuất trình được chứng cứ chứng minh cho trình bày của mình
nên không có cơ sở xác định ranh giới giữa hai nhà là bức tường hiện trạng.
Tại trích đo hiện trạng thửa đất đồ lồng ghép tham khảo giữa các thửa
đất trên thực tế và trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của các thửa đất số 338,
339, 340, 341, 342 thể hiện: vị trí các cạnh thửa đất số 342 của ông Lương Đình K
giáp với cạnh phía nam của thửa đất số 341 của T trùng khớp với nhau, còn
các cạnh của các thửa đất số 338, 339, 340, 341 đều không trùng khớp với nhau.
6
Trong đó, cạnh dài phía bắc thửa đất số 341 của T (đồng thời cũng cạnh i
phía nam thửa đất số 340 của S) trên giấy chứng nhận cách bức tường hiện
trạng từ 0,5 m đến 3,35 m. Như vậy, lấy cạnh dài phía nam của thửa đất số 341,
342 làm chuẩn (ranh giới trên giấy chứng nhận trùng khớp với ranh giới trên hiện
trạng) thì thửa đất số 340 của bà S đang lấn sang thửa đất số 341 của bà T 37,1 m
2
.
Thửa đất số 339 có ranh giới trên giấy chứng nhận lấn sang thửa đất số 340 của bà
S. Toà án cấp thẩm xác định S đã xây tường lấn chiếm sang thửa đất số 340
của T 37,1 m
2
buộc S phải tháo dỡ hàng rào trả lại diện tích đất cho T
là phù hợp Điều 174, 175, 176 Bộ luật Dân sự.
[3]. Từ những phân tích, nhận định trên, không cósở chấp nhận kháng cáo
của bị đơn bà Nguyễn Thị S, giữ nguyên Bản án dân sự thẩm số 105/2024/DS-
ST ngày 09/7/2024 của Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
[4]. Về án phí dân sự thẩm án phí dân sự phúc thẩm: Do bị đơn
Nguyễn Thị S là người cao tuổi, có đơn xin miễn án phí nên Hội đồng xét xử quyết
định miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm và án phí dân sự phúc thẩm cho bà S.
[5]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
[1]. Căn c khon 1 Điều 308 B luật ttụng dân sự;
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị S. Giữ nguyên Bản án
dân sự thẩm số 105/2024/DS-ST ngày 09/7/2024 của Toà án nhân dân thành
phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
[2]. Áp dụng Điều 174, Điều 175, Điều 176 Bộ luật Dân s; Điều 97, Điều
166, Điều 168, Điều 170 Luật Đất đai; Điều 12, Điều 26, Điều 29 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH12 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức T, miễn, giảm, T, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
[2.1]. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Võ Thị Phương T.
Buộc Nguyễn Thị S phải tháo dtài sản trên đất tường xây gạch dài
22,45m, cao khoảng 0,8m 07 trụ tông và trả lại diện tích đã lấn chiếm
37,1m
2
đất trồng cây hàng năm khác thuộc thửa đất số 341, tờ bản đồ số 69, địa chỉ
C, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, đã được cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất
số CT 352128 ngày 12/02/2020 cho bà Võ Thị Phương T.
Phần diện tích đất 37,1 m
2
có tứ cận: Phía Đông giáp đường bê tông dài 0,5m;
Phía Tây giáp thửa đất số 608 dài 3,3m; Phía Nam giáp thửa đất số 341 dài
22,45m; Phía Bắc giáp thửa đất số 340 dài 19,4m.
[2.2]. Về án phí:
- Miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm, án phí dân sự phúc thẩm cho bà S.
7
- Hoàn trả cho Thị Phương T số tiền 500.000 đồng tạm ứng án pđã
nộp theo Biên lai số 0005135 ngày 12/01/2024 số tiền 300.000 đồng đã nộp
theo Biên lai số 0010063 ngày 14/5/2024 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố
Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk
[2.3]. Về chi phí tố tụng:
Nguyễn Thị S phải thanh toán cho bà Thị Phương T 7.410.000 đồng
tiền chi phí đo đạc, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản.
Các quyết định khác của Bản án thẩm không có kháng cáo, kháng nghị
hiệu lực từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự quyền thoả Tận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và
Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy
định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Nơi nhận: THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- TAND Cấp cao tại Đà Nẵng;
- Vin KSND tỉnh Đắk Lk;
- Chi cc THADS T.p Buôn Ma Thut;
- TAND T.p Buôn Ma Thut; (đã ký)
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ.
Nguyn Th Hnh Vân
Tải về
Bản án số 07/2025/DS-PT Bản án số 07/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 07/2025/DS-PT Bản án số 07/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất