Bản án số 03/2025/KDTM-PT ngày 30/05/2025 của TAND tỉnh Quảng Bình về tranh chấp về cung ứng dịch vụ

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 03/2025/KDTM-PT

Tên Bản án: Bản án số 03/2025/KDTM-PT ngày 30/05/2025 của TAND tỉnh Quảng Bình về tranh chấp về cung ứng dịch vụ
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về cung ứng dịch vụ
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Quảng Bình
Số hiệu: 03/2025/KDTM-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 30/05/2025
Lĩnh vực: Kinh doanh thương mại
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Công ty T và công ty Thiên H "Tranh chấp bồi thường thiệt hại theo Hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH QUẢNG BÌNH Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 03/2025/KDTM-PT
Ngày: 30 - 5 - 2025
V/v “Tranh chấp bồi thường thiệt
hại theo Hợp đồng vận chuyển hàng
hóa bằng đường biển”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thm phán - Ch ta phiên tòa: Ông Dương Viết Hi
Các Thẩm phán: Hoàng Thị Thanh Nhàn bà Nguyn Thị Tuyết Minh.
- Thư phiên a: Nguyn Th Anh - T Tòa án nhân n tỉnh
Quảng Bình.
- Đại diện Viện kim t nhân dân tỉnh Quảng Bình tham gia phiên tòa: Bà
Nguyễn Thị Diu Thúy - Kiểm t viên.
Các ngày 29 tháng 4 và ngày 05 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở. Tòa án nhân
dân tỉnh Quảng nh mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án Kinh doanh
thương mại thụ số 01/2025/TLPT - KDTM ngày 04/02/2025, về việc Tranh
chấp bồi thường thiệt hại theo hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển”.
Do bản án kinh doanh thương mại thẩm số 04/2024/KDTM-ST ngày
24/12/2024 của Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch bị kháng cáo. Theo Quyết định
đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 112/2025/QĐ-PT ngày 25/3/2025 Quyết định
Hoãn phiên tòa số 92/2025/QĐ-PT ngày 10/4/2025 của Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Bình, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Công ty TNHH Vận tải Biển T
Người đại diện theo pháp luật: Bà Trương Thị Thanh T - Giám đốc
Địa chỉ: Tổ dân phố A, phường B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, có mặt.
Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Nguyễn Thế T, sinh năm 1983; nơi
trú: Số X đường L, phường B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, mặt.
Bị đơn: Công ty TNHH Một thành viên Thiên H
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Anh T - Giám đốc
Địa chỉ: Khu B, phường L, thị xã K, tỉnh Hải Dương, vắng mặt.
Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Nguyễn Tuấn A, sinh năm 1981; nơi cư
trú: Số L, phường L, Quận L, Thành phố Hải Phòng Phạm Thủy T; địa chỉ:
Số A đường M, TDP V, P. A, Q. A, TP. Hải Phòng; Ông A và bà T có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Tổng Công ty Cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng B.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Hoài A - Tổng giám đốc.
2
Địa chỉ: Tầng S, Tòa nhà số A, đường C, phường D, Quận C, Thành Phố
Hà Nội, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
2. Công ty TNHH Thương mại N;
Địa chỉ: Số X lô Y, đường Z, phường Đ, Quận H, thành phố Hải Phòng;
Người đại diện theo pháp luật: Ông Hoàng Nam H; địa chỉ: BH06-15,
phường T, quận H, thành phố Hải Phòng; Hộ khẩu thường trú: Số E, phường N,
quân H, thành phố Hà Nội, có mặt.
3. Công ty bảo hiểm PVI Q;
Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Anh Đ - Chức vụ: Tổng giám
đốc;
Người đại diện theo ủy quyền: Đỗ Minh H, Nguyễn Hồng N - Theo
giấy ủy quyền số 72/UQ-PVIBH ngày 09/4/2025
Địa chỉ: Tầng F, Tòa nhà PVI, R, phường Y, quận C, Nội, H
bà N có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Do có kháng cáo của bị đơn: Công ty TNHH Một thành viên T
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện (bổ sung đơn khởi kiện), lời khai trong quá trình giải
quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn và đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn
thống nhất trình bày:
Vào ngày 15/01/2017, Công ty TNHH Vận tải biển T (viết tắt là Công ty T)
ký kết Hợp đồng thuê tàu số: 02A/2017/HĐVC/VCM-TT với Công ty Cổ phần Vật
liệu Xây dựng V (viết tắt Công ty V) với các điều khoản trong nội dung hợp đồng
đã được thỏa thuận và cam kết thực hiện giữa hai bên. Ngày 20/7/2017, Công ty T
tiếp tục kết Hợp đồng thuê tàu vận chuyển hàng hóa số: 20.07.17/TT-NV với
Công ty TNHH MTV Thiên H (viết tắt Công ty Thiên H) để Công ty Thiên H thực
hiện các điều khoản trong nội dung hợp đồng đã được thỏa thuận cam kết thực
hiện giữa hai bên thay thế cho Công ty Trường Tâm, trước đó Công ty Tđã
kết với Công ty V. Phương tiện vận chuyển theo hợp đồng là tàu Nam Vỹ 79
trách nhiệm của phía Công ty Thiên H nội dung: “Nếu bên B làm thất thoát
hàng hóa, ẩm ướt, hỏng, hay bất cứ nguyên nhân cũng được coi tổn thất
thì phải bồi thường cho Bên A 100% giá trị thiệt hại số hàng bị thất thoát, hư hỏng
theo đơn giá của Nhà máy tại thời điểm phát sinh các chi phí phát sinh nếu
có.”. Sau đó, Công ty Thiên Hlại tiếp tục kết hợp đồng vận chuyển hàng hóa
trên với Công ty TNHH TM N (viết tắt Công ty N). Tuy nhiên, Công ty N thực
hiện việc vận chuyển hàng hóa theo hợp đồng trên để xẩy ra sự cố vào ngày
28/7/2017 tại vùng biển Vũng Tàu gây tổn thất toàn bộ hàng. Toàn bộ hàng
này trước đó phía Công ty V đã mua bảo hiểm của Tổng Công ty Cổ phần Bảo
hiểm Ngân hàng B (viết tắt Công ty BIC). Căn cứ vào Chứng thư giám định,
nguyên nhân gây ra tổn thất do lỗi của đơn vị vận chuyển, nên Công ty BIC đã
thanh toán cho người được bảo hiểmng ty V, với số tiền 2.613.752.460 đồng.
Đồng thời phía Công ty BIC đã nhận được thế quyền của Công ty V để khởi kiện
đòi bồi hoàn từ đơn vị vận chuyển Công ty T tại Toà án nhân dân thành phố
3
Đồng Hới. Quá trình giải quyết, Tòa án cấp thẩm xử không chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn, nhưng cấp phúc thẩm Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình
xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc Công ty Tphải trả stiền
3.288.871.845 đồng cho Công ty BIC (trong đó: tiền hàng 2.613.752.460 đồng, i
675.219.385 đồng). Toàn bộ số tiền kể trên những thiệt hại xuất phát từ sự việc
Công ty Thiên H đã không hoàn thành nghĩa vụ vận chuyển đối với Công ty T.
Hiện tại Công ty T đang thực hiện Thi hành án theo Bản án phúc thẩm số:
06/2022/KDTM-PT ngày 27/7/2022. Số tiền Công ty T đã nộp là: 682.000.000
đồng (sáu trăm tám mươi hai triệu đồng). Đồng thời bên thi hành án có các công
văn gửi cho các tổ chức tín dụng và Cục Hàng hải đến Cảng vụ trong cả nước cấm
tàu Công ty T xuất nhập cảng làm ảnh hưởng thiệt hại rất nhiều đến tình hình
hoạt động của Công ty T. Căn cứ theo các điều khoản quy định tại Hợp đồng thuê
tàu vận chuyển hàng hóa số 20.07.17/TT-NV, căn cứ các Điều 530, 534, 541 Bộ
luật dân sự, Công ty Thiên H bên chịu trách nhiệm đối với những thiệt hại đối
với lô hàng mà Công ty Thiên H đã nhận trách nhiệm vận chuyển.
Ngoài ra, trong quá trình thực hiện hợp đồng, ngày 26/7/2017, Công ty T
đã thanh toán cho Công ty Thiên H, số tiền 167.969.950 đồng (bao gồm tiền vận
chuyển tiền dầu). Do Công ty Thiên H không hoàn thành nghĩa vụ theo hợp
đồng đã kết nên số tiền nói trên, Công ty Thiên H phải có trách nhiệm hoàn trả
lại cho Công ty T, cụ thể:
Số tiền hàng bị hư hỏng trị giá 2.613.752.460 đồng (Công ty T phải
trả cho Công ty BIC) số tiền lãi 10%/năm từ ngày Công ty BIC bồi thường cho
Công ty V từ ngày 09/02/2018 đến ngày 13/6/2024 là 1.655.376.558 đồng.
Số tiền Công ty Tđã thanh toán cho Công ty Thiên Huynh: 167.969.950
đồng số tiền lãi trên số tiền 167.969.950 đồng từ ngày 26/7/2017 đến ngày
13/6/2024 là 115.479.341 đồng.
Tổng số tiền mà Công ty Tyêu cầu Công ty Thiên Hphải bồi thường là:
4.552.578.309 đồng.
Bị đơn và người đại diện theo ủy quyền của bị đơn thống nhất trình bày:
Ngày 02/01/2017, Công ty Thiên H với Công ty N đã ký kết Hợp đồng th
tàu số: 0201/HĐTT/TH-NV. Theo đó Công ty Thiên H thuê của Công ty N con tàu
Nam Vỹ 79, với giá thuê là 150.000.000đ/tháng, thời hạn thuê được tính kể từ
ngày 02/01/2017 đến hết ngày 31/12/2017. Cũng theo nội dung đã thoả thuận trong
Hợp đồng thì Công ty N phải chịu trách nhiệm đối với toàn bộ các vấn đpháp
liên quan đến Tàu Nam Vỹ 79 trong quá trình khai thác, sử dụng tàu để vận
chuyển hàng hcũng nchịu trách nhiệm đối với toàn bộ thuyền viên trên tàu.
Việc ký kết Hợp đồng này việc Công ty Thiên H khi tiếp nhận các đơn hàng t
đối tác sẽ chuyển cho Tàu Nam Vỹ đơn vị chính trực tiếp thực hiện việc vận
chuyển.
Ngày 20/7/2017, Công ty Thiên H cùng với Công ty T kết Hợp đồng
thuê tàu vận chuyển hàng hoá số: 20.07.17/TT-NV. Theo đó, Công ty Tthuê tàu
Nam Vỹ 79 vận chuyển Clinker rời từ cảng Thắng Lợi, tỉnh Quảng Bình đến cảng
tại TP. Hồ Chí Minh. Trước đó vào ngày 15/01/2017, ng ty V đã kết Hợp
đồng thuê tàu số 02A/2017/HĐVC/VCM-TT với Công ty T, đồng ý thuê Công ty
4
T thực hiện dịch vvận chuyển hàng hoá, trong đó việc thuê vận chuyển
hàng Clinker nói trên.
Phiếu xác nhận tàu vận chuyển số: 15/2017/XNVC/CVM-TT ký kết giữa
Công ty T và Công ty V đã xác định phương tiện vận chuyển là tàu Nam Vỹ 79. Lô
hàng được vận chuyển 2.400,140 tấn Clinker, được thể hiện tại Biên bản giao
nhận hàng hoá số: 90/VCM-BBGN ngày 23/7/2017. Như vậy, cả Công ty T
Công ty V đều biết phương tiện trực tiếp vận chuyển hàng tàu Nam Vỹ 79
thuộc sở hữu của ng ty N và không có bất kỳ ý kiến phản đối nào.
Ngày 23/7/2017, Tàu Nam Vỹ 79 nhận đủ 2.400,140 tấn Clinker tại cảng
Thắng Lợi tiến hành vận chuyển về cảng tại khu vực TP. Hồ Chí Minh. Trên
đường vận chuyển, tàu Nam Vỹ 79 gặp sự cố va đâm vào vật thể ngầm dẫn đến
bục đáy tàu, nước tràn vào hầm hàng làm cho hàng Clinker bị tổn thất toàn bộ.
Sau khi sự việc xảy ra, Thuyền trưởng của Tàu Nam Vỹ đã tiến hành tuyên bố tổn
thất chung gửi đến Công ty V và các bên có liên quan.
Thứ nhất, căn cứ vào các quy định tại Điều 147 Bộ luật Hàng hải Việt Nam
2015 thì thể xác định Công ty Tngười vận chuyển (người trực tiếp giao kết
hợp đồng vận chuyển hàng hvới Công ty V) Công ty N người vận chuyển
thực tế ơn vtrực tiếp thực hiện việc vận chuyển ng Clinker). Thời điểm
Công ty T Hợp đồng thuê tàu vận chuyển với Công ty Thiên H, các bên đã ấn
định tàu được thuê vận chuyển Tàu Nam Vỹ 79. ng ty Tđã biết về việc
phương tiện được sử dụng để vận chuyển hàng nêu trên thuộc sở hữu của Công
ty N và không có bất kỳ khiếu nại, ý kiến nào khác. Có nghĩa ng ty T đã đồng
ý Công ty N sẽ đơn vị vận chuyển cho đơn hàng Clinker mà Công ty T đã tiếp
nhận từ Công ty V.
Như vậy, trách nhiệm của Công ty Thiên H theo Hợp đồng thuê u vận
chuyển hàng hoá số: 20.07.17/TT-NV đã được chuyển giao cho Công ty N - đơn vị
vận chuyển thực tế. Đồng thời, Công ty N là chủ sở hữu của Tàu Nam Vỹ 79, theo
các quy định của pháp luật thì người vận chuyển phải thực hiện trách nhiệm kiểm
tra, đảm bảo tàu đủ khả năng đi biển. Do đó, việc Công ty T khởi kiện yêu cầu
Công ty Thiên H bồi thường số tiền 4.552.578.309đ là không có cơ sở.
Thứ hai, Công ty Thiên H đề nghị Toà án nhân dân huyện Bố Trạch áp
dụng quy định về thời hiệu khởi kiện. sau khi sự việc xảy ra, vào các ngày
31/7/2017, ngày 07/8/2017 ngày 14/8/2017 Công ty T đã gửi Công văn yêu cầu
Công ty Thiên H hoàn trả tiền phí vận chuyển Công ty T đã tạm ứng cho Công
ty Thiên H. Đến ngày 30/11/2018, Công ty T tiếp tục Công văn số: 11/CV-
GĐBT ngày 30/11/2018 về việc yêu cầu Công ty Thiên H bồi hoàn số tiền
2.613.752.400 đồng theo như yêu cầu của Công ty BIC. Do thời gian cũng đã lâu
thời điểm này Công ty Thiên H đang do ông Nguyễn Văn Huynh chủ sở hữu
người đại diện theo pháp luật của Công ty nên Công ty Thiên H không còn
lưu trữ các văn bản, công văn phản hồi từ phía Thiên H.
Tuy nhiên, kể từ thời điểm đó Công ty T không tiến hành khởi kiện đến
Toà án nhân dân thẩm quyền đyêu cầu giải quyết vụ việc nêu trên. Mặt khác,
tại Bản án số: 06/2022/KDTM-PT ngày 27/7/2022 của Toà án nhân dân tỉnh
Quảng Bình Quyết định Giám đốc thẩm số: 05/2023/KDTM-GĐT ngày
5
20/3/2023 của Toà án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng liên quan đến việc giải quyết
vụ án tranh chấp giữa Công ty Bảo hiểm BIC với Công ty Tcũng đều thể hiện nội
dung “Quá trình tố tụng, Công ty T làm đơn trình bày yêu cầu tuyên buộc ng ty
Thiên H thực hiện việc bồi thường số tiền 2.613.752.460 đồng. Đề nghị
STARCEM giải trình đơn giá Clinker của hàng 2400,14 tấn trên tàu Nam Vỹ
79... Tuy nhiên, Công ty T không đơn yêu cầu làm các thủ tục tố tụng nên
Toà án cấp sơ thẩm không có cơ sở xem xét”.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 146 Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2015 thì
Hợp đồng thuê tàu vận chuyển được kết ngày 20/7/2017 giữa Công ty Tvới
Công ty Thiên H là loại Hợp đồng vận chuyển theo chuyến. Theo đó thời hiệu khởi
kiện được quy định tại Điều 195 Bluật Hàng hải Việt Nam 2015 cụ thể như sau:
“Thời hiệu khởi kiện về việc thực hiện hợp đồng vận chuyển theo chuyến 02
năm kể từ ngày người khởi kiện biết hoặc phải biết quyền lợi của nh bị xâm
phạm”.
Như vậy, tính từ thời điểm ngày 31/7/2017 đến ngày 02/8/2022 (ngày thể
hiện trên Đơn khởi kiện ban đầu của Công ty T) là đã 05 năm 02 ngày. Trong toàn
bộ quá trình từ khi sự việc bắt đầu xảy ra, Công ty T không tiến hành khởi kiện vụ
án riêng, cũng như không Đơn yêu cầu Toà án thẩm quyền giải quyết trong
vụ án với Công ty Bảo hiểm BIC. Theo đó, căn cứ vào các quy định của pháp luật
thì thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu của Công ty Thiên H nay đã hết.
Về khoản tiền 167.969.950 đồng một phần phí vận chuyển ng ty
T trách nhiệm thanh toán cho Công ty Thiên H phát sinh theo hợp đồng vận
chuyển mà hai bên đã ký kết.
vậy, bị đơn đề nghị áp dụng quy định về thời hiệu khởi kiện trong vụ án
này. Tđó căn cứ quy định tại khoản 2, Điều 184; điểm e khoản 1 Điều 217 Bộ
luật tố tụng dân sự 2015 để tiến hành đình chỉ việc giải quyết vụ án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Tổng Công ty Cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
(Bảo hiểm BIC) có văn bản trình bày ý kiến: Tranh chấp giữa Công ty T Công
ty Thiên H tranh chấp Hợp đồng vận chuyển hàng hóa được ký kết giữa hai
Công ty. Bảo hiểm BIC không quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong quan hệ
Hợp đồng này. Quan hệ tranh chấp giữa Bảo hiểm BIC Công ty T đã được Tòa
án nhân dân tỉnh Quảng Bình giải quyết bằng bản án phúc thẩm số 06/KDTM-PT
ngày 27/7/2022. Do vậy, Bảo hiểm BIC không bất kỳ ý kiến nào đối với yêu
cầu khởi kiện của Công ty T với Công ty Thiên H trong vụ án này. Bảo hiểm BIC
xin vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án.
Công ty TNHH Thương mại N (Công ty N): Quá trình giải quyết tại
phiên tòa sơ thẩm vắng mặt nên không có ý kiến gì.
Tại Bản án Kinh doanh thương mại thẩm số 04/2024/KDTM-ST ngày
24/12/2024 của Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch quyết định:
Áp dụng khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm g khoản 1 Điều
40, điểm b khoản 1 Điều 92, Điều 147, 184, 185, khoản 1 khoản 3 Điều 288 Bộ
luật tố tụng dân sự; các Điều 385, 386, 398, 401, 419, 530, 531, 534, 541, 588 Bộ
luật dân sự; các Điều 302, 303, 306 Luật thương mại; khoản 2 Điều 146, Điều 147,
6
Điều 195 Bộ luật ng hải và khoản 4 Điều 26 Nghị quyết 326/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản và sử dụng án phí,
lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện nguyên đơn ng ty T, buộc bị
đơn Công ty Thiên H phải bồi thường số tiền 3.308.704.276 đồng cho Công ty T
(trong đó bồi thường 2400.140 tấn clinker bị hỏng, trị giá 2.613.752.460
đồng, lãi 495.160.883 đồng, tiền chi chí vận chuyển 167.969.950 đồng, lãi
31.820.983 đồng).
2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty T đối với
Công ty Thiên H về khoản tiền lãi của tiền hàng bị hỏng chi phí vận chuyển
là 1.243.874.033 đồng (trong đó lãi tiền hàng bị hư hỏng là 1.160.215.675 đồng, lãi
tiền chi phí vận chuyển là 83.658.358 đồng).
Ngoài ra, bản án thẩm còn tuyên về án phí, lãi suất chậm thi hành án,
quyền yêu cầu thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 31/12/2024, b đơn Công ty Thiên H kháng cáo toàn b Bn án s
04/2024/KDTM-ST ca Tòa án nhân dân huyn B Trch, tnh Qung Bình.
Quá trình chuẩn bị xét xử phúc thẩm. Ngày 10/4/2025, Công ty Bảo hiểm
PVI Q (viết tắt Bảo hiểm PVI) ý kiến trình bày: Công ty Bảo hiểm PVI Q là
đơn vị thành viên của Tổng Công ty Bảo hiểm PVI, nBảo hiểm tàu thủy nội
địa và bảo hiểm trách nhiệm dân s ch tàu (P&I) cho tàu “Nam Vỹ 79 của
Công ty TNHH Thương mại N, theo giấy chứng nhận bảo hiểm số
17/05/03/BHTS/PC00120 và s17/05/03/HBTS/PC00121 cấp ngày 04/7/2017
Hợp đồng bảo hiểm số C18/BHTS/05/03/17 ngày 04/7/2017. Ngày 28/7/2017,
Bảo hiểm PVI nhận được thông báo tổn thất của Công ty N liên quan đến scố
u Nam Vỹ 79 mắc cạn tại vùng biển Vũng Tàu. Bảo hiểm PVI đã chỉ định Công
ty giám định Năng lượng Việt Nam (EIC) tiến hành giám định, xác minh thông
tin scố. Trên sở báo cáo giám định và các văn bản hliên quan đến tổn
thất. Bảo hiển PVI đã tiến hành bồi thường cho Công ty N, số tiền 3.697.275.000
đồng theo giấy CNBH thân tàu số 17/05/03/BHTS/PC00120. Đối với Bảo hiểm
trách nhiệm dân schủ tàu (P&I) đến thời điểm hiện tại, phía chủ tàu Nam Vỹ
chưa cung cấp bất kỳ một văn bản u cầu bồi thường cùng các hồ liên quan
đến yêu cầu bồi thường theo quy định tại Hợp đồng bảo hiểm. Do vậy, Bảo hiển
PVI không có sở để xem xét giải quyết bồi thường theo giấy CNBH TNDS
chủ tàu. Đồng thời theo quy định tại khoản 2 Điều 58 Luật Kinh doanh bảo hiểm
2022 quy định “Người thứ ba không có quyền trực tiếp yêu cầu doanh nghiệp bảo
hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài bồi thường, trừ
trường hợp pháp luật quy định khác. Theo đó, các quyền và nghĩa vụ của
Công ty PVI (nếu ) s được điều chỉnh và giải quyết độc lập trên sthỏa
thuận tại Hợp đồng bảo hiểm giữa Bảo hiểm PVI và Công ty N các quy định
liên quan khác. Đối tượng tranh chấp trong vụ án này là nghĩa vụ phát sinh theo
Hợp đồng vận chuyển giữa Công ty Tvà Công ty Thiên Huynh. Theo đó, vụ án sẽ
được giải quyết trên cơ sở các quy định, điều khoản của Hợp đồng vận chuyển.
vậy, Bảo hiểm PVI không bất ktrách nhiệm hay nghĩa vụ nào phát sinh
trực tiếp đối với Công ty T yêu cầu khởi kiện của Công ty T trong vụ án này.
7
Xem t c vấn đề nêu trên căn cứ vào các Điều 70, 73 Bộ luật Tố tụng dân
sự 2015. Bảo him PVI nh đề nghị quý a không đưa Bảo hiểm PVI tham gia
tố tụng với tư cách người có quyền lợi nghĩa vliên quan. Trong trường hợp
yêu cầu trên không được chấp nhận. Bảo hiểm PVI xin phép được vắng mặt trong
quá trình giải quyết vụ án. Đồng thời không đưa ra bất kỳ ý kiến, văn bản, tài liệu
hay chứng cứ nào khác trong vụ án cụ thểy.
Ngày 15/4/2025, Công ty TNHH Thương Mại N ý kiến: Công ty N
chủ sở hữu tàu Nam V 79 (HP3555) đã tham gia bảo hiểm Thân vỏ tàu số
17/05/03/BHTS/PC00120 Bảo hiểm trách nhiệm Dân sự Chủ tàu số:
17/05/03/BHTS/PC00121 đã ngày 04/07/2017 hiệu lực bảo hiểm từ 00h00'
ngày 05/07/2017 đến 24h00' ngày 04/07/2018 Hợp đồng Bảo hiểm số:
C018/BHTS/05/03/17 đã ký 04/07/2017 tại Công ty Bảo hiểm PVI Quảng Ninh.
Ngày 23 tháng 07 năm 2017, tàu Nam Vỹ 79 (HP-3555), thuyền trưởng
Trần Văn Duyên, thuyền phó Trần Văn Dũng tiến hành nhận hàng 2.400,14 tấn
Clinker của Công ty cổ phần Vật liệu Xây dựng Việt Nam (chủ hàng) tại Cảng
Thắng Lợi, Quảng Bình. Ngày 28 tháng 07 năm 2017, trên đường hành trình vào
cảng thành phố Hồ Chí Minh trả hàng, khi đến phao số “O” Vũng Tàu, tàu đã gặp
sự cố đâm va vào vật thể cứng không xác định bên dưới mặt nước dẫn đến bục đáy
tàu, nước tràn vào hầm hàng làm cho lô hàng Clinker bị tổn thất.
Căn cứ theo hợp đồng vận chuyển số: 17/07/2017/HĐVC ngày
17/07/2017 giữa Công ty TNHH MTV Thiên Huynh Công ty TNHH Thương
Mại Nam Vỹ. Căn cứ theo các điều 147, 150, 151, 152, 173, 175, 313, 326, 327
của Bộ luật Hàng Hải Việt Nam số 95/2015/QH13. Công ty N đơn vị chủ tàu
trực tiếp tiếp nhận hàng hóa từ Công ty cổ phần vật liệu xây dựng Việt Nam và vận
chuyển hàng hóa. vậy, Công ty N trực tiếp chịu trách nhiệm toàn bộ về hàng
nên đã mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu (Số giấy chứng nhận bảo hiểm:
17/05/03BHTS/PC00121) và khi xảy ra tai nạn Công ty N đơn vị trực tiếp gửi
thông báo làm việc với các bên bao gồm: ng ty cổ phần V (chhàng), Nhà bảo
hiểm BIC Bắc Trung Bộ (nhà bảo hiểm chủ hàng), Công ty TNHH Vận tải Biển T
(Đại lý hàng hải), Công ty TNHH Một thành viên Thiên H (Đại lý hàng hải), Công
ty bảo hiểm PVI Q (nbảo hiểm chủ tàu) và các đơn vị khác có liên quan. Khi sự
cố xảy ra, bằng mọi nỗ lực và trách nhiệm của Chủ tàu, ng ty N đã tìm mọi cách
để giảm thiểu tổn thất liên hệ với đơn vị bảo hiểm Công ty PVI Q (bảo hiểm
chủ tàu) để xác định nguyên nhân tai nạn đánh giá tổn thất. PVI Q đã chỉ định
Công ty Cổ phần giám định năng lượng Việt Nam (EIC) thực hiện giám định, xác
minh sự cố, ngay khi sự cố xảy ra giám định viên của EIC đã mặt tại tàu Nam
Vỹ 79 để thực hiện giám định hiện trường lấy lời khai của các thuyền viên.
Trong suốt quá trình cứu hộ tàu, giám định viên của EIC luôn đồng hành cùng các
bên giải quyết sự cố, chứng kiến toàn bộ quá trình từ khi sự cố xảy ra đến khi hoàn
thành sửa chữa tàu. Điều này thể hiện bằng những ng văn Email của các bên
liên quan gửi tới Công ty N. Chứng tgiám định của ng ty giám định EIC kết
luận do nguyên nhân khách quan, tàu va chạm với vật cứng không xác định bên
dưới mặt nước, làm đáy tàu bị thủng, nước biển tràn vào hầm hàng, gây tổn thất
hàng hoá. Căn cứ vào kết luận của Chứng thư giám định đó, Công ty PVI Q đã giải
8
quyết bồi thường thân vỏ tàu, chưa bồi thường thiệt hại hàng hóa trong vụ việc
trên.
Tuy nhiên, trong vụ việc này, Công ty cổ phần V (chủ hàng) cũng thực hiện
mua bảo hiểm hàng hóa của Công ty Bảo hiểm B (nhà bảo hiểm hàng hàng hoá của
chủ hàng). Khi xảy ra scố, Công ty Bảo hiểm B chđịnh Công ty cổ phần Giám
định Hải Long thực hiện giám định scố, phát hành Chứng thư giám định. Chứng
thư giám định số 34802.TEC.17HCMN ngày 01/11/2017 của Công ty cổ phần
Giám định Hải Long kết luận: “do các kết cấu thép của các khoang đã bị rỉ mục, sự
va chạm mạnh làm biến dạng các kết cấu này tạo ra các lỗ thủng/vết nứt thông giữa
các khoang hầm hàng; những lỗ thủng/khe hở sẵn trước sự cố do r mục t
nhiên của các kết cấu thép. Do vậy, khi đáy tàu bên mạn phải phía mũi tàu đã va
chạm với vật cứng không xác định bên dưới mặt nước, làm đáy tàu bthủng, nước
biển tràn vào các khoang cách ly tiếp tục chảy vào các hầm hàng làm hàng hoá bị
ướt phát sinh tổn thất”. Kết luận giám định sự cố này hoàn toàn trái ngược với
kết luận giám định của Đơn vị giám định EIC. Theo báo cáo của thuyền trưởng
cán bộ giám định của EIC thì trong suốt quá trình sự cố, giám định viên Hải Long
chỉ mặt trên tàu để thực hiện giám định trong ngày 29/07/2017, không mặt
khi các bên liên quan thực hiện việc cứu hộ hàng, tàu và sửa chữa khắc phục sự cố.
Giám định viên Hải Long chỉ mặt lần thứ hai khi việc sửa chữa tàu đã gần như
hoàn thành. Trong quá trình khắc phục sự cố giải quyết đền thì Công ty N
cũng đã gửi Công văn số: 18/2017NV V/v: Xhàng hóa hỏng xếp trên tàu
Nam Vỹ 79” gửi bảo hiểm PVI Q thông báo về thông tin chủ hàng để phối hợp bồi
thường với chủ hàng bên Bảo hiểm của chủ hàng để phối hợp thực hiện bồi
thường hàng hóa. Tuy nhiên, ntrên đã được nhắc đến, do hai kết quả giám
định scố khác nhau giữa đơn vị giám định EIC của Bảo hiểm PVI Q đơn vị
giám định Hải Long của Bảo hiểm B với kết luận nguyên nhân sự cố hoàn toàn
khác nhau nên Công ty cổ phần V (chủ ng), Nhà bảo hiểm B (nhà bảo hiểm chủ
hàng), Công ty TNHH Vận tải Biển T (Đại Hàng Hải) không liên lạc với Công
ty N Bảo hiểm PVI Q để yêu cầu bồi thường và/hoặc phối hợp yêu cầu bồi
thường cho Nam Vỹ đã công văn thông báo cho các bên PVI Q. Đến thời
điểm hiện nay, Công ty N vẫn luôn sẵn sàng phối kết hợp, hợp tác với các bên
xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại hàng hóa thuộc trách nhiệm của Công ty
N PVI Q. Đề nghị quý Tòa án làm trách nhiệm sai sót của các bên trong
vụ án trong suốt quá trình tố tụng và yêu cầu cơ quan Công an điều tra xem xét nếu
thấy cần thiết, tránh xảy ra thiệt hại không đáng cho các bên. Công ty N cung
cấp cho Tòa án một stài liệu, chứng cliên quan đến việc Công ty N mua bảo
hiểm với Bảo hiểm PVI bảo hiểm tàu bảo hiểm trách nhiệm dân schtàu
(P&I) cho tàu “Nam Vỹ 79” của Công ty TNHH Thương mại N; các văn bản giữa
Công ty N với Bảo hiểm PVI khi sự cố tàu Nam Vỹ 79 gặp sự cố việc chi trả
tiền bảo hiểm giữa Bảo hiểm PVI Công ty N.
Ti phiên tòa phúc thm b đơn gi nguyên kháng cáo cung cp thêm
mt s tài liu, chng c liên quan đến vic gữi công văn qua lại khi s c tàu xy
ra, giám định tàu Nam V 79 của Đơn vị giám định EIC, vic chi tr bo him gia
bo him PVI Công ty N; nguyên đơn yêu cầu gi nguyên bản án thm.
9
Người quyn lợi nghĩa vụ liên quan gi nguyên quan điểm. Các đương sự
không tha thun vi nhau v vic gii quyết v án và đề ngh Tòa án gii quyết
theo quy định ca pháp lut.
Đại diện Viện kiểm sát nhân n tỉnh Quảng Bình tham gia phiên tòa phát
biểu quan điểm giải quyết vụ án:
Về tố tụng: Trong quá trình tiến hành tố tụng, giải quyết vụ án người tiến
hành ttụng, người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố
tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: Qua xem xét, đánh giá các tài liệu, chứng cứ trong
hồ vụ án ý kiến trình bày của các đương sự tại phiên tòa. Đề nghị Hội đồng
xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị đơn. Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố
tụng dân sự, giữ nguyên Bản án kinh doanh thương mại thẩm số
04/2024/KDTM-ST ngày 24/12/2024 của Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh
Quảng Bình; kháng cáo của bị đơn không được Tòa án chấp nhân nên phải chịu án
phí phúc thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án, ý kiến của
các đương sự được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng, quan điểm
của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định.
[1] Về tố tụng: Ngày 24/12/2024, a án nhân dân huyện BTrạch, tỉnh
Quảng Bình xét xử vụ án. Ngày 31/12/2024, bị đơn Công ty Thiên H kháng cáo,
đơn kháng cáo của bị đơn làm trong hạn luật định, nội dung, hình thức đúng quy
định đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm. vậy, Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Bình thụ vụ án đgiải quyết theo trình tự, thủ tục phúc thẩm phợp
với quy định tại các Điều 272, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.
Quá trình chuẩn bị xét xử phúc thẩm tại phiên tòa. Công ty N đã ý
kiến đối với yêu cầu khởi kiện của Công ty T và Công ty Thiên H, đã cung cấp mt
số tài liệu, chứng cứ liên quan đến việc bảo hiểm giữa Công ty N Bảo hiểm
PVI. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn Công ty Thiên H không
yêu cầu độc lập đối với Công ty N, nên không căn cứ để xem xét giải quyết
trong cùng vụ án. Tại phiên tòa, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Bảo hiểm
BIC, Bảo hiểm PVI ý kiến không liên quan đến vụ án có đơn đề nghị xét xử
vắng mặt. Căn cứ Điều 228, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vụ án.
[2] Xét kháng cáo của bị đơn Công ty Thiên H, Hội đồng xét xử thấy.
[2.1] Xét về thời hiệu khởi kiện: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ tại hồ sơ
vụ án lời khai của các đương sự tại phiên tòa. Thể hiện, Công ty Thiên H,
Công ty Tvà Công ty N đều người vận chuyển, nhưng Công ty N người vận
chuyển thực tế. Tuy nhiên, sau khi tàu Nam Vỹ 79 thuộc ng ty N chở 2.400,140
tấn Clinke của ng ty V để xảy ra sự cố gây tổn thất toàn bộ hàng hóa Clinke.
Công ty Bảo hiểm BIC đã bồi thường toàn bộ tổn thất hàng hóa cho Công ty V
được nhận thế quyền của Công ty V để yêu cầu bên thứ ba bồi thường thiệt hại. Do
đó, Công ty BIC đã khởi kiện Công ty Tbồi thường lại stiền đã chi trcho Công
10
ty V và tiền lãi phát sinh. Tại quyết định của bản án phúc thẩm số 06/2022/KDTM-
PT ngày 27/7/2022 đã quyết định. Buộc Công ty T phải trả số tiền 3.288.871.845
cho Công ty BIC (trong đó: Bồi thường 2.400,140 tấn Clinke bị hỏng, số tiền
2.613.752.460 đồng, lãi 675.219.385). Đến tại thời điểm này Công ty Tmới biết
quyền lợi ích của mình bị xâm phạm. Nên ngày 02/8/2022 Công ty T đã nộp
đơn khởi kiện Công ty Thiên H tại Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới chưa
quá 02 năm theo quy định tại Điều 195 Bộ luật Hàng hải; các Điều 184, Điều 185
Bộ luật Tố tụng dân sự Điều 588 Bộ luật Dân sự. Do đó, bị đơn Công ty Thiên
Hcho rằng Công ty T biết hoặc phải biết quyền lợi bị xâm phạm từ ngày 31/7/2017
30/11/2018 để cho rằng hết thời hiệu là không có căn cứ. Vì vậy, Tòa án cấp sơ
thẩm xác định yêu cầu khởi kiện của Công ty T còn thời hiệu để giải quyết
căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật.
[2.2] Xét ý kiến của Công ty Thiên H cho rằng không liên quan đến trách
nhiệm bồi thường trong Hợp đồng được kết giữa Công ty T Công ty Thiên
H, thấy: Ngày 15/01/2017, Công ty T kết Hợp đồng thuê tàu số
02A/2017/HĐVC/VCM-TT với Công ty V. ng ty T nhận vận chuyển ng
2.400,140 tn Clinker của Công ty V từ cảng Thắng Lợi Quảng Bình về khu vực
cảng tnh phố Hồ Chí Minh. Đến ngày 20/7/2017, Công ty Tkết Hợp đồng
thuê tàu vận chuyển hàng hóa số 20.07.17/TT-NV với Công ty Thiên H thực hiện
việc vận chuyển hàng 2.400,140 tấn Clinker của Công ty V. Trước đó, ngày
02/01/2017 Công ty Thiên H kết Hợp đồng thuê tàu của Công ty N, thuê tàu
Nam Vỹ 79, thời hạn thuê tàu từ ngày 02/02/2017 đến hết ngày 31/12/2017. Đến
ngày 17/7/2017 Công ty Thiên H kết Hợp đồng vận chuyển số
17/07/2017/HĐVC với Công ty N, phương tiện vận chuyển tàu Nam Vỹ 79 để
vận chuyển lô hàng 2.400,140 tấn Clinker từ khu vực cảng Quảng Bình về khu vực
cảng thành phố Hồ Chí Minh. Do đó, có căn cứ xác định Công ty T, Công ty Thiên
H Công ty N đều các bên liên quan đến Hợp đồng vận chuyển hàng hóa,
nhưng Công ty N người vận chuyển thực tế theo quy định tại Điều 147 Bộ luật
Hàng hải, n Công ty Thiên H phải chịu trách nhiệm của người vận chuyển theo
quy định tại Điều 173 Bộ luật Hàng hải. Tuy nhiên, Công ty Thiên H cho rằng khi
kết Hợp đồng vận chuyển thì Công ty V Công ty T đều biết tàu vận chuyển
là tàu Nam Vỹ 79 của Công ty N, nhưng các bên không có ý kiến, yêu cầu . Mặc
dù, khi kết các Hợp đồng vận chuyển các bên đều biết ng ty N người vận
chuyển thực tế, nhưng khi kết hợp đồng vận chuyển giữa Công ty Tvới Công ty
Thiên Huynh, Công ty N hoàn toàn không liên quan đến hợp đồng hai bên
kết. Ngoài ra, Công ty Thiên H người trực tiếp kết hợp đồng thuê tàu với
Công ty N, Công ty Thoàn toàn không liên quan đến hợp đồng mà hai n
kết, thể hiện Công ty Thiên H thuê tàu của ng ty N để vận chuyển hàng
2.400,140 tấn Clinker của Công ty V. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án
Công ty N cho rằng người trực tiếp chịu trách nhiệm toàn bộ về hàng và vẫn
luôn sẵn sàng phối kết hợp, hợp tác với các bên xác định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại hàng hóa thuộc trách nhiệm của Công ty N, nhưng Công ty Thiên
H không yêu cầu độc lập đối với Công ty N, nên trong vụ án này Tòa án không
căn cứ xem xét đến quyền lợi và nghĩa vụ giữa Công ty Thiên H với Công ty N.
11
vậy, Công ty Thiên H cho rằng không liên quan đến trách nhiệm bồi thường
trong Hợp đồng được ký kết giữa Công ty T và Công ty Thiên H là chưa đủ căn cứ
chấp nhận.
[2.3] Xét Hợp đồng thuê tàu vận chuyển hàng hoá số 20.07.17/TT-NV
được kết giữa Công ty T với Công ty Thiên H, ngày 20/7/2017 do người đại
diện hợp pháp của hai bên kết, đều đầy đủ năng lực hành vi dân sự, trên sở
hoàn toàn tự nguyện, mc đích của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp
luật, không trái đạo đức hội, hình thức, nội dung của hợp đồng phù hợp với quy
định tại Điều 145 Bộ luật Hàng hải các Điều 398, 401, 530, 531 Bộ luật dân sự,
nên hiệu lực thi hành. Các bên phải thực hiện quyền nghĩa vụ đối với nhau
theo các điều khoản đã ký kết trong hợp đồng và các Điều 534, 535 Bộ luật dân sự.
[2.4] Xét căn cứ phát sinh bồi thường và trách nhiệm bồi thường:
Tại chứng thư giám định số 34802.TEC.17HCM ngày 01/11/2017 của
Công ty cổ phần giám định Hải Long (SEDICORP) kết luận: “Toàn bộ 2.400,140
tấn Clinker chở trên tàu Nam Vỹ 79 trong chuyến hành trình bị sự cố nêu trên đã bị
tổn thất toàn bộ”. Nguyên nhân tổn thất: Trong hành trình của tàu Nam Vỹ 79,…
thì đáy tàu bên mạn phải mũi đã va chạm với vật cứng không xác định bên dưới
mặt nước, làm đáy tàu bị thủng, nước biển chảy vào các khoang cách ly thông qua
các lỗ thủng này. Trong khi đó, giữa hầm ng và các khoang cách ly không được
kín nước vì hai lý do: Do các kết cấu thép của các khoang đã bị rỉ mục, sự va chạm
mạnh làm biến dạng các kết cấu này tạo ra các lỗ thủng/vết nứt thông giữa các
khoang và hầm hàng; Những lỗ thủng/khe hở có sẵn trước sự cố do rỉ mục tự nhiên
của các kết cấu thép. Do vậy, nước từ các khoang cách ly tiếp tục chảy vào các
hầm hàng làm hàng hoá bị ướt phát sinh tổn thất. Theo Kết quả giám định thì
“Tàu Nam Vỹ 79 kết cấu 02 vách, 02 đáy. Khoảng giữa 02 vách 02 đáy
các khoang trống (tạm gọi khoang cách ly). Nhiều kết cấu thép bên trong các
khoang cách ly đã mục do rỉ sét tự nhiên” và tại Điều 5 Hợp đồng thuê tàu vận
chuyển hàng hóa số: 20.07.17/NV- TT được kết giữa Công ty T(Bên A) với
Công ty Thiên H(Bên B) quy định: Nếu bên B làm thất thoát hàng hóa, ẩm ướt,
hỏng, hay bất cứ nguyên nhân cũng được coi tổn thất thì phải bồi thường
cho bên A 100% giá trị thiệt hại số hàng hóa bị thất thoát, hỏng theo đơn giá
của Nhà máy tại thời điểm phát sinh, các chi phí phát sinh nếu .”. Ngoài ra,
tại Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm s 06/2022/KDTM-PT ngày
27/7/2022 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình và Quyết định Giám đốc thẩm số:
05/2023/KDTM-T ngày 20/3/2023 của Toà án nhân dân Cấp cao tại Đà Nẵng
đã hiệu lực pháp luật. Đã buộc Công ty T phải bồi thường 2.400,140 tấn Clinke
bị hỏng, số tiền 2.613.752.460 đồng i chậm thanh toán từ ngày Công ty
Bảo hiểm BIC (ngày 09/02/2018) đến ngày xét xử thẩm 24/12/2021, số tiền
675.219.385 đồng. Đây những tình tiết không cần phải chứng minh chứng
cứ khi xem xét giải quyết vụ án theo quy định tại Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự.
vậy, căn cứ xác định Công ty Thiên H người vận chuyển lỗi vi phạm
hợp đồng để gây thiệt hại về hàng hóa 2.400,140 tấn Clinke bị hỏng toàn bộ,
nên cần buộc Công ty Thiên H bồi thường toàn bộ giá trị hàng a bị hỏng
tiền cước phí vận chuyển ứng trước cho Công ty T phợp với quy định tại
12
khoản 3 Điều 152, khoản 1 Điều 153, khoản 1 Điều 158 Bộ luật Hàng hải các
Điều 419, 541 Bộ luật dân sự.
[2.5] Xét về mức bồi thường và lãi chậm thanh toán, Hội đồng xét xử thấy:
Như phân ch nhận định phần [2.4] căn cứ xác định. Công ty Thiên
H người vận chuyển lỗi vi phạm Hợp đồng để gây thiệt hại về hàng hóa
2.400,140 tấn Clinke bị hỏng toàn bộ, trị giá 2.613.752.460 đồng, nên phải bồi
thường toàn bộ giá trị hàng hóa bị thiệt hại; còn số tiền 167.969.950 đồng một
phần của số tiền cước phí vận chuyển mà Công ty Tđã chuyển cho Công ty Thiên
H trong việc thực hiện hợp đồng, trong đó 120.000.000 đồng chuyển bằng tiền
mặt, Công ty Thiên H thừa nhận; còn 3.535 lít dầu Diezel tương ứng với số tiền
47.969.950 đồng, Công ty Thiên H cho rằng đây là số dầu chuyển trực tiếp cho tàu
Nam Vỹ, chứ không phải cho Công ty Thiên H. Tuy nhiên, tàu Nam Vỹ 79 nhận
dầu, nhưng tại thời điểm nhận dầu tàu Nam Vỹ 79 do Công ty Thiên H thuê để vận
chuyển hàng, nên số dầu này là Công ty Thiên H nhận (phù hợp với tên người nhận
trong hóa đơn thanh toán) nên Công ty Thiên H phải trách nhiệm bồi thường
tiền cước phí vận chuyển. vậy, cần buộc Công ty Thiên Hphải bồi thường toàn
bộ giá trhàng hóa bị hỏng, trị giá 2.613.752.460 đồng và số tiền 167.969.950
đồng cước phí vận chuyển cho Công ty T căn cứ, phợp với Hợp đồng vận
chuyển hàng hóa mà hai bên đã kết quy định tại các Điu 419, 534, 541 Bộ
luật dân sự, các Điều 302, 303 Luật thương mại.
Về yêu cầu tính lãi chậm thanh toán của Công ty T 10%/năm trên số tiền
Công ty Thiên H phải bồi thường phù hợp, không vượt quá quy định của
pháp luật n cần chấp nhận. Tuy nhiên, về thời gian yêu cầu tính lãi chậm thanh
toán đối với số tiền hàng hóa bị hỏng từ ngày 09/02/2018 đến ngày 13/6/2024,
số tiền là 1.655.376.558 đồng thời gian yêu cầu tính lãi chậm thanh toán đối với
số tiền cước phí vận chuyển từ ngày 26/7/2017 đến ngày 13/6/2024, số tiền
115.479.341 chưa đcăn cứ. Thể hiện, thời điểm Công ty T biết được quyền
lợi ích của mình bị xâm phạm ngày 27/7/2022 nhưng Công ty T không yêu cầu
Công ty Thiên H phải thanh toán số tiền hàng hóa bthiệt hại tiền cước phí vận
chuyển, đến ngày 02/8/2022 Công ty T mới đơn khởi kiện đến Tòa án nhân
dân để yêu cầu Công ty Thiên H thanh toán số tiền hàng hóa bị thiệt hại tiền
cước phí vận chuyển. Vì vậy, căn cứ xác định ngày 02/08/2022ngày Công ty
Thiên H vi phạm nghĩa vụ thanh toán, nên cần chấp nhận ngày Công ty Thiên H vi
phạm nghĩa vụ thanh toán ngày 02/08/2022 đến ngày 13/6/2024 (ngày ng ty
Tyêu cầu) để tính lãi chậm thanh toán 22 tháng 22 ngày đối với số tiền bị thiệt
hại về hàng hóa 495.160.883 đồng đối với số tiền cước phí vận chuyển
31.820.983 đồngcó căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 306 Luật thương mại.
Từ những phân tích nhận định trên. Tòa án cấp thẩm xử buộc Công ty
Thiên H phải bồi thường cho Công ty T, số tiền 3.308.704.276 đồng (trong đó bồi
thường 2.400,140 tấn Clinker bị hỏng, trị giá 2.613.752.460 đồng, lãi
495.160.883 đồng tiền cước phí vận chuyển 167.969.950 đồng, lãi
31.820.983 đồng) căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật. vậy, Hội
đồng xét xử chấp nhận ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa. Căn
cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của bị
13
đơn Công ty Thiên H. Giữ nguyên Bản án thẩm số 04/2024/KDTM-ST ngày
24/12/2024 của Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
[3] Ván phí thẩm: Do Bản án thẩm được giữ nguyên. Án phí
thẩm cấp sơ thẩm đã tính đúng nên giữ nguyên.
[4] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo của bị đơn Công ty Thiên H không
được chấp nhận, nên Công ty Thiên H phải chịu án phí kinh doanh thương mại
phúc thẩm theo quy định.
[5] Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, không bị
kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự:
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn Công ty TNHH MTV Thiên H,
giữ nguyên bản án Kinh doanh thương mại thẩm số 04/2024/KDTM-ST ngày
24/12/2024 của Toà án nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
Căn cứ khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm g khoản 1 Điều 40,
các Điều 92, 147, 148, 184, 185, 228 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 385, 386,
398, 401, 419, 530, 531, 534, 541, 588 Bộ luật dân sự; các Điều 302, 303, 306
Luật thương mại; các Điều 145, 147, 152, 153, 158, 173, 195 Bộ luật Hàng hải; các
Điều 26, 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:
2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện nguyên đơn Công ty TNHH Vận
tải Biển T. Buộc bị đơn Công ty TNHH MTV Thiên H phải bồi thường số tiền
3.308.704.276 đồng cho Công ty TNHH Vận tải Biển T (trong đó bồi thường
2.400,140 tấn Clinker bị hỏng, trị giá 2.613.752.460 đồng, lãi là 495.160.883
đồng và tiền cước p vận chuyển 167.969.950 đồng, lãi là 31.820.983 đồng).
3. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH Vận
tải Biển T đối với ng ty TNHH MTV Thiên H về khoản tiền lãi của số tiền hàng
hóa bhư hỏng cước phí vận chuyển 1.243.874.033 đồng (trong đó lãi tiền
hàng hóa b hư hỏng là 1.160.215.675 đồng, lãi tiền cước phí vận chuyển
83.658.358 đồng).
4. Về án phí sơ thẩm:
Buộc Công ty TNHH Vận tải Biển T phải chịu 49.316.220 đồng để nộp
ngân ch Nhà nước, nhưng được trừ o số tiền 56.276.000 đồng tạm ứng án phí
Công ty TNHH Vận tải Biển T đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ
phí số 0002645 ngày 25/6/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bố Trạch,
tỉnh Quảng Bình. Trả lại cho Công ty TNHH Vận tải Biển T số tiền tạm ứng án phí
6.959.780 đồng.
14
Buộc Công ty TNHH TMV Thiên H phải chịu 98.174.086 đồng để nộp
ngân sách Nhà nước.
5. Ván phí phúc thẩm: Buộc Công ty TNHH TMV Thiên H phải chịu
2.000.000 đồng án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm. Được khấu trừ vào số
tiền 2.000.000 đồng tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo biên lai số 0002803
ngày 15/01/2025 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
Kể từ ngày bản án hiệu lực pháp luật người được thi hành án đơn
yêu cầu thi nh án, nếu người phải thi hành án chậm thực hiện nghĩa vụ đối với
các khoản tiền phải trả, thì hàng tháng còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền
phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự
cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền.
Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì
người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự quyền thỏa thuận thi
hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bcưỡng chế thi
hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9 Luật thi hành án dân sự. Thời
hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án
dân sự.
Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, không b
kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Nơi nhận: T/M. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- VKSND tỉnh Quảng Bình; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- TAND huyện Bố Trạch;
- TACC tại Đà Nẳng ;
- VKSCC tại Đà Nẳng ; (đã ký)
- Chi cục THA huyện Bố Trạch;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án, VPDS,
Dương Viết Hải
15
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH QUẢNG BÌNH Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Quảng Bình, ngày....... tháng........ năm 2025
BIÊN BẢN NGHỊ ÁN
Vào hồi........giờ.........phút, ngày........tháng........năm 2025, tại phòng nghị
án Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình.
Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: ông Dương Viết Hải
Các Thẩm phán:……..................................................................................
Tiến hành nghị án đối với vụ án Kinh doanh thương mại phúc thẩm thụ lý
số: 01/2025/TLPT-KDTM ngày 04 tháng 02 năm 2025, về việc “Tranh chấp bồi
thường thiệt hại theo Hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển”, giữa các
đương sự:
Nguyên đơn: Công ty TNHH Vận tải Biển T
Người đại diện theo pháp luật: Bà Trương Thị Thanh Tâm - Giám đốc
Địa chỉ: Tổ dân phố 14, phường Bắc Lý, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng
Bình,
16
Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Nguyễn Thế Thành, sinh năm 1983;
nơi trú: Số 23 đường Ngọc Hân, phường Bắc Lý, thành phố Đồng Hới, tỉnh
Quảng Bình,
Bị đơn: Công ty TNHH Một thành viên T
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Anh Tuấn - Giám đốc
Địa chỉ: Khu Bãi Sải, phường Long Xuyên, thị Kinh Môn, tỉnh Hải
Dương,
Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Nguyễn Tuấn Anh, sinh năm 1981; nơi
trú: Số 34 Lam Sơn, phường Lam Sơn, Quận Chân, Thành phố Hải Phòng
Phạm Thủy Tâm; địa chỉ: Số 474 đường Máng Nước, TDP Vĩnh Khê, P. An
Đồng, Q. An Dương, TP. Hải Phòng,
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Tổng Công ty Cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng đầu phát triển Việt
Nam.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Hoài An - Tổng giám đốc.
Địa chỉ: Tầng 11, Tòa nhà số 263, đường Cầu Giấy, phường Dịch Vọng,
Quận Cầu Giấy, Thành Phố Hà Nội,
2. Công ty TNHH Thương mại Nam Vỹ;
Địa chỉ: Số 8 17, đường Bến Láng, phường Đằng Lâm, Quận Hải An,
thành phố Hải Phòng;
Người đại diện theo pháp luật: Ông Hoàng Nam Hải; địa chỉ: BH06-15
Vinhomes Imperia, phường Thượng , quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng;
Hộ khẩu thường trú: Số 89 Tuệ Tĩnh, phường Nguyễn Du, quân Hai Trưng,
thành phố Hà Nội,
3. Công ty bảo hiểm PVI Quảng Ninh;
Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Anh Đức - Chức vụ: Tổng giám
đốc;
Người đại diện theo ủy quyền: Đỗ Minh Hương, Nguyễn Hồng
Nhung - Theo giấy ủy quyền số 72/UQ-PVIBH ngày 09/4/2025
Địa chỉ: Tầng 24, Tòa nhà PVI, VP2 Yên Hòa, phường Yên Hòa, quận
Cầu Giấy, Hà Nội,
Căn cứ vào Điều 264 và Điều 307 Bộ luật tố tụng dân sự,
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh
tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật.
HỘI ĐỒNG XÉT XỬ THẢO LUẬN, BIỂU QUYẾT,
QUYẾT ĐỊNH CÁC VẤN ĐỀ CỦA VỤ ÁN NHƯ SAU
1. Về điều luật áp dụng:
Căn cứ khoản 1 Điều 308; khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm
g khoản 1 Điều 40, các Điều 92, 147, 148, 184, 185, 228 Bộ luật tố tụng dân sự;
các Điều 385, 386, 398, 401, 419, 530, 531, 534, 541, 588 Bộ luật dân sự; các Điều
302, 303, 306 Luật thương mại; các Điều 145, 147, 152, 153, 158, 173, 195 Bộ luật
Hàng hải; các Điều 26, 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12
17
năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án
Biểu quyết:……………………………………………………………….
2. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn Công ty TNHH MTV Thiên
Huynh, giữ nguyên bản án Kinh doanh thương mại sơ thẩm số 04/2024/KDTM-ST
ngày 24/12/2024 của Toà án nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
3. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện nguyên đơn Công ty TNHH Vận
tải Biển TBuộc bị đơn Công ty TNHH MTV Thiên Huynh phải bồi thường số tiền
3.308.704.276 đồng cho Công ty TNHH Vận tải Biển Trường m (trong đó bồi
thường 2.400,140 tấn Clinker bị hỏng, trị giá 2.613.752.460 đồng, lãi là
495.160.883 đồng tiền cước phí vận chuyển 167.969.950 đồng, lãi
31.820.983 đồng).
4. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH Vận
tải Biển Trường Tâm đối với Công ty TNHH MTV Thiên Huynh về khoản tiền lãi
của số tiền hàng hóa bị hỏng cước phí vận chuyển là 1.243.874.033 đồng
(trong đó lãi tiền hàng hóa bị hỏng là 1.160.215.675 đồng, lãi tiền cước phí vận
chuyển là 83.658.358 đồng).
Biểu quyết:……………………………………………………………….
4. Các vấn đề khác:
- Về án phí dân sự sơ thẩm:
Buộc Công ty TNHH Vận tải Biển Trường Tâm phải chịu 49.316.220 đồng
để nộp ngân sách Nhà nước, nhưng được trừ vào số tiền 56.276.000 đồng tạm ứng
án phí mà Công ty TNHH Vận tải Biển Trường Tâm đã nộp theo biên lai thu tiền
tạm ứng án phí, lệ phí số 0002645 ngày 25/6/2024 của Chi cục Thi hành án dân s
huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Trả lại cho Công ty TNHH Vận tải Biển
Trường Tâm số tiền tạm ứng án phí 6.959.780 đồng.
Buộc Công ty TNHH TMV Thiên Huynh phải chịu 98.174.086 đồng để
nộp ngân sách Nhà nước.
- Về án phí dân sự phúc thẩm: Buộc Công ty TNHH TMV Thiên Huynh
phải chịu 2.000.000 đồng án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm. Được khấu trừ
vào số tiền 2.000.000 đồng tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo biên lai số
0002803 ngày 15/01/2025 tại Chi cục Thi hành án dân shuyện Bố Trạch, tỉnh
Quảng Bình.
Kể từ ngày người được thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi
hành án) hoặc kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án
(đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành
án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu
khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại
khoản 2 Điều 468 của Bộ Luật dân sự 2015
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền u cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
18
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án
dân sự, thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
thi hành án dân sự.
- Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, không bị
kháng nghị hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị
phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Biểu quyết:……………………………………………………………….
Việc nghị án kết thúc vào hồi.........giờ..........phút ngày.......tháng.......năm
2025. Biên bản nghị án đã được đọc lại cho tất cả thành viên Hội đồng xét xử cùng
nghe và ký tên dưới đây.
HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THÀNH VIÊN THẨM PHÁN
HỘI ĐỒNG XÉT X CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
19
Nơi nhận: T/M. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- VKSND tỉnh Quảng Bình; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- TAND huyện Bố Trạch;
- TACC tại Đà Nẳng ;
- VKSCC tại Đà Nẳng ;
- Chi cục THA thị xã Ba Đồn;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
Dương Viết Hải
20
[2.4]. Xét về yêu cầu bồi thường của Công ty Trường Tâm, thấy:
Đối với số tiền 2.613.752.460 đồng số tiền tổn thất hàng hóa thực tế,
Công ty Thiên Hngười vận chuyển lỗi để xảy ra sự cố làm hỏng toàn bộ
hàng hóa, như phân tích nhận định phần [2.3]. vậy, Công ty Thiên Hphải
trách nhiệm bồi thường giá trị hàng hóa bị hỏng toàn bộ cho Công ty Tlà phù
hợp với Hợp đồng vận chuyển hàng hóa hai bên đã kết quy định tại các
Điều 419, 534, 541 Bộ luật dân sự và các Điều 302, 303 Luật thương mại.
Đối với số tiền 167.969.950, đây một phần của stiền cước vận chuyển
Công ty Tđã chuyển cho Công ty Thiên Htrong việc thực hiện hợp đồng, trong
số tiền 167.969.950 120.000.000 chuyển bằng tiền mặt, tại phiên tòa phía Công
ty Thiên Hthừa nhận đã nhận, còn 35,35 lít dầu Diezel tương ứng với số tiền
47.969.950 đồng, Công ty Thiên Hnói đây số dầu chuyn cho tàu Nam Vchứ
không phải cho Công ty Thiên Huynh. Mặc thừa nhận đã nhận tiền nhưng
không thừa nhận trách nhiệm hoàn trả khẳng định Công ty N phải chịu trách
nhiệm. Quan hệ tranh chấp của vụ án quan hệ giữa Công ty Tvà Công ty Thiên
Huynh, không liên quan đến Công ty N, tàu Nam Vỹ nhận dầu nhưng lúc này
tàu Nam Vỹ do Công ty Thiên Hthuê đvận chuyển hàng cho Công ty Tnên thực
chất số dầu trên Công ty Thiên Hnhận (phù hợp với tên người nhận trong hóa
đơn thanh toán), quá trình vận chuyn để xảy ra lỗi làm hỏng hàng hóa. Như
vậy, Công ty Thiên Hđã vi phạm nghĩa vụ của người vận chuyển dẫn đến vi phạm
hợp đồng. Công ty Tyêu cầu Công ty Thiên Hphải bồi thường lại tiền cước phí vận
chuyển là có căn cứ theo quy định tại Điều 419, 534, 541 Bộ luật dân sự, cũng như
phù hợp với quy định tại các Điều 302, 303 Luật thương mại.
số tiền lãi 10%/năm t ngày 09/02/2018 đến ngày 13/6/2024
1.655.376.558 đồng.
- Số tiền ng ty Tđã thanh toán cho Công ty Thiên Huynh:
167.969.950 đồng số tiền lãi t ngày 26/7/2017 đến ngày 13/6/2024
115.479.341 đồng.
[4.2] Đối với lãi suất, phía nguyên đơn yêu cầu lãi suất 10% năm với số
tiền chậm thanh toán, xét lãi suất này phù hợp không vượt quá so với quy định
của ngân hàng nên được chấp nhận.
Đối với tiền lãi số tiền 2.613.752.460 đồng do chậm thanh toán theo
nguyên đơn yêu cầu phải tính lãi từ ngày 09/02/2018 đến ngày 13/6/2024 là
1.655.376.558 đồng. Hội đồng xét xử thấy nđã phân tích trên, xác định ngày
quyền lợi ích của nguyên đơn bị xâm phạm ngày 27/7/2022 nhưng nguyên
đơn không có yêu cầu bị đơn phải trả tiền nên không có cơ sở để xác định bị đơn vi
phạm nghĩa vụ thanh toán, Hội đồng xét xử xác định ngày bị đơn vi phạm nghĩa vụ
thanh toán là ngày 02/8/2022 (ngày nguyên đơn nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhân
dân thành phố Đồng Hới) nên chỉ chấp nhận tính tiền lãi từ ngày 02/8/2022 đến
ngày 13/6/2024 (ngày mà nguyên đơn yêu cầu) 22 tháng 22 ngày với stiền lãi
là 495.160.883 đồng là phù hợp với quy định tại Điều 306 Luật thương mi. Không
chấp nhận số tiền lãi còn lại là 1.160.215.675 đồng
21
Đối với tiền lãi số tiền 167.969.950 đồng do chậm thanh toán theo nguyên
đơn yêu cầu phải tính lãi từ ngày 26/7/2017 đến ngày 13/6/2024 115.479.341
đồng. Hội đồng xét xử chỉ chấp nhận tính tiền lãi từ ngày 02/8/2022 đến ngày
13/6/2024 22 tháng 22 ngày với số tiền lãi 31.820.983 đồng phù hợp với
quy định tại Điều 306 Luật thương mại. Không chấp nhận số tiền lãi còn lại
83.658.358 đồng.
Tổng cộng số tiền mà bị đơn Công ty Thiên Hphải bồi thường cho nguyên
đơn Công ty Tlà 3.308.704.276 đồng.
Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn đối với bị đơn vkhoản tiền i
là 1.243.874.033 đồng.
Xét số tiền 167.969.950 đồng mà Công ty Tyêu cầu, thấy. Đây một phần
của số tiền cước vận chuyển mà Công ty Tđã chuyển cho Công ty Thiên Htrong
việc thực hiện hợp đồng, trong đó 120.000.000 chuyển bằng tiền mặt, Công ty
Thiên Hthừa nhận đã nhận; còn 35,35 lít dầu Diezel tương ứng với số tiền
47.969.950 đồng, Công ty Thiên Hcho rằng đây số dầu chuyển cho tàu Nam Vỹ
chứ không phải cho Công ty Thiên Huynh. Mặc tàu Nam Vnhận dầu, nhưng
lúc này tàu Nam Vdo Công ty Thiên Hthuê để vận chuyển hàng cho Công ty
Tnên thực chất số dầu trên là Công ty Thiên Hnhận (phù hợp với tên người nhận
trong hóa đơn thanh toán), quá trình vận chuyển để xảy ra lỗi làm hỏng hàng
hóa, nên căn cứ xác định Công ty Thiên Hđã vi phạm nghĩa vụ của người vận
chuyển dẫn đến vi phạm hợp đồng. Vì vậy, Công ty Tyêu cầu Công ty Thiên Hphải
bồi thường lại tiền cước phí vận chuyển căn cứ theo quy định tại Điều 419,
534, 541 Bluật dân sự, cũng như phù hợp với quy định tại các Điều 302, 303
Luật thương mại.
là phù hợp với quy định tại Điều 306 Luật thương mại.
Xét lãi suất mà Công ty Tyêu cầu 10%/năm là phù hợp không vượt quá quy
định của pháp luật nên cần chấp nhận, nhưng về thời gian yêu cầu tính lãi chậm
thanh toán từ ngày 26/7/2017 đến ngày 13/6/2024 là 115.479.341 đồng, thấy: Như
phân tích nhận định trên, căn cứ xác định ngày 02/08/2022 ngày Công ty
Thiên Hvi phạm nghĩa vụ thanh toán. vậy, cần chấp nhận ngày Công ty Thiên
Hvi phạm thanh toán 02/08/2022 đến ngày 13/6/2024 (ngày Công ty Tyêu cầu) để
tính lãi chậm thanh toán 22 tháng 22 ngày, với số tiền 31.820.983 đồng là phù
hợp với quy định tại Điều 306 Luật thương mại.
22
Công ty Thiên Hngười vận chuyển lỗi gây thiệt hại về hàng hóa
2.400,140 tấn Clinke bị hư hỏng toàn bộ, số tiền 2.613.752.460 đồng, nên cần buộc
Công ty Thiên Hphải thanh toán toàn bộ giá trị hàng hóa b hư hỏng, trị giá
2.613.752.460 đồng cho Công ty Tlà có căn cứ,
, tại Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 06/2022/KDTM-PT ngày
27/7/2022 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình và Quyết định Giám đốc thẩm số:
05/2023/KDTM-T ngày 20/3/2023 của Toà án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng
đã hiệu lực pháp luật. Buộc Công ty Tphải trả số tiền 3.288.871.845 cho Tổng
công ty cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (trong đó: bồi
thường 2.400,140 tấn Clinke bị hỏng, số tiền 2.613.752.460 đồng; lãi
675.219.385 10% từ ngày 09/2/2018 đến ngày 24/12/2021). Đây tình tiết
không phải chứng minh theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 92 Bluật tố tụng
dân sự. vậy, Công ty Tyêu cầu Công ty Thiên Hphải có trách nhiệm thanh toán
cho Công ty Tkhoản tiền bồi thường thiệt hại mà Công ty Tphải bồi thường cho
Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng đầu và phát triển Việt Nam, số tiền
3.288.871.845 đồng theo Hợp đồng vận chuyển đã ký kết, phù hợp với Bản án của
Tòa án quyết định các điều 77, 79, 87, khoản 1, 5 Điều 173 Bộ luật Hàng hải
2005.
Về yêu cầu tính lãi suất của Công ty Ttrên số tiền 2.613.752.460 đồng bị
thiệt hại do chậm trả 10%/năm tính từ ngày 09/02/2018 đến ngày 13/6/2024,
nhưng việc Tòa án cấp thẩm xác định ngày 02/8/2022 (ngày nguyên đơn nộp
đơn khởi kiện tại Tòa án thành phố Đồng Hới) để tính i cho nguyên đơn chưa
chính xác, phải lấy ngày tiếp theo của quyết định của Bản án kinh doanh
thương mại phúc thẩm số 06/2022/KDTM-PT, ngày 24/12/2021 mới chính xác.
Tuy nhiên, Công ty Tkhông kháng cáo về nội dung này, nên Hội đồng xét x
không có căn cứ xem xét.
Tải về
Bản án số 03/2025/KDTM-PT Bản án số 03/2025/KDTM-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 03/2025/KDTM-PT Bản án số 03/2025/KDTM-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất