Bản án số 02/2025/DS-ST ngày 25/04/2025 của TAND huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai về tranh chấp hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 02/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 02/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 02/2025/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 02/2025/DS-ST ngày 25/04/2025 của TAND huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai về tranh chấp hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Bát Xát (TAND tỉnh Lào Cai) |
Số hiệu: | 02/2025/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 25/04/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tuyên bố HĐ chuyển nhượng đất vô hiệu |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN B
TỈNH LÀO CAI
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 02/2025/DSST
Ngày 25 - 04 - 2025
V/v Tuyên bố hợp đồng
chuyển nhượng QSDĐ vô hiệu.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH LÀO CAI
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên toà: Bà Đỗ Thị Thanh Hương
Các Hội thẩm nhân dân:1. Bà Tưởng Thị Tuyết
2. Ông Lương Văn Thắng
- Thư ký phiên tòa: Bà Phạm Thị Minh Lý – Thư ký Toà án nhân dân huyện
B, tỉnh Lào Cai
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh LàoCai tham gia phiên tòa:
Ông Nông Văn Nghiệp – Kiểm sát viên.
Trong các ngày 02, 25 tháng 04 năm 2025, tại Trụ sở tòa án nhân dân huyện
B, tỉnh Lào Cai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Dân sự thụ lý số: 19/2024/TLST-
DS ngày 28 tháng 10 năm 2024 về việc: " Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng
QSDĐ vô hiệu” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2025/QĐXX-ST ngày
19 tháng 02 năm 2025 và Quyết định hoãn phiên tòa số 02/2025/QĐST – DS ngày
06/03/2025; Quyết định ngưng phiên tòa số 01/2025/QĐXXST –DS ngày
02/04/2025 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Anh Nguyễn Viết X
Địa chỉ: thôn X, xã H, huyện V, tỉnh Bắc Giang (Vắng mặt)
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Trần Mạnh H
Địa chỉ: Số 007 phố T, phường C, thành phố L (Có mặt)
Bị đơn: Anh Nguyễn Văn C
Địa chỉ: Số nhà 022, phố P, phường D, thành phố L. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trong đơn khởi kiện, tại bản tự khai và trong quá trình tham gia tố tụng,
người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Trần Mạnh H trình bày:
Năm 2022 qua một số người quen giới thiệu anh Nguyễn Viết X quen biết vợ
chồng anh Nguyễn Văn C và chị Phạm Thị T. Ngày 29/08/2022 Anh Nguyễn Viết
X có nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của anh Nguyễn Văn C 02 thửa đất
2
gồm: Thửa 1 khoảng 350 m
2
đất, trên đất có 01 ngôi nhà cấp IV (đất chưa có giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất) địa chỉ tại thôn Ngải Thầu Thượng, xã A Lù,
huyện B, tỉnh Lào Cai, nguồn gốc thửa đất anh Nguyễn Văn C nhận chuyển
nhượng của hộ gia đình ông Thào A Chao. Thửa thứ 2 khoảng 1250,0m
2
(đất chưa
có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) địa chỉ tại thôn Ngải Thầu Thượng, xã A
Lù, huyện B, tỉnh Lào Cai, nguồn gốc thửa đất anh Nguyễn Văn C nhận chuyển
nhượng của hộ gia đình Sùng A Chí. Tại văn bản thỏa thuận chuyển nhượng quyền
sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ký ngày 29/08/2022 giữa anh Nguyễn Văn C
và anh Nguyễn Viết X do nguyên đơn đánh máy trên cơ sở các thông tin mà các
bên đưa ra, tại buổi ký kết văn bản thỏa thuận anh Nguyễn Văn C đưa thông tin
của chị Phạm Thị T (vợ của anh Nguyễn Văn C) để anh Nguyễn Viết X viết tay
vào bản thỏa thuận, tại thời điểm ký văn bản thỏa thuận chị Phạm Thị T không có
mặt và cũng không ký tên vào văn bản thỏa thuận. Trong văn bản thỏa thuận hai
bên đều xác nhận đất đã được bên A (Nguyễn Văn C) thuê đo đạc, địa chính cụ
thể, có các hộ giáp ranh ký xác nhận nhưng chưa được cơ quan có thẩm quyền
thẩm định phê duyệt (Có hợp đồng chuyển nhượng đất giữa bên A và hộ ông Thào
A Chao, Sùng A Chí kèm theo, có ảnh chụp kết quả đo đạc đất), hai bên thỏa thuận
quyền và nghĩa vụ của anh Nguyễn Văn C (bên A) “ Bên A cam kết và đảm bảo sẽ
có nghĩa vụ cung cấp cho bên B (Nguyễn Viết X) các giấy tờ cần thiết liên quan
đến 02 hộ ông Thào A Chao và Sùng A Chí và đảm bảo việc các thành viên liên
quan đến hai hộ gia đình nêu trên cũng như các hộ giáp ranh ký hoặc điểm chỉ vào
các giấy tờ có liên quan để bên B ( anh Nguyễn Viết X) làm các thủ tục đo vẽ ,
thẩm định, xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên 02 hộ gia đình
nêu trên” “ Sau khi hộ ông Thào A Chao và Sùng A Chí được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, bên A (anh Nguyễn Văn C)cam kết và đảm bảo sẽ có nghĩa vụ
yêu cầu các thành viên trong hai hộ gia đình nêu trên cung cấp giấy tờ cần thiết và
ký tên điểm chỉ vào hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bên B (anh
Nguyễn Viết X). Giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất
của hai thửa đất trên là 1.600.000.000 đồng (Một tỷ sáu trăm triệu đồng), hình thức
thanh toán bằng tiền mặt VNĐ và chuyển khoản chia làm 2 đợt, đợt 1 tính đến
ngày 28/8/2022 bên B (Anh Nguyễn Viết X) đã giao cho bên A (Anh Nguyễn Văn
C) bằng hình thức chuyển khoản và tiền mặt số tiền là 1.000.000.000 đồng (Một tỷ
đồng), đợt 2 số tiền còn lại sẽ thanh toán cho bên A (Anh Nguyễn Văn C) khi hoàn
thành đăng ký trích lục huyện. Đến ngày 09/09/2022 anh Nguyễn Viết X đã giao
cho anh Nguyễn Văn C số tiền 150.000.000 đồng (Một trăm lăm mươi triệu đồng).
Tổng số tiền anh Nguyễn Viết X đã giao cho anh Nguyễn Văn C số tiền là:
1.150.000.000 đồng (Một tỷ một trăm lăm mươi triệu đồng).
3
Sau khi ký văn bản thỏa thuận anh Nguyễn Viết X đã nhiều lần yêu cầu anh
Nguyễn Văn C thực hiện việc xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ
ông Thào A Chao và hộ ông Sùng A Chí để chuyển nhượng sang cho anh Nguyễn
Viết X như thỏa thuận nhưng anh Nguyễn Văn C không thực hiện thủ tục xin cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, anh Nguyễn Viết X cho rằng cả xã không ai
làm được nên phải đợi, anh Nguyễn Viết X đã trao đổi với anh Nguyễn Văn C về
việc không làm được giấy chứng nhận để chuyển nhượng thì anh Nguyễn Văn C
trả sổ tiền đã nhận của anh Nguyễn Viết X hai bên chấm dứt sự thỏa thuận đã ký
ngày 29/08/2022 nhưng anh Nguyễn Văn C không đồng ý kéo dài thời gian đến
nay đã hơn hai năm anh Nguyễn Văn C vẫn chưa thực hiện được theo văn bản thỏa
thuận đã ký giã hai bên.
Vì vậy anh Nguyễn Viết X đã làm đơn khởi kiện yêu cầu Toà án nhân dân
huyện B, tỉnh Lào Cai giải quyết tuyên bố văn bản thỏa thuận chuyển nhượng
quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất lập ngày 29/08/2022 giữa bên anh
Nguyễn Văn C và anh Nguyễn Viết X là vô hiệu. Buộc anh Nguyễn Văn C và bà
Phạm Thị T phải có trách nhiệm liên đới hoàn trả lại cho anh Nguyễn Viết X số
tiền 1.150.000.000đồng (Một tỷ một trăm lăm mươi triệu đồng).
Trong bản tự khai và trong quá trình tham gia tố tụng bị đơn anh Nguyễn
Văn C trình bày:
Ngày 29/08/2022 anh Nguyễn Văn C có chuyển nhượng lại cho anh Nguyễn
Viết X gồm 02 thửa đất: Thửa 1 khoảng 350 m
2
đất, trên đất có 01 ngôi nhà cấp
IV (đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) địa chỉ tại thôn Ngải Thầu
Thượng, xã A Lù, huyện B, tỉnh Lào Cai, nguồn gốc thửa đất anh Nguyễn Văn C
nhận chuyển nhượng của hộ gia đình ông Thào A Chao. Thửa thứ 2 khoảng
1250,0m
2
(đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) địa chỉ tại thôn Ngải
Thầu Thượng, xã A Lù, huyện B, tỉnh Lào Cai, nguồn gốc thửa đất anh Nguyễn
Văn C nhận chuyển nhượng của hộ gia đình Sùng A Chí. Khi làm văn bản thỏa
thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất có anh Nguyễn
Viết X và anh Nguyễn Văn C, không có Phạm Thị T lúc đó anh Nguyễn Viết X có
hỏi tôi cho mượn chứng minh nhân dân của Phạm Thị T (vợ Nguyễn Văn C) để có
căn cứ là vợ chồng nên tôi đã đưa cho anh Nguyễn Viết X và viết tên Phạm Thị T
vào văn bản thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với
đất, thực tế việc mua bán đất chị Phạm Thị T không biết gì và cũng không tham gia
vào, số tiền tôi đi mua đất của ông Thào A Chao và ông Sùng A Chí là tài sản
riêng của anh Nguyễn Văn C không liên quan đến tài sản chung của anh Nguyễn
Văn C và chị Phạm Thị T. Sau khi ký văn bản thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử
dụng đất và tài sản gắn liền với đất anh Nguyễn Viết X đã chuyển cho anh Nguyễn
4
Văn C số tiền 1.000.000.000 đồng (Một tỷ đồng). Đến ngày 09/09/2022 anh
Nguyễn Viết X đã giao cho anh Nguyễn Văn C số tiền 150.000.000 đồng (Một
trăm lăm mươi triệu đồng). Tổng số tiền anh Nguyễn Viết X đã giao cho anh
Nguyễn Văn C số tiền là: 1.150.000.000 đồng (Một tỷ một trăm lăm mươi triệu
đồng) số tiền này sau khi nhận anh Nguyễn Văn C đã sử dụng riêng không đưa vào
tài sản chung của gia đình, cũng không nói cho chị Phạm Thị T biết anh có số tiền
trên.
Đến nay anh Nguyễn Viết X đã làm đơn khởi kiện yêu cầu Toà án nhân dân
huyện B, tỉnh Lào Cai giải quyết tuyên bố văn bản thỏa thuận chuyển nhượng
quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất lập ngày 29/08/2022 giữa bên anh
Nguyễn Văn C và anh Nguyễn Viết X là vô hiệu. Buộc anh Nguyễn Văn C và bà
Phạm Thị T phải có trách nhiệm liên đới hoàn trả lại cho anh Nguyễn Viết X số
tiền 1.150.000.000đồng (Một tỷ một trăm lăm mươi triệu đồng). Anh Nguyễn Văn
C không nhất trí với yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Viết X vì anh Nguyễn Văn
C cho rằng việc mua bán và ký văn bản thỏa thuận về việc chuyển nhượng quyền
sử dụng đất không liên quan đến chị Phạm Thị T và anh Nguyễn Văn C cho rằng
anh Nguyễn Văn C đã cung cấp đầy đủ thông tin và hồ sơ cũng như xin xác nhận
của các hộ giáp ranh và giao cho anh Nguyễn Viết X. Đến nay anh Nguyễn Văn C
yêu cầu anh Nguyễn Viết X phải tiếp tục thực hiện theo văn bản thỏa thuận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất còn phải thanh toán tiếp cho
anh Nguyễn Văn C số tiền còn thiếu là 450.000.000 đồng (Bốn trăm năm mươi
triệu đồng).
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành cấp, tống đạt, thông
báo các văn bản tố tụng của Tòa án cho các đương sự đầy đủ, đảm bảo theo quy
định của pháp luật người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, bị đơn đã có
đầy đủ lời khai trong hồ sơ.
Sau khi thụ lý vụ án Tòa án nhân dân huyện B đã tống đạt các văn bản tố tụng
cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án chị Phạm Thị T. Ngày
27/11/2024 chị Phạm Thị T nộp đơn đề nghị và làm bản tự khai, tại đơn đề nghị đề và
bản tự khai chị Phạm Thị T viết có nội dung: Anh Nguyễn Viết X và anh Nguyễn Văn
C có ký văn bản thỏa thuận về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn
liền với đất và thỏa thuận giá chuyển nhượng bao nhiêu chị Phạm Thị T không biết,
chị Phạm Thị T không được ký vào biên bản thỏa thuận về việc chuyển nhượng
quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, số tiền anh Nguyễn Văn C mua đất của
ông Thào A Chao và ông Sùng A Chí là tài sản riêng của anh Nguyễn Văn C, số tiền
anh Nguyễn Văn C nhận từ anh Nguyễn Viết X là bao nhiêu chị Phạm Thị T không
được biết. Vì vậy anh Nguyễn Viết X khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết buộc chị
5
Phạm Thị T phải liên đới với anh Nguyễn Văn C thanh toán cho anh Nguyễn Viết X
số tiền 1.150.000.000đồng (Một tỷ một trăm lăm mươi triệu đồng) với tư cách là
người liên quan trong vụ án. Chị Phạm Thị T không nhất trí từ chối tham gia tố
tụng và đề nghị Tòa án không đưa vào tham gia tố tụng với tư cách là người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án này.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Lào Cai phát
biểu quan điểm: Đây là vụ án“Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất vô hiệu”, Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Lào Cai thụ lý là đúng thẩm quyền.
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm
phán, thư ký tòa án và Hội đồng xét xử. Việc chấp hành pháp luật của người tham
gia tố tụng dân sự đã được thực hiện theo đúng trình tự thủ tục tố tụng.
Về quan điểm giải quyết vụ án:
Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 5, khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1
Điều 35; điểm c khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 147; Điều 157 của Bộ luật Tố tụng
dân sự; khoản 2 Điều 26, điểm b khoản 3 Điều 27 của Nghị Quyết
326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí tòa án.
Căn cứ khoản 1 Điều 102; điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 117; Điều 119; Điều
122; Điều 129; Điều 131; khoản 1 Điều 212; Điều 500; Điều 501; Điều 502; Điều
503 của Bộ luật Dân sự; khoản 10 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013.
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Nguyễn Viết X:
Tuyên bố Văn bản thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất chuyển nhượng
quyền sử dụng và tài sản gắn liền với đất ngày 29/08/2022 giữa anh Nguyễn Viết
X và anh Nguyễn Văn C vô hiệu.
Buộc anh Nguyễn Văn C phải trả cho anh Nguyễn Viết X số tiền
1.150.000.000đồng (Một tỷ một trăm lăm mươi triệu đồng).
Tuyên án phí, chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và quyền kháng cáo cho các
đương sự theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn nộp đầy đủ các chứng cứ theo quy định.
Tranh chấp cần giải quyết trong vụ án là tranh chấp liên quan đến tuyên bố hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất vô hiệu giữa
6
Anh Nguyễn Văn C và anh Nguyễn Viết X thỏa thuận chuyển nhượng 02 thửa đất
tại thôn Ngải Thầu Thượng, xã A Lù, huyện B, tỉnh Lào Cai. Vì vậy thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện B theo quy định tại khoản 3 Điều 26;
điểm a khoản 1 Điều 35; điểm c khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Quá
trình giải quyết vụ án Toà án nhân dân huyện B, tỉnh Lào Cai đã tiến hành cấp, tống
đạt, thông báo các văn bản tố tụng của Tòa án cho các đương sự theo đúng quy định
của pháp luật. Tại phiên tòa ngày 02/04/2025 người đại diện theo ủy quyền của
nguyên đơn và bị đơn đã đề nghị Tòa án tạm ngưng phiên tòa để họ tự hòa giải theo
quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 259 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử
thảo luận nhất trí và ra quyết đinh tạm ngưng phiên tòa số 01/2025/QĐXXST- DS
ngày 02/04/2025 phiên tòa được tiếp tục xét xử vào ngày 25/04/2025 và đã tống đạt
cho các đương đúng quy định của pháp luật nhưng tại phiên tòa ngày 25/04/2025 bị
đơn anh Nguyễn Văn C không tiếp tục tham gia phiên tòa, không có văn bản hay ý
kiến gì về việc vắng mặt vì vậy Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án vắng mặt bị đơn
anh Nguyễn Văn C theo quy định tại khoản 2 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố
tụng dân sự.
Ngày 27/11/204 có chị Phạm Thị T là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
nộp có nộp đơn nghị gửi Tòa án nhân dân huyện B với nội dung: Anh Nguyễn Viết X
và anh Nguyễn Văn C có ký văn bản thỏa thuận về việc chuyển nhượng quyền sử
dụng đất và tài sản gắn liền với đất và thỏa thuận giá chuyển nhượng bao nhiêu chị
Phạm Thị T không biết, chị Phạm Thị T không được ký vào biên bản thỏa thuận về
việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, số tiền anh
Nguyễn Văn C mua đất của ông Thào A Chao và ông Sùng A Chí là tài sản riêng của
anh Nguyễn Văn C, số tiền anh Nguyễn Văn C nhận từ anh Nguyễn Viết X là bao
nhiêu chị Phạm Thị T không được biết. Vì vậy anh Nguyễn Viết X khởi kiện đề nghị
Tòa án giải quyết buộc chị Phạm Thị T phải liên đới với anh Nguyễn Văn C thanh
toán cho anh Nguyễn Viết X số tiền 1.150.000.000đồng (Một tỷ một trăm lăm mươi
triệu đồng) với tư cách là người liên quan trong vụ án. Chị Phạm Thị T không nhất
trí từ chối tham gia tố tụng và đề nghị Tòa án không đưa vào tham gia tố tụng với
tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án này. Quá trình giải
quyết vụ án anh Nguyễn Viết X, anh Nguyễn Văn C đều xác định chị Phạm Thị T
không có mặt, không tham gia ký vào văn bản thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử
dụng đất và tài sản gắn liền với đất, không nhận tiền từ anh Nguyễn Viết X và anh
Nguyễn Văn C, chị Phạm Thị T không liên quan đến việc thỏa thuận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa anh Nguyễn Viết X và anh Nguyễn Văn C. Vì vậy
Tòa án nhân dân huyện B không triệu tập chị Phạm Thị T là người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan trong vụ án này là đúng quy định của pháp luật.
7
Quá trình giải quyết vụ án, toà án tiến hành thu thập chứng cứ bằng biện pháp
thẩm định. Tại phiên toà hôm nay có sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân huyện
B, tỉnh Lào Cai theo quy định tại khoản 2 Điều 21 của Bộ luật Tố tụng dân sự là phù
hợp, đúng với quy định của pháp luật.
[2] Về nội dung vụ án: Ngày 29/08/2022 Anh Nguyễn Viết X có nhận
chuyển nhượng quyền sử dụng đất của anh Nguyễn Văn C 02 thửa đất gồm: Thửa
1 khoảng 350 m
2
đất, trên đất có 01 ngôi nhà cấp IV (đất chưa có giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất) địa chỉ tại thôn Ngải Thầu Thượng, xã A Lù, huyện B, tỉnh Lào
Cai, nguồn gốc thửa đất anh Nguyễn Văn C nhận chuyển nhượng của hộ gia đình
ông Thào A Chao. Thửa thứ 2 khoảng 1250,0m
2
(đất chưa có giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất) địa chỉ tại thôn Ngải Thầu Thượng, xã A Lù, huyện B, tỉnh Lào
Cai, nguồn gốc thửa đất anh Nguyễn Văn C nhận chuyển nhượng của hộ gia đình
Sùng A Chí, (Có hợp đồng chuyển nhượng đất giữa bên A và hộ ông Thào A
Chao, Sùng A Chí kèm theo, có ảnh chụp kết quả đo đạc đất), hai bên thỏa thuận
quyền và nghĩa vụ của anh Nguyễn Văn C (bên A) “ Bên A cam kết và đảm bảo sẽ
có nghĩa vụ cung cấp cho bên B (Nguyễn Viết X) các giấy tờ cần thiết liên quan
đến 02 hộ ông Thào A Chao và Sùng A Chí và đảm bảo việc các thành viên liên
quan đến hai hộ gia đình nêu trên cũng như các hộ giáp ranh ký hoặc điểm chỉ vào
các giấy tờ có liên quan để bên B ( anh Nguyễn Viết X) làm các thủ tục đo vẽ ,
thẩm định, xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên 02 hộ gia đình
nêu trên” “ Sau khi hộ ông Thào A Chao và Sùng A Chí được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, bên A (anh Nguyễn Văn C)cam kết và đảm bảo sẽ có nghĩa vụ
yêu cầu các thành viên trong hai hộ gia đình nêu trên cung cấp giấy tờ cần thiết và
ký tên điểm chỉ vào hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bên B (anh
Nguyễn Viết X). Giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất
của hai thửa đất trên là 1.600.000 đồng (Một tỷ sáu trăm triệu đồng), hình thức
thanh toán bằng tiền mặt VNĐ và chuyển khoản chia làm 2 đợt, đợt 1 tính đến
ngày 28/8/2022 bên B (Anh Nguyễn Viết X) đã giao cho bên A (Anh Nguyễn Văn
C) bằng hình thức chuyển khoản và tiền mặt số tiền là 1.000.000.000 đồng (Một tỷ
đồng), đợt 2 số tiền còn lại sẽ thanh toán cho bên A (Anh Nguyễn Văn C) khi hoàn
thành đăng ký trích lục huyện. Đến ngày 09/09/2022 anh Nguyễn Viết X đã giao
cho anh Nguyễn Văn C số tiền 150.000.000 đồng (Một trăm lăm mươi triệu đồng).
Tổng số tiền anh Nguyễn Viết X đã giao cho anh Nguyễn Văn C số tiền là:
1.150.000.000 đồng (Một tỷ một trăm lăm mươi triệu đồng). Tại bản tự khai người
đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn và bị đơn đều xác định vào ngày
29/08/2022 có ký Văn bản thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản
gắn liền với đất cho anh Nguyễn Viết X 02 thửa đất trên (Đất chưa có giấy chứng
8
nhận quyền sử dụng đất) và anh Nguyễn Văn C đã nhận được số tiền
1.150.000.000 đồng (Một tỷ một trăm lăm mươi triệu đồng).
[3] Xét tính hợp pháp của Văn bản thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử
dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 29/08/2022.
[3.1] Về hình thức của hợp đồng: Tại văn bản thỏa thuận chuyển nhượng
quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất anh Nguyễn Văn C và anh Nguyễn
Viết X đều có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, anh Nguyễn Văn C xác định việc
thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất 02 thửa đất gồm: Thửa 1 khoảng 350
m
2
đất, trên đất có 01 ngôi nhà cấp IV có địa chỉ tại thôn Ngải Thầu Thượng, xã A
Lù, huyện B, tỉnh Lào Cai, nguồn gốc thửa đất anh Nguyễn Văn C nhận chuyển
nhượng của hộ gia đình ông Thào A Chao. Thửa thứ 2 khoảng 1250,0m
2
taị địa chỉ
tại thôn Ngải Thầu Thượng, xã A Lù, huyện B, tỉnh Lào Cai, nguồn gốc thửa đất
anh Nguyễn Văn C nhận chuyển nhượng của hộ gia đình Sùng A Chí, (Có hợp
đồng chuyển nhượng đất giữa bên A và hộ ông Thào A Chao, Sùng A Chí kèm
theo, có ảnh chụp kết quả đo đạc đất) chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Anh Nguyễn Viết X và anh Nguyễn Văn C thỏa thuận trong văn bản thỏa
thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất “ Bên A cam
kết và đảm bảo sẽ có nghĩa vụ cung cấp cho bên B (Nguyễn Viết X) các giấy tờ cần
thiết liên quan đến 02 hộ ông Thào A Chao và Sùng A Chí và đảm bảo việc các
thành viên liên quan đến hai hộ gia đình nêu trên cũng như các hộ giáp ranh ký
hoặc điểm chỉ vào các giấy tờ có liên quan để bên B ( anh Nguyễn Viết X) làm các
thủ tục đo vẽ , thẩm định, xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên 02
hộ gia đình nêu trên” “ Sau khi hộ ông Thào A Chao và Sùng A Chí được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, bên A (anh Nguyễn Văn C)cam kết và đảm bảo sẽ
có nghĩa vụ yêu cầu các thành viên trong hai hộ gia đình nêu trên cung cấp giấy tờ
cần thiết và ký tên điểm chỉ vào hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho
bên B (anh Nguyễn Viết X). Nhưng anh Nguyễn Văn C không thực hiện đúng theo
mục 3.1 Điều 3 về quyền và nghĩa vụ của các bên sự trong văn bản thỏa thuận
chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Như vậy có cơ sở để
khẳng định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 29/08/2022 vô hiệu
về mặt hình thức theo quy định tại 129 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
[3.2] Về nội dung của hợp đồng: Căn cứ vào văn bản thỏa thuận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa anh Nguyễn Văn C và
anh Nguyễn Viết X Thửa 1 khoảng 350 m
2
đất, trên đất có 01 ngôi nhà cấp IV có
địa chỉ tại thôn Ngải Thầu Thượng, xã A Lù, huyện B, tỉnh Lào Cai, nguồn gốc
thửa đất anh Nguyễn Văn C nhận chuyển nhượng của hộ gia đình ông Thào A
Chao. Thửa thứ 2 khoảng 1250,0m
2
taị địa chỉ tại thôn Ngải Thầu Thượng, xã A
9
Lù, huyện B, tỉnh Lào Cai, nguồn gốc thửa đất anh Nguyễn Văn C nhận chuyển
nhượng của hộ gia đình Sùng A Chí và kết quả xem xét thẩm định tại chỗ ngày
15/01/2025 thì diện tích đất thì diện tích đất chuyển nhượng trong văn bản thỏa
thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất có sự chênh lệch về thửa đất cụ thể:
Về hiện trạng thực tế:
+ Đối với thửa đất diện tích khoảng 350.0m
2
sau khi đơ đạc theo hiện trạng
thực tế và thống nhất về ranh giới thửa đât có diện tích là 395,7m
2
đang sử dụng
vào mục đích trồng cây hàng năm.
Về tài sản trên đất: gồm có 01 ngôi nhà cấp IV có diện tích 45.8m
2
, 01 gian
bếp gỗ có diện tích 30,8m
2
, 01 chuồng lợn có diện tích là 6,3m
2
(đất chưa có giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất) tại địa chỉ thôn Ngải Thầu Thượng, xã A Lù,
huyện B, tỉnh Lào Cai.
Về tứ cận:
Phía Đông giáp đất hộ ông Sùng A Sùng, Sùng A Dế, Sùng A Dư chiều dài
cạnh: 28.51m
Phía Tây giáp đất đường liên thôn chiều dài cạnh 10.39m
Phía Nam giáp đất hộ ông Thào A Páo, Thào A Hừ chiều dài cạnh 39.28m
Phía Bắc giáp rãnh thoát nước chiều dài 24.36m
+ Đối với thửa đất có diện tích khoảng 1250.0m
2
, sau khi đo đạc theo hiện
trạng thực tế và thống nhất về ranh giới, thửa đất có tổng diện tích là 1192.9m
2
,
trong đó có:
01 Thửa đất trồng cây hằng năm có diện tích là 904.7 m
2
04 Thửa đất ruộng bên nguyên đơn và bị đơn xác nhận là nằm trong ranh giới
mua bán có diện tích 191.6m
2
01 Thửa đất ruộng bên nguyên đơn và bị đơn chưa thống nhất được diện tích
mua bán, vì có diện tích 96.6m
2
đang quy chủ là hộ ông Vàng A Sì.
Hiện trạng sử dụng trên diện tích đất không có công trình xây dựng, có 02 cây
lê và 03 cây tống quán sủ.
Về tứ cận:
Phía Đông giáp đất hộ ông Hầu A Sáng, Sùng A Dế, Thào A Chính
Phía Tây giáp đất đường liên thôn
Phía Nam giáp đất rãnh thoát nước
10
Phía Bắc giáp đất hộ ông Vàng A Quả, Vàng A Tỉnh
+ Về pháp lý thửa đất: Đối chiếu kết quả kiểm tra hiện trạng 02 thửa đất nhận
thấy:
- Khoảng 395,7m
2
, trên đất có 01 ngôi nhà xây cấp IV (Đất chưa có giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất) tại địa chỉ thôn Ngải Thầu Thượng, xã A Lù,
huyện B, tỉnh Lào Cai.
- Khoảng 1192,9m
2
(Đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) tại
địa chỉ thôn Ngải Thầu Thượng, xã A Lù, huyện B, tỉnh Lào Cai.
Đối với việc xem xét thẩm định tại chỗ về diện tích đất mua bán trong hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với diện tích đất đo đạc thực tế có sự
chênh lệch về thửa đất cả nguyên đơn và bị đơn đều đồng ý và không có kiến gì.
Vì vậy nguyên đơn anh Nguyễn Viết X để nghị Tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ngày 29/08/2022 vô hiệu là có căn cứ cần chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
[4] Về giải quyết hậu quả pháp lý của việc tuyên bố Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ngày 29/08/2022 là vô hiệu.
Nguyên đơn anh Nguyễn Viết X đã thanh toán tiền chuyển nhượng quyền sử
dụng đất cho anh Nguyễn Văn C số tiền là: 1.150.000.000 đồng (Một tỷ một trăm
lăm mươi triệu đồng). Các bên đã xác nhận Văn bản thỏa thuận chuyển nhượng
quyền sử dụng đất và biên bản giao nhận tiền là đã nhận được số tiền trên. Hội
đồng xét xử căn cứ vào khoản 1, khoản 2 Điều 131 của Bộ luật Dân sự năm 2015
quy định “Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập”.“Khi
giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả lại
cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật
thì trị giá thành tiền để hoàn trả”. Hiện nay diện tích đất mua bán như trong hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất anh Nguyễn Văn C vẫn đang là người
quản lý sử dụng. Buộc bị đơn anh Nguyễn Văn C phải có trách nhiệm trả cho anh
Nguyễn Viết X số tiền 1.150.000.000 đồng (Một tỷ một trăm lăm mươi triệu đồng)
ngoài ra không yêu cầu khoản bồi thường nào khác là phù hợp với quy định của
pháp luật cần chấp nhận.
[5] Về chứng cứ: Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã ra quyết định yêu cầu bị
đơn cung cấp chứng cứ nhưng bị đơn không cung cấp được chứng cứ gì. Các đương
sự không cung cấp bổ sung tài liệu, chứng cứ gì mới, do đó Hội đồng xét xử căn cứ
11
tài liệu, chứng cứ mà đương sự đã giao nộp và Tòa án đã thu thập theo khoản 1 Điều
96 của Bộ luật Tố tụng dân sự có trong hồ sơ để giải quyết vụ án.
[6] Về án phí: Nghĩa vụ chịu án phí và chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: Do
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận, bị đơn phải chịu tiền án phí
dân sự sơ thẩm và phải chịu toàn bộ tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 5, khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm c khoản 1
Điều 39; khoản 1 Điều 147; Điều 157; khoản 1 Điều 227; Điều 228 của Bộ luật Tố
tụng dân sự; khoản 2 Điều 26, điểm a khoản 2 Điều 27 của Nghị Quyết
326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí tòa án.
Căn cứ điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 117; Điều 118; Điều 119; Điều 122;
Điều 129; Điều 131; Điều 400; Điều 500; Điều 501; Điều 502; Điều 503 của Bộ luật
Dân sự; khoản 10 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013.
1.Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Anh Nguyễn Viết X:
Tuyên bố giao dịch dân sự Văn bản thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất
và tài sản gắn liền với đất ngày 29/08/2022 giữa anh Nguyễn Văn C và anh
Nguyễn Viết X vô hiệu.
Buộc anh Nguyễn Văn C phải trả cho anh Nguyễn Viết X số tiền
1.150.000.000 đồng (Một tỷ một trăm năm mươi triệu đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và từ ngày người được thi hành
án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành xong các khoản tiền, hàng
tháng bên phải thi hành án phải chịu khoản tiền lãi của số tiền chậm thi hành
án tương ứng với thời gian chậm thi hành án theo qui định tại Điều 357, Điều
468 của Bộ Luật Dân sự.
2. Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: Buộc bị đơn anh Nguyễn Văn C
phải chịu 27.763.000đồng (Hai mươi bẩy triệu bẩy trăm sáu mươi ba nghìn đồng)
tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ. Xác nhận anh Nguyễn Viết X đã nộp tạm
ứng số tiền này. Do vậy anh Nguyễn Văn C phải có nghĩa vụ hoàn trả lại cho anh
Nguyễn Viết X số tiền 27.763.000đồng (Hai mươi bẩy triệu bẩy trăm sáu mươi ba
nghìn đồng) chi phí xem xét,thẩm định tại chỗ.
3.Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn anh Nguyễn Viết X không phải chịu
án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả lại cho anh Nguyễn Viết X số tiền tạm ứng án phí
12
đã nộp là 27.800.000 đồng (Hai mươi bẩy triệu tám trăm nghìn đồng) theo biên lai
thu tiền tạm ứng án phí số 0002872 ngày 25/10/2024 của Chi cục thi hành án
huyện B, tỉnh Lào Cai. Anh Nguyễn Văn C phải chịu 46.500.000 (Bốn mươi sáu
triệu năm trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ
ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15
ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
"Trong trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án
dân sự: thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi
hành án dân sự".
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
Nơi nhận:
- TAND tỉnh (1);
- VKSND Tinh(1);
- VKS huyên BX (2)
- Đương sự (2);
- THA DS (1);
- Lưu Văn phòng (1)
- Lưu HS (1).
Đỗ Thị Thanh Hương
13
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 21/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 17/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 14/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 13/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 07/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 28/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 23/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 19/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 16/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 16/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 06/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 05/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 28/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 22/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 21/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm