Bản án số 02/2024/LĐ-PT ngày 26/09/2024 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp về quyền, lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 02/2024/LĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 02/2024/LĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 02/2024/LĐ-PT
Tên Bản án: | Bản án số 02/2024/LĐ-PT ngày 26/09/2024 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp về quyền, lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về quyền, lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương... |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
Số hiệu: | 02/2024/LĐ-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 26/09/2024 |
Lĩnh vực: | Lao động |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | 1. Căn cứ vào khoản 3, khoản 4 Điều 284, điểm c khoản 1 Điều 289 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần yêu cầu thanh toán tiền lương mà nguyên đơn ông Aliev G đã làm thêm giờ trong 52 ngày nghỉ lễ, Tết từ năm 2016 đến năm 2021 và phần lãi suất do chậm trả lương. 2. Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, Không chấp nhận kháng cáo của bà Võ Thị L và ông Lê Đức N - là người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn ông Aliev G; giữ nguyên Bản án lao động sơ thẩm số 01/2023/LĐ-ST ngày 29/9/2023 của Toà án nhân dân tỉnh Khánh Hoà. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 02/2024/LĐ-PT
Ngày: 26/9/2024.
V/v tranh chấp tiền lương, tiền
trợ cấp thôi việc do chấm dứt
hợp đồng lao động.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
bà Trần Thị Kim Liên
Các Thẩm phán:
ông Trương Công Thi
ông Trần Đức Kiên
- Thư ký phiên tòa: ông Phạm Minh Hoàng, Thư ký Tòa án nhân dân cấp
cao tại Đà Nẵng
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng: bà Trần Thị
Thắng - Kiểm sát viên tham gia phiên toà.
Ngày 26 tháng 9 năm 2024, tại điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân cấp
cao tại Đà Nẵng và điểm cầu thành phần trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Khánh
Hoà. Toà án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng mở phiên toà trực tuyến xét xử phúc
thẩm công khai vụ án lao động thụ lý số 01/2024/TLPT-LĐ ngày 16/5/2024 về
“Tranh chấp tiền lương, tiền trợ cấp thôi việc do chấm dứt hợp đồng lao động”.
Do Bản án lao động sơ thẩm số 01/2023/LĐ-ST ngày 29/9/2023 của Tòa án
nhân dân tỉnh Khánh Hoà bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1880/2024/QĐ-PT ngày 09 tháng 9 năm
2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: ông Aliev G - sinh năm 1987
Địa chỉ: G mah, A sok, D, No 14 d D, huyện M, thành phố A, T; địa chỉ liên lạc:
căn hộ S.OT04 Tòa Central 2 Vinhomes C, số G đường Đ, phường B, quận B,
Thành phố Hồ Chí Minh. Vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: bà Võ Thị L và ông Lê Đức N;
cùng địa chỉ: căn hộ S Tòa P, Vinhomes C, số G đường Đ, phường B, quận B,
Thành phố Hồ Chí Minh (văn bản uỷ quyền ngày 27/5/2022). Bà L có mặt, ông
N vắng mặt.
2. Bị đơn: Công ty TNHH L2;
Địa chỉ: ô A, 2, 3, 4, 5 tầng 12, Tòa VCN Tower, số B đường T, khu đô thị V,
2
phường P, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa.
Người đại diện theo pháp luật: ông Abdullah C; chức danh: Tổng Giám đốc
Công ty TNHH L2. Vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền: bà Hoàng Thị Phong T - Chủ tịch Hội đồng thành
viên và bà Nguyễn Thị Kim L1 - Kế toán trưởng của Công ty TNHH L2. Bà T
vắng mặt, bà L1 có mặt.
3. Người kháng cáo: bà Võ Thị L và ông Lê Đức N - là người đại diện theo uỷ
quyền của nguyên đơn ông Aliev G.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Tại đơn khởi kiện của nguyên đơn ông Aliev G, bản tự khai, biên bản hòa giải
và tại phiên tòa sơ thẩm người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình
bày:
Ông Aliev G bắt đầu làm việc tại Công ty P từ tháng 4/2010. Từ năm 2010 đến
năm 2015, ông Aliev G làm việc ở Thái Lan tại Công ty có tên Pegas Select T1.
Đến tháng 6/2016, ông Aliev G chuyển đến Việt Nam và làm việc tại Công ty
TNHH L2 với chức danh chuyên môn là Trưởng bộ phận đặt phòng. Trong quá
trình làm việc tại Công ty từ tháng 6/2016 cho đến hết tháng 11/2021, ông Aliev
G và Công ty đã ký kết 03 hợp đồng lao động liên tiếp, gồm:
+ Hợp đồng lao động (không số) 2016/HĐLĐ NN-PEGASTRAVEL, thời hạn
từ 01/10/2016 - 24/11/2017 và Quyết định số 40/2017/QĐTL ngày 01/9/2017
(gọi chung là Hợp đồng lao động 2016 - 2017),
+ Hợp đồng lao động số 70/2017/HĐLĐ NN-PEGASTRAVEL, thời hạn từ
01/12/2017 - 30/11/2019 và Phụ lục Hợp đồng lao động số 02/PL-
70/2017/HĐLĐ NN-PEGASTRAVEL ngày 30/12/2017 (gọi chung là Hợp đồng
lao động số 70).
+ Hợp đồng lao động số 48/2019/HĐLĐ NN-PEGASTRAVEL, thời hạn từ
01/12/2019 - 30/11/2021 và Quyết định số 27/2019/QĐML ngày 01/12/2019
(gọi chung là Hợp đồng lao động số 48).
Mặc dù, tổng thu nhập của ông Aliev G bao gồm lương phụ cấp và khoản bổ
sung khác theo hiệu quả theo quy định trong 03 Hợp đồng lao động là
32.650.000đồng mỗi tháng. Trên thực tế, mức lương mà ông Aliev G theo Hợp
đồng lao động 2016 - 2017, Hợp đồng lao động số 70 lần lượt là 2.500USD,
2.900USD. Đến ngày 12/12/2019, thông qua email (thư điện tử) điều chỉnh
lương ngày 12/12/2019 của ông Abdullah C - Tổng Giám đốc của Công ty đồng
thời là Phó Chủ tịch - Châu Á T gửi ông Ahmet O - Kế toán/Tài chính của Công
ty chuyển tiếp từ ông Ahmet O đến nguyên đơn ngày 13/12/2019, tính từ ngày
01/01/2020, mức lương của ông Aliev G trong thời hạn Hợp đồng lao động số
48 là 3.250USD.
3
Sau khi cắt giảm 50% lương từ tháng 4/2020 đến tháng 11/2021, ông Aliev G
nhận tiền lương hàng tháng bằng 50% của 3.250USD. Cụ thể: tháng 4, 5, 6/2020
ông G nhận 50% lương bằng 2 cách thức là: 16.000.000đồng thông qua tài
khoản ngân hàng và một khoản tiền mặt bằng phiếu lương hàng tháng tiền USD.
Từ tháng 7/2020 đến tháng 11/2021, ông G nhận được khoảng 50% của
3.250USD hoàn toàn bằng tiền mặt thông qua các phiếu lương. Tuy nhiên, sau
khi cắt giảm lương, ông G chỉ nhận được 16.000.000đồng mỗi tháng do Công ty
C1 tiền lương tháng 4, 5, 6/2020. Từ tháng 7/2020 đến tháng 11/2021, ông G
không nhận bất cứ khoản tiền nào được chuyển từ Công ty vào tài khoản ngân
hàng của ông G. Như vậy, nếu xét ở góc độ ghi nhận mức lương
32.650.000đồng và thanh toán bằng hình thức chuyển khoản như Công ty trình
bày thì có nghĩa Công ty còn nợ tiền lương của ông G từ tháng 7/2020 đến tháng
11/2021.
Ngày 20/3/2020, Công ty (đại diện bởi ông Abdullah C) gửi email thông báo
rằng những người giữ chức vụ quản lý sẽ bị cắt giảm 50% lương. Trong quá
trình trao đổi để sửa đổi hợp đồng lao động, các bên không đạt được thỏa thuận
nên không có bất kỳ phụ lục hợp đồng hay thỏa thuận bằng văn bản nào được ký
kết. Tuy nhiên, Công ty đã tự ý cắt giảm 50% lương của ông Aliev G từ tháng
4/2020. Do đó, không thể xem email này là thỏa thuận của các bên về việc cắt
giảm lương như một phụ lục hợp đồng lao động theo khoản 2 Điều 33 Bộ luật
Lao động năm 2019. Mặt khác, tại email ngày 20/3/2020, Công ty đã nêu rõ thời
hạn cắt giảm 50% lương từ ngày 23/3/2020 đến ngày 30/4/2020. Sau ngày
30/4/2020, Công ty không có bất kỳ thông báo nào khác về việc cắt giảm lương,
nhưng thực tế Công ty vẫn tiếp tục cắt giảm 50% lương của ông Aliev G cho
đến khi hết hạn hợp đồng lao động số 48.
Ông Aliev G đã nhiều lần trao đổi với ông Abdullah C về việc không đồng ý cắt
giảm 50% lương nhưng không thể thống nhất thỏa thuận. Từ ngày 15/11/2021
đến ngày 17/11/2021, ông Aliev G và ông Abdullah C liên tục trao đổi qua
email qua lại về việc cắt giảm 50% lương nhưng vẫn không tìm ra được giải
pháp thỏa đáng. Mặc dù ông Aliev G đang cố gắng trao đổi, tìm kiếm giải pháp
và thể hiện mong muốn được tiếp tục làm việc tại Công ty, thì ngày 19/11/2021
(trước thời điểm hết hạn hợp đồng lao động), ông Abdullah C lại gửi email ông
Ahmet O để yêu cầu tính tổng thời gian làm việc và các khoản nợ của Công ty
đối với ông Aliev G như là muốn chấm dứt hợp đồng. Sau những ngày trao đổi
không có kết quả với ông Abdullah C, ngày 28/11/2021 ông Aliev G đã gửi
email trực tiếp đến ông R - Chủ tịch của Công ty mẹ để trình bày về những khó
khăn đang gặp phải tại Việt Nam và những việc không đạt được với ông
Abdullah C để tìm kiếm sự hỗ trợ nhưng không nhận được hồi âm.
Ngày 30/11/2021 (ngày hết hạn Hợp đồng lao động số 48), vì không thể thỏa
thuận được nên ông G viết email với tiêu đề “Vietnam Contract is END" tiếng
Việt nghĩa là “Hợp đồng Việt Nam kết thúc” gửi đến bà H - bộ phận nhân sự
4
của Công ty, đồng thời gửi đến ông Abdullah C và ông Ahmet O thông báo về
việc không tiếp tục gia hạn hợp đồng lao động và yêu cầu Công ty tính toán lại
các quyền lợi của ông G khi chấm dứt hợp đồng như tiền làm thêm giờ, tiền
thanh toán cho những ngày nghỉ hằng năm chưa sử dụng tiền trợ cấp thôi việc
nhưng không được giải quyết thỏa đáng.
Vì vậy, ông Aliev G gửi đơn khởi kiện đến Tòa án yêu cầu Công ty TNHH L2
thanh toán tiền lương, phát sinh trong quá trình thực hiện Hợp đồng lao động số
48. Cụ thể:
1. Trả tiền lương chưa được thanh toán đủ từ tháng 4/2020 đến tháng 11/2021
(50% tiền lương còn thiếu với mức lương 3.250USD) tổng cộng là
669.995.590đồng, gồm: 592.000.000đồng; 3.273USD, tương đương
77.995.590đồng (tỷ giá bán ra của M ngày 22/11/2022 : 1USD = 23.830VND)
và trả khoản tiền lãi tương ứng trên số tiền chậm thanh toán cho đến khi hoàn
thành nghĩa vụ thanh toán tiền lương tạm tính tương đương 17.217.336đồng;
2. Thanh toán tiền lương cho 40 ngày nghỉ hằng năm chưa nghỉ năm 2020, năm
2021 tương đương 5.000USD, tương đương 119.150.000đồng (tỷ giá bán ra của
M ngày 22/11/2022: 1USD = 23.830VND);
3. Thanh toán tiền lương làm thêm giờ cho 52 ngày nghỉ lễ, Tết đã làm việc từ
năm 2016 đến năm 2021 tương đương 17.826USD, tương đương
424.793.580đồng (tỷ giá bán ra của M ngày 22/11/2022: 1USD = 23.830VND);
4. Thanh toán số tiền trợ cấp thôi việc còn lại tương đương 165.280.625đồng.
Tổng số tiền Công ty TNHH L2 phải thanh toán cho ông Aliev G là
1.396.437.131đồng.
* Tại các bản trình bày ý kiến, đơn giải trình bổ sung của người đại diện theo ủy
quyền của Công ty TNHH L2 - bà Hoàng Thị Phong T và bà Nguyễn Thị Kim
L1 trình bày:
Các Hợp đồng lao động Công ty TNHH L2 đã ký kết với ông Aliev G1 từ năm
2016 đến 2019 như sau:
+ Hợp đồng lao động 2016/HĐLĐ NN-PEGASTRAVEL thời hạn từ
01/10/2016 đến 24/11/2017.
+ Hợp đồng lao động số 70/2017/HĐLĐ NN-PEGASTRAVEL thời hạn từ
01/12/2017 đến 30/11/2019.
+ Hợp đồng lao động số 48/2019/HĐLĐ NN-PEGASTRAVEL thời hạn từ
01/12/2019 đến 30/11/2021 (viết tắt là Hợp đồng lao động số 48).
1. Về khoản giảm lương 50% của các trưởng bộ phận theo thư điện tử ngày
20/3/2020 của Tổng Giám đốc Công ty: ông Aliev G yêu cầu Công ty phải thanh
toán 50% phần lương còn lại cho ông trong thời gian từ tháng 4/2020 đến tháng
11/2021 với số tiền là 592.000.000đồng và 3.273USD (tương đương
5
77.995.590đồng). Lý do nguyên đơn đưa ra là Công ty không hề trao đổi với
người lao động và cá nhân ông không đồng ý. Công ty cho rằng điều này không
đúng, vì: ngày 20/3/2020, Tổng Giám đốc Công ty gửi email cho ông Aliev G
và phòng nhân sự với nội dung: xin vui lòng lập kế hoạch về tiền lương trong
khoảng thời gian từ 23/3/2020 trở đi cho nhân viên và T2 bộ phận. Như vậy,
Tổng Giám đốc Công ty đã báo trước 03 ngày cho nhân viên theo Điều 33 của
Bộ luật Lao động 2019. Hơn nữa, trong giai đoạn này Công ty không hoạt động
kinh doanh, tuy nhiên Công ty đã thanh toán đầy đủ tiền lương hay hỗ trợ cho
ông Aliev G theo mức lương mới ở thông báo này. Ông Aliev G đã nhận đầy đủ
và hoàn toàn không có ý kiến gì cũng như không có bằng chứng nào về việc ông
phản đối chính sách hỗ trợ lương như trên.
Từ ngày 15/11/2021 đến ngày 17/11/2021, ông G trao đổi về vấn đề tiền lương
với Tổng Giám đốc Công ty để tiếp tục cho Hợp đồng lao động mới khi Hợp
đồng lao động số 48 hết hạn. Việc trao đổi này là cho Hợp đồng mới, chứ không
phải phản đối về việc mức lương hỗ trợ theo thư điện tử ngày 20/3/2020.
Công ty cũng đã đính kèm những văn bản của Chính phủ về quy định phòng
chống dịch bệnh Covid-19 từ năm 2020 đến năm 2021. Với sự kiện bất khả
kháng này, Công ty phải tạm ngừng đưa khách quốc tế đến Việt Nam, vì thế
Công ty không phát sinh hoạt động kinh doanh trong giai đoạn này.
Công ty hỗ trợ lương cũng như xe ôtô 4 chỗ, tiền xăng xe, ông G được dùng thẻ
xăng dầu trong khi ông không phải làm việc ở giai đoạn dịch bệnh được xem là
chính sách hỗ trợ rất tối ưu dành cho ông. Số tiền xăng xe ông G đã sử dụng
trong thời gian không làm việc từ ngày 24/4/2020 đến 30/11/2021 là:
27.201.830đồng.
2. Về khoản tiền lương nghỉ phép hàng năm theo quy định tại khoản 1 Điều 114
của Bộ luật Lao động 2012 và khoản 3 Điều 113 của Bộ luật Lao động 2019:
ông Aliev G cho rằng, theo quy định pháp luật và chính sách của Công ty, ông
có 20 ngày nghỉ phép và còn 40 ngày nghỉ chưa sử dụng, tương ứng với số tiền
là 119.150.000đồng. Lý do ông đưa ra là ông nhận được thư điện tử của ông A1
quy định cho Trưởng phòng người Thổ Nhĩ Kỳ và Công ty K bố trí cho ông thời
gian nghỉ phép theo Nội quy lao động. Điều này không đúng, bởi vì:
Ông G đang làm việc tại Việt Nam theo các Hợp đồng lao động, do đó, ngày
nghỉ phép của ông sẽ được căn cứ theo quy định của Bộ luật Lao động 2012 và
Bộ luật Lao động 2019 của Việt Nam.
Năm 2020 và năm 2021, Công ty phải ngừng hoạt động kinh doanh vì đại dịch
Covid-19, ông không phải làm việc. Công ty không nhận được bất kỳ đơn xin
nghỉ phép của ông. Như vậy, việc ông cho rằng Công ty không thể bố trí được
cho ông nghỉ phép năm là hoàn toàn không đúng.
Căn cứ 03 Hợp đồng lao động: Hợp đồng hiệu lực từ ngày 01/10/2016 -
24/11/2017; Hợp đồng số 70/2017, hiệu lực 01/12/2017 - 30/11/2019; Hợp đồng
6
số 48/2019, hiệu lực từ 01/12/2019 đến 30/11/2021; theo Điều 3: Quyền lợi và
nghĩa vụ của người lao động: Chế độ nghỉ ngơi: “Nghỉ theo quy định của Bộ
luật Lao động và Nội quy lao động của Công ty”.
Như vậy, căn cứ vào các quy định trên, ông Aliev G được nghỉ hằng năm cụ thể
như sau: khi làm việc đủ 12 tháng cho Công ty; 02 Hợp đồng lao động có hiệu
lực từ 01/10/2016 đến 30/11/2019: ông Aliev G có 38 ngày phép.
Đối với Hợp đồng lao động số 48 (từ 01/12/2019 đến 30/11/2021): ông chỉ làm
việc từ 01/12/2019 đến 31/3/2020 (04 tháng) vì đại dịch Covid-19. Do đó, căn
cứ điểm a khoản 1 Điều 111 của Bộ luật Lao động 2012: ông có 04 ngày phép.
Tổng số ngày phép của ông theo 03 Hợp đồng lao động trên là 42 ngày.
Tuy nhiên, trong khoảng thời gian này, ông G đã nghỉ 85 ngày phép, do đó, ông
đã nghỉ vượt số ngày phép theo quy định là 43 ngày. Công ty cũng đã hỗ trợ,
không trừ tiền lương cho những ngày nghỉ vượt quy định của ông.
Ngoài ra, từ ngày 02/7/2020, Công ty đã hoàn trả văn phòng tại địa chỉ: LKB C,
khu A, phường V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa cho chủ nhà do hợp đồng thuê
văn phòng đã hết hạn. Ngày 15/6/2020, Công ty đã nhận bàn giao và tiến hành
xây dựng, lắp đặt văn phòng mới tại địa chỉ: tầng A, Tòa nhà V, số B đường T,
khu đô thị V, phường P, TP .. Trong khoảng thời gian xây dựng văn phòng mới
này, tất cả nhân viên đều được nghỉ ở nhà (45 ngày).
3. Ông Aliev G cho rằng: Công ty chưa thanh toán tiền lương làm thêm giờ cho
52 ngày nghỉ lễ, Tết từ năm 2016 đến năm 2021. Số ngày nghỉ này là theo thư
điện tử của bà H - Phòng nhân sự gửi cho ông. Công ty nhận thấy điều này là
không phù hợp, bởi vì: theo quy định của phòng nhân sự Công ty về việc quản
lý ngày công làm việc, ngày nghỉ lễ, Tết cho nhân viên: ngày 04/9/2017, Trưởng
phòng nhân sự Công ty đã gửi thư điện tử (email) chính thức cho tất cả nhân
viên (trong đó có cả ông Aliev G) và ông cũng được thông báo rằng, khi đến văn
phòng làm việc, hay khi về đều phải sử dụng máy vân tay (máy chấm công), đặc
biệt là trong những ngày nghỉ lễ, Tết. Vì trong thời gian nghỉ lễ, Tết, nhân viên
văn phòng được nghỉ, nếu không có thông tin trên máy kiểm tra vân tay phòng
nhân sự không thể tính được ngày công làm việc cho nhân viên nào đi làm trong
thời gian này.
Tuy nhiên, phòng nhân sự của Công ty không nhận bất kỳ thông tin gì về việc
ông đã đến Công ty làm việc trong những ngày nghỉ này. Ông cũng không có
bằng chứng, không có dấu vân tay từ máy chấm công gửi cho phòng nhân sự
liên quan đến việc ông đã làm việc tại văn phòng Công ty trong thời gian trên.
(Công ty xin đính kèm dữ liệu được kết xuất từ máy chấm vân tay của những
tháng có ngày nghỉ lễ, Tết và bảng chấm công của phòng đặt phòng). Chính vì
vậy, việc ông Aliev G yêu cầu như trên là hoàn toàn bất hợp lý.
4. Ông Aliev G yêu cầu Công ty TNHH L2 thanh toán số tiền trợ cấp thôi việc
còn lại khi hợp đồng lao động chấm dứt tương đương 165.280.625đồng. Điều
7
này hoàn toàn không đúng, bởi vì: theo khoản 3 Điều 46 của Bộ luật Lao động
2019 quy định về trợ cấp thôi việc: tiền lương để tính trợ cấp thôi việc là tiền
lương bình quân của 06 tháng liền kề theo hợp đồng lao động trước khi người
lao động thôi việc.”
Căn cứ Hợp đồng lao động số 48/2019/HĐLĐ và Quyết định số 27/2019/QĐML
ngày 01/12/2019 về việc “Áp dụng mức lương”, trợ cấp thôi việc cho ông Aliev
G được tính dựa trên mức lương bình quân 6 tháng liền kề, thời gian ông G làm
việc tại Công ty là 5,5 năm. Công ty đã thanh toán cho ông A2 Gamzat tiền trợ
cấp thôi việc 47.700.000đồng.
Thời hạn chấm dứt Hợp đồng lao động của ông Aliev G là 30/11/2021, sau khi
ông gửi thư điện tử thông báo thôi việc (không có văn bản được ký tên), phòng
nhân sự Công ty đã liên hệ với ông Aliev G để bàn giao công việc có liên quan.
Tuy nhiên, ông đã không đến Công ty trong thời điểm này. Công ty không nhận
được Biên bản bàn giao công việc của ông theo quy định của Nội quy lao động.
Việc chấm dứt Hợp đồng lao động của ông là không phù hợp với Nội quy lao
động Công ty nêu trên. Tuy nhiên, Công ty cũng đã thanh toán số tiền trợ cấp
thôi việc cho ông đầy đủ.
Tại Bản án lao động sơ thẩm số 01/2023/DS-ST ngày 29/9/2023 và tại các
Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm số 01/2023/QĐ-SCBSBA ngày
16/10/2023, số 02/2023/QĐ-SCBSBA ngày 25/10/2023 của Tòa án nhân dân
tỉnh Khánh Hoà đã quyết định:
Căn cứ khoản 5 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 37, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều
147, khoản 2 Điều 227, Điều 266, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân
sự năm 2015; Điều 13, Điều 14, Điều 46, Điều 33, Điều 46, Điều 90, Điều 95,
khoản 4 Điều 97, Điều 113 của Bộ luật Lao động năm 2019; điểm a khoản 1
Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Aliev G về yêu
cầu bị đơn Công ty TNHH L2 phải thanh toán tiền lương còn thiếu cho nguyên
đơn theo Hợp đồng lao động số 48/2019/HĐLĐ ngày 01/12/2019; thanh toán
tiền lương 04 ngày nghỉ năm 2020 (nguyên đơn chưa nghỉ) và thanh toán tiền
trợ cấp thôi việc cho nguyên đơn.
2. Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn ông Aliev G về yêu cầu bị đơn
Công ty TNHH L2 phải thanh toán cho nguyên đơn 50% tiền lương còn thiếu
với mức lương 3.250USD/tháng từ tháng 4 năm 2020 đến tháng 11 năm 2021;
tiền lương nguyên đơn đã làm thêm giờ 52 ngày nghỉ lễ, Tết từ năm 2016 đến
năm 2021.
3. Buộc Công ty TNHH L2 phải thanh toán cho nguyên đơn ông Aliev G tiền
lương còn thiếu theo Hợp đồng lao động số 48 là: 180.000.000đồng và lãi suất
8
chậm trả lương là: 21.731.671đồng; thanh toán tiền lương 04 ngày nghỉ phép
năm 2020 (chưa nghỉ) là 5.023.000đồng; thanh toán tiền trợ cấp thôi việc là:
31.350.000đồng. Tổng cộng là: 238.104.671đồng; bị đơn đã thanh toán cho
nguyên đơn 47.700.000đồng, nên bị đơn còn phải tiếp tục thanh toán cho
nguyên đơn là: 190.404.671đồng (một trăm chín mươi triệu, bốn trăm lẻ bốn
nghìn, sáu trăm bảy mươi mốt đồng).
Ngoài các quyết định nêu trên, án sơ thẩm còn có các quyết định sửa chữa, bổ
sung bản án sơ thẩm về án phí, trách nhiệm thi hành án và thông báo quyền
kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 11/10/2023, người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn là bà Võ Thị L
và ông Lê Đức N kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Đề nghị Toà án cấp phúc
thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm: người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn là bà Võ
Thị L rút một phần yêu cầu khởi kiện về yêu cầu thanh toán tiền lương mà
nguyên đơn đã làm thêm giờ trong 52 ngày nghỉ lễ, Tết từ năm 2016 đến năm
2021 và rút nội dung kháng cáo về lãi suất do chậm trả lương. Bà L kháng cáo
một phần bản án sơ thẩm, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận các yêu cầu còn
lại của nguyên đơn.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng cho rằng, về phần thủ tục
tố tụng ở giai đoạn xét xử phúc thẩm đảm bảo đúng quy định của pháp luật.
Nguyên đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Tại phiên toà phúc thẩm,
nguyên đơn đã tự nguyện rút phần yêu cầu khởi kiện về yêu cầu thanh toán tiền
lương mà nguyên đơn đã làm thêm giờ trong 52 ngày nghỉ lễ, Tết từ năm 2016
đến năm 2021 và rút nội dung kháng cáo về lãi suất do chậm trả lương. Việc
nguyên đơn rút phần yêu cầu khởi kiện nêu trên coi như là rút yêu cầu kháng
cáo. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm về hai nội dung
trên. Đối với các nội dung kháng cáo còn lại, đề nghị Hội đồng xét xử không
chấp nhận kháng cáo của người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn là bà Võ
Thị L và ông Lê Đức N; giữ nguyên Bản án lao động sơ thẩm số 01/2023/LĐ-
ST ngày 29/9/2023 của Toà án nhân dân tỉnh Khánh Hoà.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên
toà; căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên toà; Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Sau khi xét xử sơ thẩm, người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn là bà
Võ Thị L và ông Lê Đức N kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Tại phiên toà
phúc thẩm, bà L tự nguyện rút một phần yêu cầu khởi kiện về yêu cầu thanh
toán tiền lương mà nguyên đơn đã làm thêm giờ trong 52 ngày nghỉ lễ, Tết từ
năm 2016 đến năm 2021 và rút nội dung kháng cáo về lãi suất do chậm trả
lương. Xét thấy, việc bà L rút một phần yêu cầu khởi kiện nêu trên tại phiên toà
phúc thẩm coi như là rút yêu cầu kháng cáo nên Hội đồng xét xử căn cứ vào
9
khoản 3, khoản 4 Điều 284 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, quyết định đình chỉ xét
xử phúc thẩm đối với hai nội dung này.
[2] Xét kháng cáo của bà Võ Thị L và ông Lê Đức N - là người đại diện theo uỷ
quyền của nguyên đơn ông Aliev G với nội dung: kháng cáo một phần bản án sơ
thẩm, yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện về thanh toán
50% tiền lương còn thiếu từ tháng 4/2020 đến tháng 11/2021 cho ông với mức
lương 3.250USD; thanh toán trợ cấp thôi việc tương đương 165.280.625đồng và
thanh toán tiền lương của 40 ngày nghỉ phép năm 2020, 2021 chưa nghỉ, Hội
đồng xét xử thấy:
[2.1] Công ty TNHH L2 hoạt động trong lĩnh vực du lịch lữ hành quốc tế. Công
ty đã ký kết với ông Aliev G 03 hợp đồng lao động liên tiếp với chức danh là T2
bộ phận đặt phòng, gồm:
+ Hợp đồng lao động (không số) 2016/HĐLĐ NN-PEGASTRAVEL, thời hạn
từ 01/10/2016 - 24/11/2017 và Quyết định số 40/2017/QĐTL ngày 01/9/2017
của Công ty.
+ Hợp đồng lao động số 70/2017/HĐLĐ NN-PEGASTRAVEL, thời hạn từ
01/12/2017 - 30/11/2019 và Phụ lục Hợp đồng lao động số 02/PL-
70/2017/HĐLĐ NN-PEGASTRAVEL ngày 30/12/2017.
+ Hợp đồng lao động số 48/2019/HĐLĐ NN-PEGASTRAVEL, thời hạn từ
01/12/2019 - 30/11/2021 và Quyết định số 27/2019/QĐML ngày 01/12/2019.
Theo hợp đồng lao động số 48, Công ty P trả lương cho ông Aliev G gồm lương
theo chức danh 6.000.000đồng, phụ cấp ăn trưa 5.400.000đồng, ngoài ra được
hưởng khoản bổ sung theo hiệu quả. Theo Quyết định số 27/2019/QĐML ngày
01/12/2019 về việc áp dụng mức lương theo hợp đồng thì ông G còn được Công
ty P trả khoản bổ sung dựa theo hiệu quả công việc là 21.250.000đồng, tổng thu
nhập là 32.650.000 đồng/tháng. Ngày 12/12/2019, ông Abdullah C - Tổng Giám
đốc Công ty gửi email cho ông O Ahmet Refik với nội dung: “Kể từ ngày
01/01/2020, các sắp xếp sau sẽ được thực hiện cho nhân viên người Thổ Nhĩ Kỳ.
Hãy thực hiện việc sắp xếp ngân sách cần thiết một cách phù hợp...” kèm theo
danh sách nhân viên người Thổ Nhĩ Kỳ, trong đó có tên ông G với mức lương
3.250USD. Xét việc trao đổi sắp xếp lương này thì thấy: ông Ozdogan Ahmet
R1 là chuyên gia cố vấn tài chính của Công ty, ông Ozdogan Ahmet R1 không
được ông Abdullah C uỷ quyền trực tiếp chỉ đạo, thực hiện điều chỉnh lương
mới của các nhân viên người Thổ Nhĩ Kỳ trong Công ty. Phía Công ty P cũng
không có sự trao đổi, thoả thuận điều chỉnh lương mới trực tiếp với ông G và
cũng không có văn bản sửa đổi, bổ sung Hợp đồng lao động số 48 về việc điều
chỉnh lương mới giữa các bên theo quy định tại khoản 1 Điều 13, khoản 2 Điều
33 của Bộ luật Lao động năm 2019. Mặt khác, tại “Đơn xin giải trình” ngày
05/5/2023, ông C khẳng định: “...Tôi không gửi thư điện tử cho ông Aliev G về
tiền lương, mà tất cả đều được hai bên thoả thuận và thực hiện theo các Hợp
10
đồng lao động đã ký”. Ông G còn xuất trình các Phiếu trả lương ghi chữ
“Payment” để cho rằng Công ty đã điều chỉnh lương mới, thanh toán lương cho
ông bằng tiền mặt 50% của mức lương 3.250USD và ký trên phiếu trả lương
theo mẫu Công ty đặt in nhưng các tài liệu này không phải là chứng từ kế toán
theo quy định tại khoản 1 Điều 16, khoản 3 Điều 19 của Luật Kế toán trong khi
Hợp đồng 48 các bên thoả thuận lương được chi trả bằng chuyển khoản và bằng
đồng Việt Nam. Như vậy, không có cơ sở khẳng định mức lương của ông G
được điều chỉnh từ ngày 01/01/2020 là 3.250USD mà lương được chi trả theo
Hợp đồng lao động số 48 và Quyết định số 27/2019/QĐML ngày 01/12/2019
của Công ty P. Do đó, Toà án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của ông G về yêu cầu Công ty P phải thanh toán 50% tiền lương còn thiếu từ
tháng 4/2020 đến tháng 11/2021 với mức lương 3.250USD là đúng.
[2.2] Ngày 20/3/2020, Tổng Giám đốc Công ty P có Thông báo bằng thư điện tử
(email) về thời hạn cắt giảm lương của nhân viên Công ty là từ ngày 23/3/2020
đến ngày 30/4/2020. Công ty P cho rằng phòng Nhân sự đã làm Biên bản thoả
thuận về thời hạn ngừng việc, mức lương thoả thuận trong thời gian ngừng việc
giữa Công ty với nhân viên và đã chuyển cho nhân viên Công ty K1 xác nhận
nhưng xét Công ty P không xuất trình được tài liệu chứng minh đã gửi Biên bản
thoả thuận ngừng việc cho ông G và cũng không có cơ sở khẳng định ông G đã
nhận được Biên bản thoả thuận này nhưng không phản hồi ý kiến với Công ty.
Ngoài ra, từ sau ngày 30/4/2020, Công ty P không có bất kỳ thông báo nào khác
về việc cắt giảm lương hay văn bản thoả thuận về điều chỉnh lương của ông G
đối với Hợp đồng lao động số 48. Do đó, email thông báo cắt giảm lương ngày
20/3/2020 không phải là văn bản thoả thuận cắt giảm 50% lương giữa Công ty
với ông G. Do tình hình dịch Covid-19 nên Công ty P1 hoạt động từ tháng
3/2020 đến hết năm 2021. Điều này phù hợp với Báo cáo tài chính của Công ty
thể hiện năm 2020 doanh thu thấp (chỉ hoạt động 03 tháng đầu năm), năm 2021
không có doanh thu nên Công ty không thể chi trả khoản bổ sung dựa theo hiệu
quả đánh giá công việc cho người lao động. Vì vậy, tiền lương của ông G từ
ngày 01/4/2020 đến ngày 30/11/2021 gồm hai khoản: lương theo công việc chức
danh và phụ cấp ăn trưa, tổng cộng: 11.400.000đồng/tháng. Thời điểm xác định
để tính lương là từ ngày 01/4/2020 đến ngày 30/11/2021 nên tiền lương phải trả
cho ông G là 11.400.000đồng x 20 tháng = 228.000.000đồng. Công ty P đã
chuyển lương các tháng 4, 5, 6/2020 vào tài khoản của ông G tổng cộng
48.000.000đồng (mỗi tháng là 16.000.000đồng), còn phải thanh toán cho ông G
tiền lương là 180.000.000đồng. Hội đồng xét xử thấy Toà án cấp sơ thẩm chấp
nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông G về thanh toán tiền lương còn thiếu
theo Hợp đồng số 48 là có căn cứ.
[2.3] Về yêu cầu thanh toán tiền lương của 40 ngày nghỉ phép năm 2020, 2021
do chưa nghỉ, Hội đồng xét xử thấy: do tình hình dịch Covid-19 nên ông G chỉ
làm việc cho Công ty P theo Hợp đồng lao động số 48 từ tháng 12/2019 đến
tháng 3/2020 là 04 tháng. Từ tháng 4/2020 đến tháng 11/2021, Công ty ngừng
11
hoạt động nên ông G không phải làm việc. Ông G không chứng minh được việc
mình có đến Công ty làm việc hoặc ở nhà làm việc trực tuyến (online) trong
khoảng thời gian nêu trên. Do đó, Toà án cấp sơ thẩm chấp nhận một phần yêu
cầu khởi kiện này của nguyên đơn, xác định số ngày nghỉ phép của ông G là 04
ngày, buộc Công ty P phải thanh toán tiền lương cho ông G (theo mức lương
trước khi có dịch Covid-19) của 04 ngày nghỉ: (32.650.0000đồng : 26 ngày) x
04 ngày = 5.023.000đồng là đúng quy định tại khoản 1, 2, 3 Điều 113 của Bộ
luật Lao động năm 2019.
[2.4] Về yêu cầu thanh toán khoản tiền trợ cấp thôi việc của ông G: theo quy
định tại khoản 3 Điều 46 của Bộ luật Lao động năm 2019 thì: “Tiền lương để
tính trợ cấp thôi việc là tiền lương bình quân của 06 tháng liền kề theo hợp đồng
lao động trước khi người lao động thôi việc.” Theo Hợp đồng lao động số 48 thì
thời hạn chấm dứt hợp đồng lao động của ông G là vào ngày 30/11/2021 và
người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, bị đơn đều thừa nhận thời gian
ông G làm việc được tính tròn thành 05 năm 06 tháng nên lương của ông G
được tính là 11.400.000đồng. Như vậy, trợ cấp thôi việc của nguyên đơn được
tính: (11.400.000đồng x 1/2) x 5,5 năm = 31.350.000đồng. Ngày 16/12/2021,
Công ty P đã thanh toán khoản tiền trợ cấp thôi việc cho ông G 47.700.000đồng
nên số tiền này sẽ được trừ vào số tiền mà Công ty P còn phải thanh toán cho
ông G. Xét Toà án cấp sơ thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện này của
nguyên đơn ông G là đúng quy định của pháp luật.
[3] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy rằng: Toà án cấp sơ thẩm
chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông G về việc yêu cầu
Công ty P phải thanh toán tiền lương còn thiếu theo Hợp đồng lao động số 48,
tiền lương 04 ngày nghỉ phép, khoản trợ cấp thôi việc cho ông G và không chấp
nhận yêu cầu của ông G về việc yêu cầu Công ty P phải thanh toán 50% tiền
lương còn thiếu từ tháng 4/2020 đến tháng 11/2021 với mức lương 3.250USD là
có cơ sở. Vì vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận nội dung kháng cáo của bà
L, ông N - là người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn ông G như đề nghị
của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, giữ nguyên bản án sơ
thẩm.
[4] Về án phí: do toàn bộ nội dung kháng cáo không được chấp nhận, lẽ ra ông
Aliev G phải chịu án phí lao động phúc thẩm. Nhưng xét, ông G yêu cầu khởi
kiện đòi tiền lương, trợ cấp thôi việc là thuộc điểm a khoản 1 Điều 12 của Nghị
quyết số 326/2016 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án
nên được miễn án phí lao động phúc thẩm.
[5] Các quyết định khác còn lại của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị nên không xét.
Vì các lẽ trên;
12
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ vào khoản 3, khoản 4 Điều 284, điểm c khoản 1 Điều 289 của Bộ luật
Tố tụng Dân sự;
Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần yêu cầu thanh toán tiền lương mà
nguyên đơn ông Aliev G đã làm thêm giờ trong 52 ngày nghỉ lễ, Tết từ năm
2016 đến năm 2021 và phần lãi suất do chậm trả lương.
2. Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng Dân sự,
Không chấp nhận kháng cáo của bà Võ Thị L và ông Lê Đức N - là người đại
diện theo uỷ quyền của nguyên đơn ông Aliev G; giữ nguyên Bản án lao động
sơ thẩm số 01/2023/LĐ-ST ngày 29/9/2023 của Toà án nhân dân tỉnh Khánh
Hoà.
Áp dụng Điều 13, Điều 14, Điều 46, Điều 33, Điều 46, Điều 90, Điều 95, khoản
4 Điều 97, Điều 113 của Bộ luật Lao động năm 2019; điểm a khoản 1 Điều 12
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án. Tuyên xử:
2.1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Aliev G về yêu
cầu bị đơn Công ty TNHH L2 phải thanh toán tiền lương còn thiếu cho nguyên
đơn theo Hợp đồng lao động số 48/2019/HĐLĐ ngày 01/12/2019; thanh toán
tiền lương 04 ngày nghỉ phép năm 2020 và thanh toán khoản tiền trợ cấp thôi
việc cho nguyên đơn.
2.2. Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn ông Aliev G về yêu cầu bị đơn
Công ty TNHH L2 phải thanh toán cho nguyên đơn 50% tiền lương còn thiếu
với mức lương 3.250USD/tháng từ tháng 4 năm 2020 đến tháng 11 năm 2021.
2.3. Buộc bị đơn Công ty TNHH L2 phải thanh toán cho nguyên đơn ông Aliev
G tiền lương còn thiếu theo Hợp đồng lao động số 48 là: 180.000.000đồng và lãi
suất chậm trả lương là: 21.731.671đồng; thanh toán tiền lương 04 ngày nghỉ
phép năm 2020 (chưa nghỉ) là 5.023.000đồng; thanh toán tiền trợ cấp thôi việc
là: 31.350.000đồng. Tổng cộng là: 238.104.671đồng. Bị đơn đã thanh toán cho
nguyên đơn 47.700.000đồng nên bị đơn còn phải tiếp tục thanh toán cho nguyên
đơn là: 190.404.671đồng (một trăm chín mươi triệu, bốn trăm lẻ bốn nghìn, sáu
trăm bảy mươi mốt đồng).
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án về khoản tiền
phải thi hành án, nếu người phải thi hành án không chịu thi hành án thì hàng
tháng còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi
suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với
thời gian chưa thi hành án.
3. Về án phí phúc thẩm: miễn án phí lao động phúc thẩm cho ông Aliev G.
13
4. Các quyết định khác còn lại của bản án sơ thẩm và các quyết định sửa chữa,
bổ sung bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp
luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
của Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND tối cao;
- VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;
- TAND tỉnh Khánh Hoà;
- VKSND tỉnh Khánh Hoà;
- Cục THADS tỉnh Khánh Hoà;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu HSVA, P HCTP, LT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Thị Kim Liên
Tải về
Bản án số 02/2024/LĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 02/2024/LĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 16/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 16/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 30/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 26/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 21/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 16/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 16/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 16/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 16/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 14/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 14/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 09/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 07/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 07/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 01/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 31/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 31/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 25/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 19/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm