Bản án số 03/2025/HNGĐ-ST ngày 06/01/2025 của TAND tỉnh Thanh Hóa về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 03/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 03/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 03/2025/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 03/2025/HNGĐ-ST ngày 06/01/2025 của TAND tỉnh Thanh Hóa về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Thanh Hóa |
Số hiệu: | 03/2025/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 06/01/2025 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Anh K và chị H kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Trong cuộc sống, vợ chồng nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Vợ chồng ly thân nhau khoảng 10 năm nay. Chị H đi xuất khẩu lao động. Anh K làm đơn xin ly hôn chị H. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH THANH HÓA
Bản án số: 03/2025/HNGĐ-ST
Ngày: 06-01-2025
V/v: Ly hôn, tranh chấp
về nuôi con khi ly hôn.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Mai Nam Tiến
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Lê Hữu Tới
Bà Nguyễn Thị Mai Hoa
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Tài - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Thanh Hóa.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa tham gia phiên tòa: Ông
Nguyễn Văn Chùy - Kiểm sát viên.
Ngày 06 tháng 01 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa xét xử
sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 187/2024/TLST-HNGĐ ngày
23/10/2024 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa
vụ án ra xét xử sơ thẩm số 154/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 02/12/2024, giữa các
đương sự:
Nguyên đơn: Anh Đỗ Minh K, sinh năm 1987; số CCCD: 035087002453.
Nơi ĐKHKTT: Thôn 3 N, xã B, huyện B, tỉnh Hà Nam.
Nơi ở hiện nay: Hẻm 3, đường N, thành phố P, tỉnh Gia Lai.
Người đại diện theo ủy quyền của anh Đỗ Minh K về việc giao nộp văn bản tố
tụng tại Tòa án: bà Lê Thị T, sinh năm 2001; địa chỉ: LK 04, khu nhà ở sinh thái xanh
F, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.
Bị đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1987;
Địa chỉ trước khi xuất cảnh: thôn K, xã C, huyện C, tỉnh Thanh Hóa.
Nơi cư trú hiện nay: Đài Loan (Trung Quốc).
Tại phiên tòa vắng mặt anh K (đã có đơn xin vắng mặt), chị H.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nguyên
đơn là anh Đỗ Minh K trình bày:
2
1. Về hôn nhân: Anh và chị Nguyễn Thị H kết hôn với nhau trên cơ sở tự
nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân (UBND) xã B, huyện
B, tỉnh Hà Nam cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 13 ngày 18/01/2010.
Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được thời gian đầu thì phát
sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do hai vợ chồng thường xuyên bất đồng
về quan điểm sống, cãi vã, cuộc sống vợ chồng căng thẳng, mệt mỏi, không còn yêu
thương lẫn nhau. Mâu thuẫn đỉnh điểm nhất là vào cuối năm 2010, chị H đi làm ăn và
sinh sống tại Đài Loan (Trung Quốc) và không liên lạc gì với anh. Anh đã nhiều lần
cố gắng tìm cách liên lạc với chị H nhưng vẫn không có hồi âm và coi như từ đó đến
nay vợ chồng đã ly thân nhau. Anh biết chị H vẫn liên lạc với bố mẹ đẻ của chị ấy
nhưng anh liên hệ với bố mẹ đẻ của chị H thì bố mẹ đẻ của chị H cũng không hợp tác
cung cấp địa chỉ của chị H ở nước ngoài cho anh. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng
không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh
Thanh Hóa giải quyết cho anh được ly hôn với chị Nguyễn Thị H.
2. Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Đỗ Thị Ánh N, sinh ngày
22/9/2010. Do chị H đang ở nước ngoài nên anh đề nghị Tòa án giao cháu Đỗ Thị
Ánh N cho anh được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục. Về cấp dưỡng nuôi
con: Anh không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh.
3. Về tài sản chung và công nợ chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.
4. Anh K trình bày không biết địa chỉ cụ thể của chị Nguyễn Thị H tại Đài Loan
(Trung Quốc) nên không thể cung cấp cho Tòa án được. Chị H vẫn thường xuyên liên
lạc với gia đình bố mẹ đẻ chị H là ông Nguyễn Ngọc H1 và bà Lê Thị H2, địa chỉ tại
thôn K, xã C, huyện C, tỉnh Thanh Hóa. Đề nghị Tòa án tiến hành thu thập thêm
thông tin từ gia đình chị H.
* Tại buổi xác minh tại gia đình chị Nguyễn Thị H, Tòa án tiến hành lấy lời
khai của ông Nguyễn Ngọc H1. Tại biên bản lấy lời khai ngày 13/11/2024 và ngày
29/11/2024 ông H1 trình bày:
Ông là bố đẻ của chị Nguyễn Thị H và là bố vợ của anh Đỗ Minh K. Chị H và
anh K kết hôn vào khoảng đầu năm 2010, đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện B,
tỉnh Hà Nam. Sau khi kết hôn, vợ chồng anh chị làm ăn và sinh sống tại Hà Nam.
Được một thời gian ngắn đến khoảng cuối năm 2010 thì ông thấy vợ chồng các con
thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Đến năm 2011 thì chị H đưa con về nhà ông sinh
sống. Thời gian đó, gia đình đã cố gắng hòa giải cho hai con nhiều lần nhưng không
thành. Đến năm 2014, chị H đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan (Trung Quốc) và gửi
cháu Đỗ Thị Ánh N (sinh ngày 22/9/2010) cho vợ chồng ông chăm sóc. Hiện tại cháu
N đang ở với vợ chồng ông từ khi chị H đi nước ngoài đến bây giờ. Còn anh K, từ khi
chị H đi Đài Loan thì không về thăm con, cũng không hề cấp dưỡng gì cho con.
Gia đình ông vẫn thường xuyên liên lạc với chị H qua điện thoại, nhưng địa chỉ
cụ thể nơi sinh sống và làm việc của chị H thì ông không biết. Sau khi Tòa án thông
báo cho ông biết việc anh K làm đơn ly hôn chị H, ông, bà cũng đã thông báo cho chị
3
H biết. Ông thấy vợ chồng các con đã xảy ra mâu thuẫn từ lâu và ly thân cũng đã hơn
10 năm nay, tuy nhiên việc ly hôn là quyền của vợ chồng các con, ông không có ý
kiến gì mà đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Ông đồng ý thay chị H nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và sẽ có trách
nhiệm thông báo cho chị H biết.
* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa tại phiên tòa:
Quá trình giải quyết vụ án đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng
dân sự (BLTTDS).
Về nội dung: Căn cứ Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và
gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) chấp nhận đơn khởi kiện của anh Đỗ
Minh K, xử cho anh K được ly hôn chị Nguyễn Thị H; về con chung: giao cháu Đỗ
Thị Ánh N cho anh K trực tiếp nuôi dưỡng, chị H không phải cấp dưỡng nuôi con
chung; về tài sản chung và công nợ chung: không yêu cầu nên không xem xét giải
quyết; về án phí: anh K phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh
tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Về thẩm quyền của Tòa án:
Anh Đỗ Minh K là nguyên đơn đang cư trú tại tỉnh Gia Lai, bị đơn là chị
Nguyễn Thị H có đăng ký hộ khẩu tại xã C, huyện C, tỉnh Thanh Hóa nhưng hiện nay
đang sinh sống và làm việc tại Đài Loan (Trung Quốc). Trong vụ án này bị đơn cư trú
ở nước ngoài, tuy nhiên bị đơn có nơi cư trú cuối cùng tại huyện C, tỉnh Thanh Hóa.
Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; điểm c khoản 1 Điều 37 BLTTDS, vụ án
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa.
[1.2] Về việc tống đạt các văn bản tố tụng cho bị đơn:
Anh K chỉ cung cấp được địa chỉ nơi cư trú cuối cùng của chị H ở Việt Nam mà
không cung cấp được địa chỉ của chị H tại nước ngoài. Tòa án đã yêu cầu nhưng bố,
mẹ đẻ của chị H trình bày không biết địa chỉ chị H ở Đài Loan. Tuy nhiên, chị H vẫn
thường xuyên liên lạc về cho gia đình ông, bà, vậy nên bố chị H là ông Nguyễn Ngọc
H1 vẫn nhận các văn bản tố tụng để thông báo cho chị H, vì vậy, Tòa án giải quyết vụ
án theo thủ tục bị đơn cố tình giấu địa chỉ.
[1.3] Về sự vắng mặt của đương sự:
Tại phiên tòa, vắng mặt nguyên đơn anh Đỗ Minh K, anh K đã có đơn xin giải
quyết và xét xử vắng mặt, bị đơn chị Nguyễn Thị H vắng mặt mặc dù đã được Tòa án
tống đạt văn bản tố tụng qua người thân đến lần thứ hai. Do đó, HĐXX căn cứ vào
khoản 1 Điều 228; điểm b khoản 2 Điều 227 của BLTTDS, xét xử vắng mặt anh K và
chị H.
[2] Về nội dung:

4
[2.1] Về hôn nhân: Anh Đỗ Minh K và chị Nguyễn Thị H kết hôn với nhau trên
cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền là hôn nhân hợp pháp.
Trong lời khai, các tài liệu có liên quan trong vụ án, anh K trình bày: Sau khi kết
hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được thời gian đầu thì phát sinh mâu thuẫn.
Nguyên nhân mâu thuẫn là do hai vợ chồng thường xuyên bất đồng về quan điểm
sống, cãi vã, cuộc sống vợ chồng căng thẳng, mệt mỏi, không còn yêu thương lẫn
nhau. Mâu thuẫn đỉnh điểm nhất là vào cuối năm 2010, chị H đi làm ăn và sinh sống
tại Đài Loan (Trung Quốc) và không liên lạc gì với anh. Anh đã nhiều lần cố gắng tìm
cách liên lạc với chị H nhưng vẫn không có hồi âm và coi như từ đó đến nay vợ chồng
đã ly thân nhau.
Theo lời khai của ông Nguyễn Ngọc H1 là bố đẻ chị H thể hiện: Sau khi kết
hôn, vợ chồng anh chị làm ăn và sinh sống tại Hà Nam. Được một thời gian ngắn đến
khoảng cuối năm 2010 thì ông thấy vợ chồng các con thường xuyên xảy ra mâu
thuẫn. Đến năm 2011 thì chị H đưa con về nhà ông sinh sống. Thời gian đó, gia đình
đã cố gắng hòa giải cho hai con nhiều lần nhưng không thành. Vợ chồng anh chị đã ly
thân nhau hơn 10 năm nay.
Xét thấy quan hệ hôn nhân giữa anh K và chị H đã mâu thuẫn trầm trọng, vợ
chồng sống ly thân đã lâu, không ai quan tâm đến ai, mục đích hôn nhân không đạt
được. Do đó, căn cứ Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, chấp nhận cho anh
Đỗ Minh K được ly hôn với chị Nguyễn Thị H.
[2.2] Về con chung: Vợ chồng có một con chung là Đỗ Thị Ánh N, sinh ngày
22/9/2010. Anh K đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được trực tiếp nuôi dưỡng cháu
N và không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh. Nguyện vọng
của cháu N là được ở với mẹ và ông bà ngoại. Xét thấy, hiện nay chị H đang ở nước
ngoài, sẽ không có điều kiện trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc tốt cho con, do đó chấp
nhận yêu cầu của anh K, giao cháu N cho anh K trực tiếp nuôi dưỡng, chị H không phải
cấp dưỡng nuôi con chung do anh K không yêu cầu là phù hợp với quy định của pháp
luật.
[2.3] Về tài sản và công nợ chung: Anh K không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên
HĐXX không xem xét. Chị H không có văn bản thể hiện quan điểm giải quyết về tài
sản và công nợ chung nên nếu sau này chị H có yêu cầu thì có quyền khởi kiện yêu
cầu Tòa án giải quyết bằng một vụ án khác.
[3] Về án phí: Anh Đỗ Minh K là nguyên đơn trong vụ án ly hôn nên phải chịu
án phí ly hôn sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, khoản 1 Điều 37, điểm b khoản
2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, khoản 4 Điều 147, Điều 271, khoản 1 Điều 273, khoản
2 Điều 479 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật
Hôn nhân và gia đình; Điều 10 Nghị quyết số 01/2024/NQ-HĐTP ngày 16/5/2024 của

5
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định
của pháp luật trong giải quyết vụ việc về hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 1 Điều
24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án:
Xử:
1. Chấp nhận đơn khởi kiện của anh Đỗ Minh K:
- Về hôn nhân: Cho anh Đỗ Minh K được ly hôn với chị Nguyễn Thị H.
- Về con chung: Giao cháu Đỗ Thị Ánh N, sinh ngày 22/9/2010 cho anh Đỗ
Minh K trực tiếp nuôi dưỡng, chị Nguyễn Thị H không phải cấp dưỡng nuôi con
chung cùng anh K. Chị H có quyền qua lại thăm nom con chung, không ai được cản
trở.
2. Về án phí: Anh Đỗ Minh K phải chịu án phí DSST về việc ly hôn là
300.000đ (ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí DSST đã
nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án
số 0000614 ngày 22/10/2024 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Thanh Hóa, anh K đã
nộp đủ án phí DSST.
3. Về quyền kháng cáo: Anh Đỗ Minh K có quyền kháng cáo bản án trong thời
hạn 15 ngày, chị Nguyễn Thị H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng
ngày kể từ ngày nhận được bản án, bản án được tống đạt hợp lệ hoặc bản án được
niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật./.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSND tỉnh Thanh Hóa (P9);
- Cục THADS tỉnh Thanh Hóa;
- UBND xã B, huyện B,
tỉnh Hà Nam;
- Lưu HSVA, Tòa GĐ&NCTN.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Mai Nam Tiến

6
HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
HỘI THẨM NHÂN DÂN THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Hữu Tới Nguyễn Thị Mai Hoa Mai Nam Tiến
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 18/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 14/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 13/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 12/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 12/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 07/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 07/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 05/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 05/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm