Bản án số 06/2024/LĐ-PT ngày 26/08/2024 của TAND tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp về quyền, lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 06/2024/LĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 06/2024/LĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 06/2024/LĐ-PT
Tên Bản án: | Bản án số 06/2024/LĐ-PT ngày 26/08/2024 của TAND tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp về quyền, lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về quyền, lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương... |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Sóc Trăng |
Số hiệu: | 06/2024/LĐ-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 26/08/2024 |
Lĩnh vực: | Lao động |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Nguyễn Văn N - Công ty M |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH SÓC TRĂNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 06/2024/LĐ-PT
Ngày: 26 - 08 - 2024
“V/v Tranh chấp quyền, lợi
ích liên quan đến tiền lương”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SÓC TRĂNG
- Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ toạ phiên toà: Ông Hồ Văn Phụng.
Các thẩm phán: Ông Nguyễn Hoàng Lâm.
Ông Phan Lê Vũ Huy Hoàng.
- Thư ký phiên toà: Ông Trần Thanh Huy – Thư ký Toà án nhân dân tỉnh
Sóc Trăng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng tham gia phiên tòa: Bà
Tăng Thị Thúy Hằng - Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 8 năm 2024 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 09/2024/TLPT-LĐ ngày 01 tháng 8 năm
2024, về việc “Tranh chấp quyền, lợi ích liên quan đến tiền lương”.
Do Bản án lao động sơ thẩm số: 03/2024/LĐ-ST ngày 13 tháng 6 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 08/2024/QĐ-PT ngày 07
tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
1. Ông Nguyễn Văn N, năm sinh: 1982; Địa chỉ: ấp C, xã T, huyện L, tỉnh
Sóc Trăng. (vắng mặt)
2. Ông Nguyễn Thanh P, năm sinh: 1989; Địa chỉ: Số H, đường P, Khóm G,
Phường H, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)
Người đại diện hợp pháp của ông Nguyễn Văn N và ông Nguyễn Thanh P:
Ông Nguyễn Ngọc Q, sinh năm 1978; Địa chỉ: Số A, ấp N, thị trấn Đ, huyện L,
tỉnh Sóc Trăng, là người đại diện theo uỷ quyền, theo văn bản uỷ quyền ngày
16/9/2023 và 12/9/2023. (có đơn xin xét xử vắng mặt đề ngày 25/8/2024)
- Bị đơn: Công ty Cổ phần M; Địa chỉ: Số H, đường P, phường H, thành phố
S, tỉnh Sóc Trăng.
Người đại diện hợp pháp: Ông Trần Ngọc H – Chức vụ: Chủ tịch Hội đồng
2
Quản trị Công ty Cổ phần M là người đại diện theo pháp luật. (vắng mặt)
Người đại diện theo ủy quyền của Công ty:
1. Ông Nguyễn Thanh H1, Chức vụ: Phó phụ trách phòng Tổ chức hành
chính.
2. Ông Đào Minh C, Chức vụ: Nhân viên phòng Tổ chức hành chính.
Cùng địa chỉ: Công ty Cổ phần M, Số H, đường P, phường H, thành phố S,
tỉnh Sóc Trăng, theo giấy ủy quyền ngày 22/8/2024. (có mặt)
Người kháng cáo: Bị đơn Công ty Cổ phần M.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện của các nguyên đơn cũng như trong quá trình giải
quyết vụ án người đại diện theo ủy quyền của các nguyên đơn là ông Nguyễn Ngọc
Q trình bày:
Ông N và ông P là người lao động của Công ty Cổ phần M. Ngày 30/9/2016
Công ty Cổ phần M (sau đây gọi tắt là Công ty) và Công đoàn cơ sở Công ty có ký
thỏa ước lao động tập thể. Theo Điều 5 của Thỏa ước lao động tập thể quy định
“Công ty áp dụng hình thức trả lương theo sản phẩm (đơn giá theo kế hoạch được
Đại hội đồng cổ đông thường niên hàng năm thông qua)”. Tiền lương người lao
động được đảm bảo chi trả đúng quy chế thanh toán tiền lương, tiền thưởng của
Công ty. Đơn giá tiền lương mỗi tấn sản phẩm của vụ 2017 – 2018 là 800.000
đồng.
Theo Điều 2 của Quy chế thanh toán tiền lương, tiền thưởng của Công ty ban
hành kèm theo Quyết định số 43/QĐ-HĐQT ngày 27/12/2017 quy định “Quỹ tiền
lương gắn liền với hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty nên thu nhập của
người lao động có thể thay đổi theo từng tháng hoặc kỳ sản xuất dựa trên kết quả
thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh được Tổng Giám đốc giao cho từng đơn vị
hoặc cá nhân” và theo các Hợp đồng lao động thì Công ty trả lương cho công nhân
theo sản phẩm. Từ đó tiền lương phụ thuộc vào sản lượng đường làm ra.
Vụ sản xuất năm 2016-2017, Công ty còn thừa quỹ lương 715.002.892 đồng.
Kết thúc vụ sản xuất năm 2017-2018 (từ ngày 01/7/2017 đến ngày 30/6/2018)
Công ty đạt sản lượng 45.538,45 tấn đường nhập kho và đơn giá tiền lương mỗi tấn
là 800.000 đồng/tấn nên quỹ tiền lương của vụ này là 36.430.760.000 đồng. Công
ty đã chi trả tiền lương 12 tháng cho người lao động là 24.520.252.317 đồng, chi
thưởng 3.005.918.800 đồng, nên Công ty còn thừa quỹ lương là 9.619.591.775
đồng (trong đó quỹ lương thừa vụ sản xuất 2016-2017 chuyển sang là 715.002.892
đồng, quỹ lương thừa vụ sản xuất 2017-2018 là 8.904.588.883 đồng) nhưng không
trả cho người lao động mà Hội đồng quản trị ban hành Nghị quyết số 05 ngày
04/01/2019 hoàn nhập số tiền này giảm lỗ cho vụ 2018-2019, sau đó là Nghị quyết
số 45 ngày 15/5/2019 đã bổ sung số tiền trên vào quỹ lương của vụ 2018-2019.
Theo đơn khởi kiện ngày 03/9/2019, nguyên đơn ông N và ông P yêu cầu
Công ty Cổ phần M trả tiền lương còn thừa của vụ sản xuất kinh doanh 2017 -
3
2018 cho ông N và ông P với tổng số tiền là 60.122.448 đồng, cụ thể:
- Trả tiền lương cho ông Nguyễn Văn N là 30.061.224 đồng;
- Trả tiền lương cho ông Nguyễn Thanh P là 30.061.224 đồng;
* Tại văn bản ngày 01/3/2022, bị đơn Công ty Cổ phần M trình bày:
Theo Khoản 2 Điều 21 của Nghị định 05/2015/NĐ-CP về tiền lương thì:
“Tiền lương trả cho người lao động được căn cứ theo tiền lương ghi trong hợp
đồng lao động, năng suất lao động, khối lượng và chất lượng công việc mà người
lao động đã thực hiện”.
Vụ 2017-2018 Công ty đã trả lương hàng tháng cho người lao động theo
đúng mức lương ghi trong Hợp đồng lao động và Hệ thống thang bảng lương đã
đăng ký với Phòng Lao động - Thương binh và xã hội thành phố S. Toàn bộ người
lao động được trả lương theo hình thức “lương thời gian”, theo đúng Hợp đồng lao
động của từng người và theo quy định tại Điểm a Mục 1 Điều 11 - Quy chế trả
lương (QĐ số 43, ngày 27/12/2017) về hình thức “lương thời gian”. Hàng tháng có
chấm công, tính số ngày công thực tế làm việc để làm cơ sở trả lương, không phải
là hình thức “sản phẩm” để làm cơ sở khiếu nại như yêu cầu Tòa án giải quyết của
ông N, ông P. Ngoài ra Công ty đã thưởng thêm cho các ông này tương đương 02
tháng tiền lương.
Theo quy định tại Điều 15, Điều lệ hiện hành của Công ty thì việc quyết định
quỹ tiền lương, đơn giá tiền lương thuộc thẩm quyền của HĐQT, không phải của
Đại hội cổ đông, vì vậy việc quyết định điều chỉnh quỹ tiền lương năm 2017-2018
của HĐQT công ty là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật và quy định
của nội bộ Công ty.
Việc xác định quỹ lương của doanh nghiệp phụ thuộc vào kết quả sản xuất
kinh doanh (SXKD) và được thể hiện ở Điều 2 của Quy chế trả lương (ban hành
theo QĐ số 43, ngày 27/12/2017): “Quỹ tiền lương gắn liền với hiệu quả SXKD
của Công ty, nên thu nhập của người lao động có thể thay đổi theo từng tháng
hoặc từng kỳ sản xuất dựa trên kết quả thực hiện nhiệm vụ SXKD”. Hiệu quả
SXKD không chỉ là số lượng sản phẩm sản xuất, mà quan trọng hơn là lợi nhuận
mang lại cho doanh nghiệp. Vì vậy, quỹ tiền lương được xác định căn cứ vào số
lượng sản phẩm sản xuất và lợi nhuận của Công ty, không phải chỉ căn cứ vào số
lượng sản phẩm làm ra như yêu cầu Tòa án giải quyết của ông N, ông P.
Năm 2017-2018 Công ty không bán hết sản lượng đường sản xuất được, mà
phải chuyển qua năm 2018-2019 là 17.358,432 tấn, ngoài ra có 6.000 tấn đường
Công ty đã bán trong năm 2017-2018 nhưng qua đầu năm 2018-2019 bị khách
hàng trả lại do không đạt yêu cầu về chất lượng (do lỗi của người lao động).
Sau khi kết thúc 6 tháng đầu năm của năm tài chính 2018-2019 (từ ngày
01/7/2018 đến ngày 31/12/2018), hiệu quả SXKD của Công ty rất thấp: Tổng số lỗ
là 14.739.094.987 đồng, trong đó có 6.000 tấn đường đã bán trong tháng 4 và
6/2018 (năm 2017-2018) qua tháng 7/2018 (năm 2018-2019) bị khách hàng trả lại
do không đạt yêu cầu về chất lượng, bị lỗ là: 11.797.631.102 đồng và hàng tồn kho
4
năm 2017-2018 chuyển qua là 16.535,05 tấn bị lỗ 16.153.149.139 đồng, tức là hậu
quả của năm 2017-2018 chuyển qua, mới xử lý trong 6 tháng đầu năm 2018-2019
đã lỗ 27.950.780.241 đồng (nếu bán hết sản phẩm tồn kho thì lỗ nhiều hơn). Nên
tại cuộc họp ngày 04/01/2019, HĐQT đã thống nhất hoàn nhập khoản tiền lương
còn lại theo kế hoạch của năm 2017-2018 nói trên để giảm lỗ (Nghị quyết số
05/NQ-HĐQT-2019).
Đến tháng 5/2019, khi gần kết thúc năm 2018-2019, do sản lượng đường sản
xuất và lợi nhuận trong năm đạt thấp, nếu thực hiện theo đơn giá tiền lương đã
được HĐQT phê duyệt (600.000đ/tấn đường) thì quỹ lương không đủ để chi cho
người lao động, nên HĐQT đã quyết định cho sử dụng quỹ tiền lương còn lại của
năm 2017-2018 (9.619.591.775 đồng) để bổ sung cho quỹ lương của năm 2018-
2019 (Nghị quyết số 45, ngày 15/5/2019. Nội dung này thay thế cho Nghị quyết số
05 ngày 04/01/2019). Vì vậy không có việc “gây thiệt hại cho người lao động” như
yêu cầu Tòa án giải quyết của ông N, ông P.
Vì năm 2017-2018 ĐHCĐ giao kế hoạch lợi nhuận là 8 tỷ đồng nhưng theo
Báo cáo tài chính lập ngày 20/8/2018 thì công ty chỉ đạt lợi nhuận là 5,426 tỷ
tương đương với 67,8% kế hoạch. Nên với lợi nhuận 8 tỷ thì quỹ tiền lương dự tính
của công ty là 36.430.760.000 đồng (số tiền dự tính nếu đạt được mức lợi nhuận
đưa ra) nhưng mục tiêu đề ra không hoàn thành được thì quỹ tiền lương sẽ phải
giảm tương ứng với biên độ lợi nhuận là 24.700.055.000 đồng mà số tiền thực chất
Công ty đã chi ra là 27.526.171.117 đồng.
Nhưng đến ngày 28/08/2019 Công ty TNHH K đã kiểm toán báo cáo tài
chính của Công ty Cổ phần M vụ 2018-2019 ( từ ngày 01/07/2018 đến ngày
30/06/2019). Có nội dung điều chỉnh hồi tố 6.000 tấn hàng bị trả lại về vụ 2017-
2018 cho phù hợp với Chuẩn mực kế toán Việt Nam và Chế độ kế toán thì năm
2017-2018 thực chất Công ty bị lỗ 564.000.000 đồng, không phải lãi 5,426 tỷ như
Báo cáo tài chính đã lập. Như vậy năm 2017-2018 tuy Công ty sản xuất được
45.538 tấn đường, nhưng không những không hoàn thành kế hoạch lợi nhuận mà
còn bị lỗ, mất vốn là 564 triệu đồng, mà mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp là
bảo toàn vốn và sinh lời.
Từ những lý do nói trên Công ty khẳng định: đã trả lương năm 2017-2018
cho ông N, ông P theo đúng quy định của pháp luật nên không có nghĩa vụ phải trả
thêm cho ông N, ông P như đơn yêu cầu. Do đó, đề nghị Toà án không chấp nhận
toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
* Tại phiên toà:
- Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn trình bày: Nguyên đơn ông
Nguyễn Văn N và ông Nguyễn Thanh P thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện, cụ
thể: yêu cầu Công ty Cổ phần M trả tiền lương còn thừa của vụ sản xuất kinh
doanh 2017 - 2018 cho ông N và ông P với số tiền như sau:
- Trả tiền lương cho ông Nguyễn Văn N là 16.154.625 đồng;
- Trả tiền lương cho ông Nguyễn Thanh P là 19.907.937 đồng;
5
Trước đây, tại bản án sơ thẩm số 06/2020/LĐ-ST ngày 11/9/2020 của Toà án
nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng tuyên xử buộc Công ty Cổ phần M
trả tiền lương còn thừa của vụ sản xuất kinh doanh 2017 - 2018 cho ông N và ông
P với số tiền cụ thể như sau:
- Trả tiền lương cho ông Nguyễn Văn N là 16.154.625 đồng;
- Trả tiền lương cho ông Nguyễn Thanh P là 19.907.937 đồng;
Sau khi bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật, ông N và ông P đã yêu cầu thi
hành án, theo đó, Công ty Cổ phần M đã thi hành được 02 lần với tổng số tiền là
8.329.000 đồng. Theo đó, ông N được nhận số tiền là 3.730.556 đồng, còn lại số
tiền 12.424.069 đồng chưa thi hành và ông P được nhận số tiền là 4.598.444 đồng,
còn lại số tiền 15.309.493 đồng chưa thi hành.
Do đó, ông N và ông P yêu cầu Công ty Cổ phần M phải thanh toán thêm
cho ông N số tiền 12.424.069 đồng và thanh toán thêm cho ông P số tiền là
15.309.493 đồng.
Tại Bản án lao động sơ thẩm số: 03/2024/LĐ-ST ngày 13 tháng 6 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng đã quyết định:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39, khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228, Khoản 1 Điều 244, Điều 271, Điều
273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Khoản 3 Điều 187 và Điều 188 Bộ luật Lao động năm
2019; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1/. Buộc Công ty Cổ phần M thanh toán quỹ tiền lương 8.904.588.883 đồng
còn thừa của vụ sản xuất 2017-2018 (từ ngày 01/7/2017 đến ngày 30/6/2018) cho:
- Ông Nguyễn Văn N số tiền 16.154.625 đồng. Do Công ty Cổ phần M đã
thanh toán ông N nhận số tiền là 3.730.556 đồng, nên còn phải thanh toán thêm số
tiền 12.424.069 đồng.
- Ông Nguyễn Thanh P số tiền 19.907.937 đồng. Do Công ty Cổ phần M đã
thanh toán ông P nhận số tiền là 4.598.444 đồng nên còn phải thanh toán thêm số
tiền 15.309.493 đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi
của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 468
Bộ luật Dân sự 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí sơ thẩm và thông báo quyền kháng
cáo theo luật định.
Ngày 10/7/2024, Công ty Cổ phần M kháng cáo Bản án sơ thẩm số 03/2024/LĐ-
ST ngày 13 tháng 6 năm 2024 nêu trên, yêu cầu Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét
6
hủy toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm theo Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của các nguyên đơn
có đơn xin xét xử vắng mặt, có ý kiến là đồng ý theo bản án sơ thẩm và đề nghị
Tòa án không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, bị đơn vẫn giữ nguyên nội dung
đơn kháng cáo.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát là trong quá
trình giải quyết vụ án tại giai đoạn phúc thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm thì Hội
đồng xét xử và những người tham gia tố tụng chấp hành pháp luật về tố tụng và đề
nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị đơn và áp dụng khoản 1
Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận, Hội đồng xét xử nhận định:
* Về thủ tục tố tụng:
[1] Tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của các nguyên đơn là ông Nguyễn
Văn N, ông Nguyễn Thanh P có đơn xin xét xử vắng mặt; đại diện theo pháp luật
của bị đơn vắng mặt nhưng có người đại diện theo ủy quyền tham gia phiên tòa;
việc vắng mặt của họ cũng không ảnh hưởng đến việc xét xử. Do đó, Hội đồng xét
xử căn cứ vào khoản 3 Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, tiến hành
xét xử vụ án.
[2] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo và phạm vi xét xử phúc thẩm: Xét
Đơn kháng cáo của bị đơn gửi đến Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng vào ngày
17/10/2024 là hợp lệ, đúng quy định về người kháng cáo, thời hạn kháng cáo, hình
thức, nội dung kháng cáo theo quy định của các điều 271, 272, 273 và 276 của Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[3] Về nội dung:
[3.1] Bị đơn Công ty Cổ phần M (nay viết tắt là Công ty) kháng cáo yêu cầu
Tòa án cấp phúc thẩm xem xét hủy toàn bộ bản án sơ thẩm, thì thấy rằng: Mối quan
hệ giữa các nguyên đơn và bị đơn là giữa người lao động và người sử dụng lao
động, được thể hiện tại các Hợp đồng lao động, đã được các bên ký kết xác lập phù
hợp theo quy định của pháp luật. Quá trình làm việc tại Công ty, các nguyên đơn
có yêu cầu phía Công ty phải thanh toán cho người lao động khoản quỹ tiền theo
Báo cáo tài chính vụ năm 2017-2018, nhưng Công ty không đồng ý nên xảy ra
tranh chấp. Vụ việc tranh chấp nêu trên đã được hòa giải viên lao động hòa giải lần
1 ngày 22/8/2019 và lần 2 ngày 27/8/2019 thì phía bị đơn không đến, nên không
hòa giải được và các nguyên đơn đã khởi kiện tại Tòa án và được Tòa án thụ lý,
giải quyết là đúng theo quy định của pháp luật.
[3.2] Xét thấy, việc chi trả tiền lương, tiền công cho người lao động được
căn cứ vào Bảng lương và Quy chế tiền lương của Công ty. Tổng Giám đốc Công
ty đã ban hành các Quyết định về việc chấm dứt hợp đồng lao động số 113E/QĐ-
7
TGĐ.2019 ngày 28/6/2019 đối với ông Nguyễn Văn N kể từ ngày 01/7/2019;
Quyết định số 113F/QĐ-TGĐ.2019 ngày 28/6/2019 đối với ông Nguyễn Thanh P
kể từ ngày 01/7/2019.
[3.3] Các bên đương sự đều thống nhất, xác định: Vụ sản xuất năm 2016-
2017, Công ty còn thừa quỹ lương 715.002.892 đồng. Vụ năm 2017-2018, Công ty
Đ sản lượng 45.538,45 tấn đường nhập kho và đơn giá tiền lương mỗi tấn là
800.000 đồng nên Q1 lương trích trong vụ này là 36.430.760.000 đồng (45.538,45
tấn x 800.000 đồng/tấn). Trong vụ 2017-2018, Công ty đã chi tiền lương 12 tháng
cho người lao động hết 24.520.252.317 đồng, chi thưởng 3.005.918.800 đồng nên
còn lại 9.619.591.775 đồng (trong đó quỹ lương 2016- 2017 chuyển sang là
715.002.892 đồng).
[3.4] Việc bị đơn cho rằng Hội đồng quản trị của Công ty đã ban hành Nghị
quyết số 45/NQ-HĐQT/2019 ngày 15/5/2019 sử dụng 9.619.591.775 đồng nêu trên
để bổ sung vào quỹ lương vụ 2018-2019 và đã được Công ty chi hết trong vụ 2018-
2019 là trái với Quy chế tiền lương cũng do chính Hội đồng quản trị ban hành, vì:
Quỹ tiền lương thực hiện theo từng vụ sản xuất của Công ty được hình thành từ sản
lượng đường nhập kho nhân (x) với đơn giá tiền lương. Nghị quyết số 45/NQ-
HĐQT.2019 ngày 15/5/2019 được ban hành khi gần kết thúc vụ 2018-2019, nhưng
lại điều chỉnh Quỹ tiền lương của vụ 2017-2018 đã kết thúc từ ngày 30/6/2018.
Theo Quy chế tiền lương thì Hội đồng quản trị chỉ sửa đổi, bổ sung các nội dung
chưa phù hợp và không có điều khoản nào cho phép sử dụng quỹ lương của vụ này
bổ sung cho quỹ lương của vụ khác. Tại Điều 25 Quy chế thanh toán tiền lương,
thưởng ban hành kèm theo Quyết định số 161/QĐ-TGĐ.2009 ngày 31/8/2009 của
Tổng Giám đốc Công ty (có hiệu lực từ tháng 10/2009 đến ngày 31/12/2017) thì
quỹ lương thừa cũng được thanh toán hết cho người lao động. Trường hợp, Quỹ
lương của vụ 2017-2018 thiếu (hoặc không thừa) thì trong vụ 2018-2019, Công ty
vẫn phải trả lương cho người lao động từ Quỹ tiền lương của vụ này theo hợp đồng
lao động đã ký; thang, bảng lương của Công ty và Quy chế tiền lương.
[4] Tại Điều 5 Thỏa ước lao động tập thể ngày 30/9/2016, phía Công ty và
đại diện tập thể người lao động đã xác định “Công ty áp dụng hình thức trả lương
theo sản phẩm (đơn giá theo kế hoạch được Đại hội đồng cổ đông thường niên
hàng năm thông qua). Tiền lương của người lao động được đảm bảo chi trả đúng
Quy chế thanh toán tiền lương, thưởng của công ty” và theo quy định về xử lý
thừa, thiếu quỹ lương tại khoản 3 Điều 10 của Quy chế tiền lương thì “Trường hợp
thừa: Tổng Giám đốc sẽ quyết định chi hết trong thời gian theo quy định đảm bảo
chi phí được trừ khi xác định thuế Thu nhập doanh nghiệp”.
[5] Theo khoản 1, khoản 2 Điều 4, khoản 1 Điều 5 Thông tư số 78/2014/TT-
BTC ngày 18/6/2014 (đã được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 96/2015/TT-BTC
ngày 22/6/2015) của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 218/2013/NĐ-
CP ngày 26/12/2013 của Chính phủ quy định và hướng dẫn thi hành Luật Thuế thu
nhập doanh nghiệp thì quỹ tiền lương không thuộc doanh thu để tính thu nhập chịu
thuế và không thuộc thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp.
8
[6] Như đã phân tích, việc các nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán quỹ
tiền lương còn thừa của vụ sản xuất 2017-2018 là có căn cứ. Tuy nhiên, trong số
tiền 9.619.591.775 đồng các nguyên đơn yêu cầu còn có 715.002.892 đồng quỹ
lương thừa của vụ sản xuất 2016-2017 chuyển qua. Tại phiên tòa sơ thẩm các
nguyên đơn cũng chỉ yêu cầu thanh toán tiền lương theo sản phẩm còn lại của vụ
2017-2018 mà Công ty chưa thanh toán, nên quỹ lương thừa của vụ này chỉ là
8.904.588.883 đồng (36.430.760.000 đồng – 27.526.171.117 đồng).
[7] Tòa án cấp sơ thẩm xác định số tiền mà các nguyên đơn được hưởng từ
Quỹ tiền lương còn thừa của vụ 2017-2018 nêu trên là công bằng và phù hợp theo
quy định của pháp luật, cụ thể như sau:
- Ông Nguyễn Văn N số tiền 16.154.625 đồng. Do Công ty Cổ phần M đã
thanh toán ông N nhận số tiền là 3.730.556 đồng, nên còn phải thanh toán thêm số
tiền 12.424.069 đồng.
- Ông Nguyễn Thanh P số tiền 19.907.937 đồng. Do Công ty Cổ phần M đã
thanh toán ông P nhận số tiền là 4.598.444 đồng nên còn phải thanh toán thêm số
tiền 15.309.493 đồng.
[8] Từ những nhận định nêu trên, việc Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên xử buộc
bị đơn thanh toán quỹ tiền lương còn thừa của vụ sản xuất 2017-2018, đối với số
tiền của từng nguyên đơn như đã nêu trên là phù hợp theo quy định của pháp luật.
Do đó, yêu cầu kháng cáo của bị đơn là không có cơ sở chấp nhận.
[9] Đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, về việc không chấp nhận
kháng cáo của bị đơn là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[10] Do kháng cáo không được chấp nhận, nên người kháng cáo phải chịu
300.000 đồng án phí lao động phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308, khoản 1 Điều 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015; khoản 1 Điều 29 của Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày
30/12/2016 của của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn Công ty Cổ phần M.
Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 03/2024/LĐ-ST ngày 13/6/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng, đã tuyên án như sau:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39, điểm b, điểm đ khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, khoản 1 Điều
244, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Khoản 3 Điều 187 và Điều 188
của Bộ luật lao động năm 2019; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/
UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức
thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
9
Tuyên xử:
1. Buộc Công ty Cổ phần M thanh toán quỹ tiền lương 8.904.588.883 đồng
còn thừa của vụ sản xuất 2017-2018 (từ ngày 01/7/2017 đến ngày 30/6/2018) cho:
1.1. Ông Nguyễn Văn N số tiền 16.154.625 đồng. Do Công ty Cổ phần M đã
thanh toán ông N nhận số tiền là 3.730.556 đồng, nên còn phải thanh toán thêm số
tiền 12.424.069 đồng.
1.2. Ông Nguyễn Thanh P số tiền 19.907.937 đồng. Do Công ty Cổ phần M
đã thanh toán ông P nhận số tiền là 4.598.444 đồng nên còn phải thanh toán thêm
số tiền 15.309.493 đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi
của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 468
Bộ luật Dân sự 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Công ty Cổ phần M phải chịu là 1.081.877 đồng.
Công ty Cổ phần M được hoàn trả lại số tiền 1.081.877 đồng theo biên lai
thu số 0001790 ngày 09/02/2021 và số tiền 300.000 đồng theo biên lai thu số
006482 ngày 04/02/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sóc Trăng.
3. Về án phí phúc thẩm: Bị đơn Công ty cổ phần M phải chịu số tiền 300.000
đồng. Khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà bị đơn đã nộp theo Biên lai thu số
0001922 ngày 12/7/2024 của Chi cục THADS thành phố S; như vậy bị đơn Công
ty cổ phần M đã nộp xong án phí phúc thẩm.
4. Bản án này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Các nguyên đơn có quyền yêu cầu thi hành ngay khoản tiền mà bị đơn Công
ty cổ phần M có nghĩa vụ thanh toán cho nguyên đơn theo quy định tại điểm a
khoản 2 Điều 482 Bộ Luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 2 Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung).
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung), thì người được thi hành án dân sự, người phải
thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự
nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7,
7a và 9 Luật Thi hành án dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung); Thời hiệu thi hành án
được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự (đã được sửa
đổi, bổ sung).
Nơi nhận:
- Các đương sự;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
10
- VKSND tỉnh Sóc Trăng;
- TAND thành phố Sóc Trăng;
- VKSND thành phố Sóc Trăng;
- Chi cục THADS thành phố Sóc Trăng;
- Lưu: HSVA - VP.
Hồ Văn Phụng
Tải về
Bản án số 06/2024/LĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 06/2024/LĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 16/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 16/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 30/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 21/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 16/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 16/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 16/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 16/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 14/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 14/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 13/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 09/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 07/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 07/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 01/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 31/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 31/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 30/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm