Bản án số 06/2025/DS ngày 06/06/2025 của TAND tỉnh Hòa Bình về tranh chấp đất đai

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 06/2025/DS

Tên Bản án: Bản án số 06/2025/DS ngày 06/06/2025 của TAND tỉnh Hòa Bình về tranh chấp đất đai
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp đất đai
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Hòa Bình
Số hiệu: 06/2025/DS
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 06/06/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Trần Văn C kiện Bùi Văn T
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÒA BÌNH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán -Chủ toạ phiên toà:
Các Thẩm phán:
bà Hoàng Ngọc Liễu
ông Nguyễn Thanh Tùng
bà Bạch Thị Hồng Hoa
- Thư phiên toà: Phương Anh - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Hòa
Bình.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hoà Bình: ông Hoàng Xuân Tân
- Kiểm sát viên.
Ngày 06 tháng 6 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình xét x
phúc thẩm công khai vụ án dân sthụ số 24/2025/ TLPT - DS ngày 16 tháng
04 năm 2025 về việc Tranh chấp lối đi chung. Do Bản án dân sự thẩm số
02/2025/DS-ST ngày 06 tháng 03 năm 2025 của Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh
Hòa Bình bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 31/2025/QĐ-PT ngày 26
tháng 05 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: anh Trần Văn C, sinh năm 1991. Người đại diện theo ủy
quyền của anh C: Trần Thị M, sinh năm 1960. Cùng địa chỉ: xóm T, M,
huyện M, tỉnh Hòa Bình.
2. Bị đơn: anh Bùi Văn T, sinh năm 1985. Địa chỉ: xóm T, xã M, huyện M,
tỉnh Hòa Bình.
3. Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Trần Thị M, sinh năm
1960. Địa chỉ: xóm T, xã M, huyện M, tỉnh Hòa Bình.
4. Người kháng cáo: Trần Thị M - đại diện theo ủy quyền của anh Trần
Văn C.
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH HÒA BÌNH
Bản án số: 34/2025/DS - PT
Ngày: 06 - 6 - 2025
V/v: Tranh chấp lối đi chung
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
(Anh C vắng mặt, bà M có mặt, anh T đơn xin xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo nội dung đơn khởi kiện, lời khai trong quá trình tham gia tố tụng
tại phiên tòa, nguyên đơn anh Trần Văn C trình bày: Năm 2009, Trần Thị M
(mẹ đẻ của anh C) Bùi Thị Q (vợ của ông Đình T1) kết hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, đã được Ủy ban nhân dân huyện M cấp Giấy
chứng nhận Quyền sử dụng đất số H00544 ngày 12/6/2009 mang tên Trần Văn C.
Trước khi bán cho anh C, Bùi Thị Q gia đình anh Bùi Văn T hai hộ liền
kề có lối đi chung cùng một ngõ. Trong thời gian anh C chưa xây dựng, làm nhà
thì anh T đã tự ý làm cổng vào phần lối đi chung nên thửa đất của anh C không
thể mở cổng ra lối đi chung. Sau đó, M làm đơn lên Ủy ban nhân dân M,
huyện M và đã được giải quyết 02 lần nhưng không thỏa đáng. Từ thực tế trên và
căn cứ vào các biên bản làm việc ngày 30/8/2023, ngày 19/9/2023 Giấy chứng
nhận Quyền sử dụng đất số H00544 ngày 12/6/2009. Anh C yêu cầu Tòa án giải
quyết, xem xét thẩm định lại diện tích thực tế của 03 hộ gia đình gồm: anh Bùi
Văn T, anh Trần Văn C Trần Thị M. Từ đó có cơ sở, căn cứ buộc gia đình
anh Bùi Văn T phải trả lại cho anh C phần diện tích là lối đi chung đã lấn chiếm.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn đồng thời người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan, Trần Thị M trình bày: M một thửa đất diện tích
400m
2
, chiều dài khoảng 21 mét tính từ lề đường liên đến thửa đất của anh
Trần Văn C, chiều rộng phía mặt đường liên xã khoảng 28 mét, đã có Giấy chứng
nhận Quyền sử dụng đất số 000528 QSDĐ/328/QĐ-UB do Ủy ban nhân dân
huyện M cấp ngày 08/12/2000; bên cạnh thửa đất một bên giáp với ngõ đi chung
vào nhà anh Bùi Văn T, phía sau giáp với thửa đất của anh Trần Văn C. Đối với
thửa đất của Trần Văn C diện tích 405m
2
, chiều dài 27 mét (giáp với ngõ đi
chung đang tranh chấp với thửa đất nhà anh Bùi Văn T), chiều rộng 15 mét,
phía trước giáp với thửa đất của M, một bên giáp với ngõ đi chung vào nhà anh
Bùi Văn T, phía sau giáp với bãi ma xóm Đ, M, huyện M mảnh đất này mua
với ông Đình T1 Bùi Thị Q. Mảnh đất nhà ông Đình T1 trước đây
vẫn ngõ đi chung với nhà anh Bùi Văn T, sau khi mua được anh C đã xây tường
bao bịt cổng ra ngõ đi chung với nhà anh Bùi Văn T để tiện chăn nuôi gia súc, gia
cầm. Sau khi bịt cổng thì anh Bùi Văn T đã làm cổng tiến lên phía đường liên xã
nên không còn lối đi ra ngõ đi chung nữa. Sau đó bà M làm đơn yêu cầu giải
quyết nhưng kết quả anh Bùi Văn T vẫn được sử dụng cổng ngang tại vị trí hiện
trạng như bây giờ và không còn ngõ đi chung xuyên ra bãi ma xóm Đ. Theo bà M
3
được biết hai thửa đất trước đây của anh C anh T cách nhau một đường dong
(ngõ đi chung) chiều dài từ đường liên chạy hết phần chiều sâu của hai mảnh
đất ra đến bãi ma xóm Đ. Từ thực tế trên đại diện của nguyên đơn M đề nghị
Tòa án buộc ông Bùi Văn T phải phá cổng, trang trại để mở lại ngõ đi chung từ
đường liên xã đến hết phần đất của anh Trần Văn C và anh Bùi Văn T ra đến bãi
ma xóm Đ, M, huyện M. Ngoài các vấn đề nêu trên bà M không đề nghị Tòa
án giải quyết vấn đề gì khác.
Bị đơn anh Bùi Văn T trình bày: Năm 1987, ông Bùi Duy T2 bố anh T
được Ủy ban nhân dân M cắm đất cho sử dụng đlàm đất ở tại xóm T, xã
M, huyện M. Đến năm 2000 được Ủy ban nhân dân huyện M cấp Giấy chứng
nhận Quyến sử dụng đất số R988084 ngày 08/12/2000 mang tên Bùi Duy T2
diện tích 500 m
2
(trong đó 400 m
2
đất ở, 100 m
2
đất vườn tạp). Cuối năm
2013 bố anh T chết, anh T được hưởng thừa kế toàn bthửa đất nói trên. Thửa
đất anh T đang sử dụng giáp các hộ gia đình ông Khà Văn D, anh Trần Văn
C, ông Nguyễn Văn P và phía sau là bãi ma xóm Đ. Năm 2021, gia đình anh T
sửa chữa lại nhà, anh T đập tường bao phía trước, giáp thửa đất nhà ông D đcho
xe vào dễ dàng. Sau khi sửa nhà xong, anh T và anh C có thỏa thuận bằng miệng
là cho anh T dịch cổng từ chỗ cũ sang vị trí mới hết phần nđi cũ của anh C nếu
sau này anh Trần Văn C xây nhà cần mở cổng ra ngõ đi chung thì anh T sẽ
chuyển cổng vvị trí cũ. Cuối năm 2021, Trần Thị M đo đạc lại thửa đất,
M yêu cán bộ địa chính đo đạc lấy mốc là mái nhà xuống đường để đưa vào diện
tích của M làm ảnh hưởng đến phần ngõ đi chung nên anh T không đồng ý.
Hai bên gia đình xảy ra mâu thuẫn, anh T đã chuyển cổng của gia đình mình về
vị tnhư khi ông Đình T1 đã sử dụng. Anh T không đồng ý với toàn b nội
đơn khởi kiện của anh C vì anh T đã chuyển vị trí cổng mới về vị trí ban đầu như
khi ông Đình T1 trước đây đã mở, anh T không được xây tường bao vào phần
ngõ đi chung là do anh Trần Văn C tự xây tường sau khi nhận chuyển nhượng
từ ông Lê Đình T1 và bà Bùi Thị Q, diện tích đất ông T2 ở trước khi gia đình bà
Bùi Thị Q được cắm. Năm 2000 các quan chức năng đã làm thủ tục cho các
gia đình tất cả đã ký xác nhận về giáp ranh các thửa đất, trong đó ông Lê Đình T1
cũng giáp danh với thửa đất của bố anh T, được Ủy ban nhân dân huyện M cấp
giấy chứng nhận cho các hộ gia đình Trần Thị M, ông Đình T1, ông Khà
Văn D gia đình anh T. Sau đó ông Đình T1 Bùi Thị Q mới làm thủ
tục chuyển nhượng cho anh Trần Văn C năm 2009. Nếu tính chiều dài phần lối đi
chung từ cổng hiện tại nhà anh T ra đến điểm đầu của nhà anh Cường G nhà
4
Trần Thị M có chiều dài khoảng hơn 10m quá thừa để anh Trần Văn C mở cổng.
Đối với yêu cầu của bà M và anh C bắt anh T phá bỏ công trình phụ để thông ra
bãi ma xóm Đ là không căn cứ vì Ủy ban nhân dân huyện M đã cấp Giấy chứng
nhận Quyền sử dụng đất số R988084 ngày 08/12/2000 cho bố anh T nên M
không quyền yêu cầu này. Đề nghị Tòa án giải quyết vụ việc trên theo quy định
của pháp luật. Ngoài các vấn đề nêu trên anh T không đề nghị Tòa án giải quyết
vấn đề gì khác.
Bản án dân sự thẩm số 02/2025/DS-ST ngày 06/03/2025 của Tòa án
nhân dân huyện M, tỉnh Hòa Bình đã quyết định: áp dụng Điều 5; khoản 9 Điều
26; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 147; khoản 2 Điều
228; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Điều 245; Điều 254 Bộ luật
Dân sự năm 2015. Điều 31 Luật Đất đai năm 2024. Khoản 3 Điều 26 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Tuyên
x: Bác toàn bộ nội dung khởi kiện của anh Trần Văn C. Ngoài ra, Bản án dân sự
sơ thẩm còn tuyên án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 19/3/2025, Trần Thị M - người đại diện của anh Trần Văn C kháng
cáo với nội dung: đề nghị Hủy bản án dân sự sơ thẩm số 02/2025/DS-ST ngày
06/3/2025 của Huyện M, tỉnh Hòa Bình. Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Trần Thị M
giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình phát biểu ý kiến: Về tố
tụng, việc chấp hành pháp luật của Hội đồng xét xử, Thẩm phán và Thư ký phiên
tòa của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án dân sự giai
đoạn phúc thẩm được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án, căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, Ngh quyết
326/2016/UBTVQH14 ca y ban Thường v Quc hi. Không chấp nhận kháng
cáo của bà Trần Thị M - đại diện theo ủy quyền của anh Trần Văn C, giữ nguyên
Bản án dân sthẩm số 02/2025/DS-ST ngày 06/3/2025 ca Tòa án nhân dân
huyn M. V án phí: đương sự phi chịu án phí theo quy định.
Căn cứ vào các chng c, tài liệu đã được thm tra ti phiên tòa phúc
thẩm; căn cứ vào kết qu tranh lun tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn
din tài liu, chng c, ý kiến ca Kim sát viên những ngưi tham gia t tng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1].Về tố tụng:
[1.1]. Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bđơn phải trả lại phần diện tích lối
đi chung đã lấn chiếm tại xóm T, M, huyện M, tỉnh Hòa Bình. Tòa án nhân dân
huyện M đã xác định quan hệ pháp luật Tranh chấp lối đi chung đthụ
5
giải quyết vụ án theo đúng quy định tại khoản 5, khoản 9 Điều 26; điểm a khoản
1 Điều 35; khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1.2]. Theo quy định tại khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự, đơn
kháng cáo của người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trong hạn luật định,
hợp lệ nên được chấp nhận để xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[1.3]. Tại phiên tòa phúc thẩm, anh C vắng mặt nhưng đã có người đại diện
theo ủy quyền M mặt; anh T đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều
296 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án.
[2]. Về nội dung:
Xét kháng cáo của Trần Thị M - người đại diện theo ủy quyền của anh
C về việc hủy toàn bộ nội dung của bản án dân sự thẩm cho rằng anh T đã
lấn chiếm ngõ đi chung, ngõ đi chung phải bắt đầu từ đường liên xã kéo dài ra bãi
ma xóm Đ. Hội đồng xét xử xét thấy:
Trước đây, thửa đất nhà Trần Thị M, ông Khà Văn D, ông Bùi Duy T2
ông Đình T1 ngõ đi chung, nhìn tngoài đường vào thì bên tay trái là
thửa đất của Trần Thị M, bên tay phải thửa đất nhà ông Khà Văn D, giữa
thửa đất nhà ông D thửa đất nhà M một ngõ đi chung vào đến thửa đất
của ông Bùi Duy T2 và thửa đất của ông Lê Đình T1, giữa đất nhà ông T2 và đất
nhà ông T1 đều có lối đi ra ngõ đi chung, là hai hộ giáp nhau, giữa các bên không
có tranh chấp về lối đi.
Năm 2009, ông Đình T1 chuyển nhượng thửa đất cho Trần Thị M,
được Ủy ban nhân dân huyện M cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho anh
Trần Văn C. Đối với đất của ông i Duy T2 đã được thừa kế cho anh Bùi Văn T
con trai của ông T2. Khi thấy bà M anh C xây tường bao, bịp kín phần ra
ngõ đi chung (lối đi ra ngõ đi chung gia đình ông T1 trước đây sử dụng) để
tiện chăn nuôi gia súc, gia cầm. Anh T đã xây cng tiến lên phía đường liên xã tại
vị trí giáp ranh với thửa đất của bà M và anh C. Năm 2023, giữa gia đình bà M
anh T xảy tranh chấp ngõ đi chung thì anh T đã chuyển cổng về vị trí ban đầu, v
trí mà thời điểm giữa ông T2 và ông T1 cùng sử dụng. Song bà M không nhất trí
yêu cầu anh T phải phá cổng hiện tại cũng như phá chuồng trại để ngõ đi chung
chạy hết chiều dài thửa đất của anh C, anh T, chạy thẳng ra bãi ma xóm Đ. Tuy
nhiên, theo tài liệu trong hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với các
thửa đất của ông Khà Văn D, bà Trần Thị M, ông Đình T1 (sau chuyển nhượng
cho anh Trần Văn C) và ông Bùi Duy T2 (sau anh Bùi Văn T được thừa kế) đang
sử dụng đều thể hiện lối đi chung được tính từ đường liên xã chạy đến vị trí thửa
6
đất (vị trí cổng nhà hiện nay) của anh Bùi Văn T, thửa đất của anh C vẫn có lối đi
ra ngõ đi chung chính phần ông T1 trước đây sử dụng nhưng anh C, bà M đã
xây bịt vào. Anh Trần Văn C nhận chuyển nhượng từ ông Đình T1 cho nên
anh C chỉ được sử dụng theo hiện trạng mà trước đây ông T1 đã quản lý, sử dụng
chung cùng với gia đình ông Bùi Duy T2. Lời khai của người làm chứng là bà Q
(vợ ông T1) khẳng định giữa gia đình bà và anh T là hai hộ liền kề, giáp nhau và
không có lối đi chung để đi ra bãi ma xóm Đ. Lời khai của Q phù hợp với hồ
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của anh Trần Văn C ông Bùi Duy
T2 (anh Bùi Văn T), trong trích lục bản đồ của thửa đất của ông T1 trước đây
không thể hiện lối đi ra bãi ma xóm Đ, Ủy ban nhân dân cũng khẳng định
không có lối đi chung bắt đầu từ đường liên kéo dài ra bãi ma xóm Đ. Do đó,
việc Tòa án cấp sơ thẩm bác đơn khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ.
Khi nộp đơn kháng cáo, bà M xuất trình 01 đơn của ông Vì Xuân Đ Chủ
tịch năm 2000 đã xác nhận cho xóm T được chia đất nhưng khi quy hoạch
phải để lối đi chung vào nghĩa trang. Tuy nhiên, tại bút lục 06 ông Đ ý kiến tại
buổi làm việc xác định ngõ đi chung như sau: ông làm chủ tịch xã đến năm 2004
mới nghỉ chế độ. Năm 2000, Ủy ban nhân dân xã đã tạo điều kiện cho xóm T xin
với để con ra chỗ khu bãi tham ma xóm Đ. Thấy nhu cầu cần thiết, Ủy
ban nhân dân xã đã mời trưởng xóm Đxã T để bàn bạc nhất trí cho xóm T làm
đất ở, thống nhất quy hoạch đường để vào bài ma xóm Đ. Ông có được xác nhận
cho bà M là có đường vào đến bãi ma Đồng U còn vị trí thì ông không rõ, vị trí
do hai xóm T và xóm Đ thống nhất.
Tại phiên tòa phúc thẩm, M không xuất trình thêm các chứng cứ nào
mới. Do đó, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bà Trần Thị M đại diện
theo ủy quyền của anh Trần Văn C. Ginguyên nội dung của Bản dân sự sơ thẩm
số 02/2025/DS-ST ngày 06/3/2025 của Tòa án nhân dân huyện M.
[3]. Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên anh C
phải nộp án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Không chấp nhận kháng cáo của Trần Thị M đại diện theo ủy quyền
của anh Trần Văn C. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2025/DS-ST ngày
06 tháng 3 năm 2025 của Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Hòa Bình.
7
2. Án phí dân s phúc thm: anh Trn Văn C phi nộp 300.000đ tiền án phí
dân s phúc thẩm, được đối tr vào s tin tm ng án phí Trn Th M
đại din theo y quyn ca anh C đã nộp theo biên lai thu s 0003708 ngày
21/3/2025 ti Chi cc thi hành án dân s huyn M, tnh Hòa Bình. Anh C đã nộp
đủ án phí.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án (06/6/2025)./.
Nơi nhận:
- TANDCC tại Hà Nội;
- VKSNDCC tại Hà Nội;
- VKSND tỉnh Hòa Bình;
- VKSND huyện M;
- TAND huyện M;
- Chi cục THADS h. M;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu: HSVA; tổ HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
(Đã ký)
Hoàng Ngọc Liễu
Tải về
Bản án số 06/2025/DS Bản án số 06/2025/DS

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 06/2025/DS Bản án số 06/2025/DS

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất