Bản án số 02/2024/HNGĐ-ST ngày 07/08/2024 của TAND huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 02/2024/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 02/2024/HNGĐ-ST ngày 07/08/2024 của TAND huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Bảo Lâm (TAND tỉnh Cao Bằng)
Số hiệu: 02/2024/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 07/08/2024
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: anh P xin ly hôn với chị V, do tình cảm vợ chồng đến mức trầm trọng cuộc sống hôn nhân không thể kéo dài
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN BẢO LÂM
TỈNH CAO BẰNG
Bản án số: 02/2024/HNGĐ-ST
Ngày: 07-8-2024
V/v: Ly hôn, tranh chp nuôi c
on chung
CỘNG HÒA HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO LÂM, TỈNH CAO BẰNG
- Thành phần Hội đồngt xử thẩm gồm :
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nông Đức Thọ
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Hoàng Quang Thanh
2. Bà Lục Thị Minh
- Thư ký phiên tòa: Bà Hạ Thị Soan Thư ký Tòa án nhân dân huyện Bảo
Lâm, tỉnh Cao Bằng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo m, tỉnh Cao Bằng
tham gia phiên toà: Ông Nông Tuấn Sơn - Kiểm sát viên.
Ngày 07 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bảo Lâm,
tỉnh Cao Bằng xét xử thẩm công khai vụ án thụ số: 20/2024/TLST-HNGĐ
ngày 12 tháng 6 năm 2024 về “Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung theo Quyết
định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2024/QĐXX-ST ngày 23 tháng 7 năm 2024 giữa
các đương sự:
1. Ngun đơn: Anh P, sinh ngày 02/12/1992; nơi t: xóm L1, Y,
huyện B, tỉnh Cao Bằng. (Có mặt);
2. Bị đơn: Chị V, sinh ngày 05/6/1988; nơi cư trú: xóm L1, Y, huyện B,
tỉnh Cao Bằng; nơi ở hiện nay: xóm N, xã N1, huyện B, tỉnh Cao Bằng. (Có mặt);
*Người làm chứng:
1. Ch1, sinh năm 1958; nơi trú: xóm N, N1, huyện B, tỉnh Cao
Bằng. (Có mặt);
2. Bà M, sinh năm 1965; nơi trú: xóm L1, Y, huyện B, tỉnh Cao
Bằng. (Có mặt);
3. S1, sinh năm 1988; nơi trú: xóm N, N1, huyện B, tỉnh Cao Bằng.
(Có mặt);
4. Ch, sinh năm 1991; nơi trú: xóm N, N1, huyện B, tỉnh Cao Bằng.
(Có đơn xin xét xử vắng mặt);
2
5. S, sinh năm 1986; nơi trú: xóm N, N1, huyện B, tỉnh Cao Bằng.
(Có đơn xin xét xử vắng mặt);
*Người phiên dịch tiếng dân tộc Mông: Ông H; nơi trú: khu 1, thị trấn
P, huyện B, tỉnh Cao Bằng. (Có mặt);
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện đề ngày 17/4/2024 ca nguyên đơn anh P, các tài liệu
trong hồ vụ án, quá trình giải quyết vụ án tại phiên toà, nguyên đơn trình
bày:
Về quan hệ hôn nhân: Anh P chị V có đăng ký kết hôn ngày 19/01/2015
tại Uỷ ban nhân dân N1, huyện B, tỉnh Cao Bằng. Quá trình chung sống, thời
gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng đến năm 2022 thì phát sinh mâu
thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn, do bất đồng quan điểm sống, thường xuyên xảy
ra cãi vã, không tiếng nói chung, ảnh ởng rất nhiều đến đời sống chung của
vợ chồng. Trong quá trình mâu thuẫn nhiều lần anh chị V hòa giải để hàn
gắn tình cảm vợ chồng và được gia đình hai bên hòa giải nhưng không thành. Nay
anh xác định hôn nhân rơi vào tình trạng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không thể
kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, anh đề nghị Toà án giải quyết cho
anh được ly hôn với chị V.
Về con chung: Quá trình chung sống anh P, chị V 01 (một) con tên
gọi L, sinh ngày 28/8/2014. Cháu khỏe mạnh phát triển bình thường, hiện nay
đang cùng mẹ đẻ (chị V) người trực tiếp chăm sóc, anh P đi làm thuê xa nhà,
không thường xuyên nhà. Khi ly hôn, chị V nguyện vọng, tiếp tục được trực
tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu L.
Về việc cấp dưỡng nuôi con: Khi ly hôn anh P nhất trí thực hiện cấp dưỡng
nuôi con hàng tháng với số tiền 1.500.000 đồng/tháng, (bằng chữ: Một triệu năm
trăm nghìn đồng) cho đến khi cháu L đủ 18 tuổi.
Về tài sản chung, nợ chung: Trong thời gian hôn nhân, anh P và chị V cùng
xác nhận vợ, chồng không tài sản chung, không tài sản cho ai vay, không
nợ ai. Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
*Tại bản tự khai ngày 19/6/2024, tại biên bản lấy lời khai ngày 02/7/2024
và tại phiên toà bị đơn chị V trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị anh P đăng kết hôn ngày 19/01/2015 tại
Ủy ban nhân dân N1, huyện B, tỉnh Cao Bằng. Sau khi tổ chức cưới hỏi theo
phong tục địa phương tại xóm L, Y, huyện B, tỉnh Cao Bằng được 03 ngày thì
vợ chồng chị chuyển về sinh sống tại xóm N, xã N1, huyện B, tỉnh Cao Bằng.
Thời gian đầu chung sống hạnh phúc, đến đầu năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn.
Nguyên nhân mâu thuẫn, do anh P đi làm thuê về nhà thì chửi bới, đánh đập chị.
3
Trong quá trình mâu thuẫn gia đình chị có tổ chức hòa giải, anh P có viết cam kết
không tái phạm. Đến năm 2020, anh P cùng con riêng của người vợ trước bỏ về
xóm L1, Yên Thổ sinh sống, từ đó không quay lại chung sống với mẹ con chị
V nữa. Nay anh P làm đơn khởi kiện yêu cầu xin ly hôn, chị V không nhất trí ly
hôn.
Về con chung: Trong thời gian hôn nhân chị V, anh P với nhau 01 (Một)
người con, cháu tên gọi L, sinh ngày 28/8/2014. Từ khi sinh ra đến nay khỏe
mạnh phát triển bình thường, hiện nay cháu đang sống cùng mẹ đẻ (Chị V)
trực tiếp, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Trường hợp anh P nhất quyết ly hôn,
chị V có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu L.
Về việc cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn: Yêu cầu anh P phải thực hiện
nghĩa vcấp dưỡng nuôi con hàng tháng với số tiền 5.000.000 đồng/tháng, thời
điểm cấp dưỡng tính từ ngày 23/12/2020 đến khi cháu L đủ 18 tuổi.
Về tài sản chung, nợ chung: Trong thời gian hôn nhân chị V xác nhận
không có tài sản chung nợ chung. Không yêu cầu Toà án giải quyết.
Về vấn đề khác: Trường hợp anh P nhất quyết ly hôn, chị yêu cầu chia
ruộng đất của anh P tại xóm L1, Y, huyện B, tỉnh Cao Bằng cho con trai L;
yêu cầu anh P trả một khoản tiền nuôi con riêng của anh P trong 08 năm (Từ năm
2012 đến năm 2020) mỗi ngày với số tiền 100.000 đồng/ngày = 292.000.000
đồng; yêu cầu anh P bồi thường một khoản tiền tổn thất về tình thần cho chị với
số tiền 25.000.000 đồng.
*Kết quả xác minh ngày 19/6/2024 của Toà án nhân dân huyện Bảo Lâm
tại xóm L, xã Y, huyện B, tỉnh Cao Bằng:
Về quan hệ hôn nhân: Anh P, chị V trước khi kết hôn được tìm hiển
nhau trong một thời gian ngắn được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi theo
phong tục địa phương,vợ chồng có đăng ký nơi trú tại xóm L1, xã Y, huyện B,
tỉnh Cao Bằng. Tuy nhiên, sau ngày cưới vợ chồng không đi đăng kết hôn tại
Ủy ban nhân dân Y, huyện B, tỉnh Cao Bằng chỉ tại gia đình anh P tại xóm
L1, Y được 03 ngày, cả 02 vợ chồng chuyển về xóm N, N1, huyện B, tỉnh
Cao Bằng tạm trú, buôn bán, định cư sinh sống tại xã Nam Quang đến nay. Thỉnh
thoảng về xóm L1, Y thăm mđẻ của anh P. Do vậy, về nguyên nhân mâu
thuẫn giữa anh P chị V địa phương không nắm được. Đến nay anh P làm đơn
khởi kiện xin ly hôn, đề nghị Toà án giải quyết theo đúng với các quy định của
pháp luật và đến xác minh, thông qua đó Chính quyền địa phương xã Y mới được
biết sự việc.
Trong thời gian hôn nhân anh P, chị V 01(Một) con chung tên L, sinh
ngày 28/8/2014. Hiện nay cháu sống chung với chị V, tạm trú tại xóm N, N1,
huyện B, tỉnh Cao Bằng. Đến nay các đương sự không định trên địa bàn Y
4
đối với việc giải quyết yêu cầu ly hôn con chung, đề nghị Toà án thụ giải
quyết theo các quy định của pháp luật. Ngoài ra không có ý kiến gì khác.
Về điều kiện, hoàn cảnh kinh tế gia đình: Hiện nay anh P chị V không
nhà tại nơi trú: xóm L1, Y. Tài sản chung của vợ chồng anh P, chị V
tại xã Y không có. Về ruộng đất tài sản của bố mđẻ anh P, trước đó đã chia
bằng miệng cho vợ chồng anh P (vợ cả đã chết o năm 2012) 09 thửa ruộng
cạn, nguồn gốc do bố mẹ đẻ anh P từ khai phá, diện tích khoảng 350m
2
trồng
được khoảng 04kg giống ngô Nhà nước. Từ ngày anh P cưới chị V không thấy vợ
chồng đến canh tác, trồng trọt ngày nào, các diện tích đất trển hiện chưa được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hiện nay mẹ đẻ anh P (bà M) quản
canh tác các diện tích đất này hàng năm trồng ngô, vì không có nước để cày cấy.
* Kết quả xác minh tại xóm N, N1, huyện B, tỉnh Cao Bằng ngày
02/7/2024:
Về quan hệ hôn nhân: Anh P chị V đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân
N1, huyện B, tỉnh Cao Bằng ngày 19/01/2015. Anh P chị V được hai bên
gia đình tchức cưới hỏi theo phong tục địa phương, sau khi kết hôn hai anh chị
tạm trú xóm N, N1, huyện Bảo Lâm để sinh sống, cụ thể từ thời gian nào địa
phương không năm được. Quá trình mâu thuẫn giữa anh P chị V chưa đề nghị
xóm, xã hòa giải lần nào do vậy địa phương không nắm được mâu thuẫn giữa anh
P và chị V. Nay, anh P làm đơn khởi kiện xin ly hôn với chị V, đề nghị Toà án
giải quyết theo quy định của pháp luật.
Về con chung: Anh P, chị V 01 người con cháu L, sinh ngày 28/8/2024
hiện nay cháu L đang sống chung với mẹ đẻ chị V tại xóm N, N1, huyện B,
tỉnh Cao Bằng. Những năm gần đây anh P thường xuyên đi làm thuê xã, ít khi
nhà. Trường hợp anh P và chị V ly hôn nên giao cháu L cho chị V trực tiếp chăm
sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu L để đảm bảo điều kiện sinh hoạt, học tập tốt nhất
cho cháu trong thời gian tới.
Về mức sinh hoạt phí tại địa phương: Cháu L hiện nay đang học tại trường
T, xã N1, huyện B, tỉnh Cao Bằng, thuộc vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt
khó khăn (Vùng III), hàng tháng cháu L được hưởng các khoản trợ cấp theo quy
định. Mức sinh hoạt phí để nuôi một trẻ em như cháu L tại địa phương dao động
từ 1.400.000 đồng/tháng đến 1.800.000 đồng/tháng, số tiền trên đảm bảo cho
cháu đủ điều kiện và đảm bảo tốt trong sinh hoạt hàng tháng.
Về tài sản các nội dung khác do các đương sự yêu cầu, địa phương
không nắm được đề nghị tiếp tục được xem xét theo đúng các quy định của pháp
luật Tố tụng đan sự.
* Tại biên bản lấy lời khai bà M ngày 19/6/2024 trình bày:
Anh P chV được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa
5
phương. Sau khi cưới anh P chị V chlại xóm L1, Y 03 ngày sau đó thì
chuyển về xã Tân Việt nay là xóm N, xã N1, huyện B, tỉnh Cao Bằng làm ăn sinh
sống đến nay. Thỉnh thoảng cả nanh P mới về thăm nhưng chỉ đến thăm
trong ngày không ngủ lại rồi lại về xóm N. Anh P chị V 01 con chung
cháu L, sinh năm 2014, hiện nay cháu L đang sinh sống với chị V xóm N,
N1. xóm L1, Y, anh P chị V không tài sản chung gì. Trước kia anh P
lấy một vợ trước nhưng đã chết, lúc đấy vợ chồng chia cho anh P vợ
trước 09 thửa ruộng nhỏ để trồng trọt. Sau này anh P lấy chị V thì không đây
canh tác do quản lý, sử dụng đến nay, khi vợ chồng chia ruộng cho anh
P vợ trước thì không làm văn bản, giấy tờ chỉ nói bằng miệng. Đất hiện nay
chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nếu anh P chị V ly hôn,
chị V yêu cầu chia ruộng đất ở đây bà không đồng ý từ khi cưới đến giờ chị
V chưa ở đây ngày nào và cũng không canh tác.
*Tại biên bản lấy lời khai bà Ch1 ngày 02/7/2024 trình bày:
Anh P chị V được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa
phương. Sau khi cưới anh P chị V chuyển về xóm N tạm trú sinh sống. Vợ
chồng lâu lâu ng cãi nhau, trước kia gia đình hai bên hòa giải một lần
anh P làm bản cam kết không tái phạm nữa. Đến khoảng tháng 11/2020 anh P
bỏ về nhà mđẻ xóm L1, Y tđó không thấy anh P quay lại xóm N với mẹ
con chị V nữa. Nay anh P làm đơn xin ly hôn với chị V thì cũng nhất trí, vợ
chồng thực tế hiện nay không còn với nhau nữa. Quá trình chung sống anh P,
chị V 01 con chung cháu L hiện nay cháu đang sinh sống với chị V xóm N,
xã N1. Trong khoảng thời gian hôn nhân vợ chồng sống chung nhưng anh P ít khi
nhà; do vậy, không thời gian nhiều đ chăm sóc cháu L. Khi ly hôn đề
nghị giao cháu L cho chị V chăm sóc, nuôi dưỡng. Về tài sản chung vợ chồng anh
P, chị V không có tài sản chung, khi vợ chồng anh P chuyền đến, không đem theo
tài sản gì. Đối với căn nhà hiện nay hai mẹ con chị V đang , anh P chỉ bỏ ng
sức xây nhà, n tiền vật liệu và vật liệu xây dựng do chị V bỏ ra.
*Quá trình giải quyết vụ án, chị V cung cấp các bản tự khai của anh S1,
anh Ch và anh S. Nội dung các bản bản tự khai thể hiện:
Năm 2012, anh P, chị V tiến tới hôn nhân, được hai bên gia đình tổ chức
cưới hỏi theo phong tục địa phương. Gia đình anh P trú tại xóm L1, Y, huyện
B thuộc diện gia đình hộ nghèo, vợ chồng anh P bàn bạc, thống nhất nói với gia
đình tôi để chuyển về sinh sống tại xóm N, N1, huyện B để tạm trú làm ăn,
sinh sống. Anh P, chị V đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân N1, huyện
B, tỉnh Cao Bằng váo ngày 19/01/2014. Thời gian đầu sống chung không mâu
thuẫn gì, anh P hay đi làm công trình để con riêng con chung cho chị V chăm
sóc, nuôi dưỡng, ăn học. Anh P đi làm ở xa cũng không gửi tiền về, một mình chị
6
V dựa vào thu nhập từ cửa hàng tạp hóa nhỏ để chăm c 02 con. Đến năm 2019
anh P đi làm thuê thành phố C nhưng không liên lạc gì, không gửi tiền về
cho chị V. Khoảng đầu năm 2019, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn anh P chửi
mắng, đánh đập chị V phá đồ đạc trong nhà. Cũng trong năm 2019 anh P
quan hệ bất chính với người phụ nữ khác đã có gia đình và bị chồng người phụ nữ
bắt được và yêu cầu bồi thường số tiền 23.000.0000 đồng. khi đó chúng tôi có đề
nghị chị V ly hôn với anh P nhưng chị V không đồng ý, vì còn có con nhỏ nên tha
thứ cho anh P, khi đó chúng tôi đề nghị anh P thông tin đến gia đình anh đến để
thương lượng làm giấy cam kết. Đến cuối năm 2020 anh P bỏ nhà đi từ đó
không liên lạc gì đến gia đình. Về tài sản, trước năm 2009 chị V mcửa hàng
tạp hóa nhỏ tại xóm N, N1 tiết kiệm được tiền mua được 04 con bò, làm
nhà cửa, tất cả tài sản riêng của chị V. Nay anh P đề nghị Tòa án nhân dân
huyện Bảo Lâm giải quyết cho anh được ly hôn với chị V, đề nghị anh P phải đưa
ra được căn cứ chứng minh rằng chị V đã vi phạm nghĩa vụ của vợ chồng.
* Phần tranh luận:
- Anh P tranh luận: Vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn với chị
V. Về con chung giao cháu L cho chị V chăm sóc, nuôi dưỡng, anh P có nghĩa vụ
cấp dưỡng nuôi con với số tiền 1.500.000 đồng/tháng cho đến khi cháu L đủ 18
tuổi.
- Chị V đối đáp tranh luận: Chị V không đồng ý ly hôn, trường hợp anh P
nhất quyết ly hôn với chị thì yêu cầu anh P phải cấp dưỡng nuôi con chung với số
tiền 5.000.000 đồng/tháng; yêu cầu anh P chia ruộng đất xóm L1, Y cho
cháu L; yêu cầu anh P trả tiền nuôi con riêng của anh P trong 08 năm với số tiền
100.000 đồng/ngày; Yêu cầu anh P bồi thường tổn thất về tinh thần cho chị với số
tiền 25.000.000 đồng.
* Ý kiến của Kiểm sát viên:
Về việc tuân theo pháp luật ttụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của
Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư phiên tòa và của các đương sự, người tham
gia tố tụng khác trong quá trình giải quyết vụ án đều chấp hành đúng các quy
định của Bộ luật tố tụng Dân sự.
Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị áp dụng khoản 1, Điều 51; khoản 1, Điều
56; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 của Luật Hôn nhân gia đình năm
2014. Tuyên, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về hôn nhân, xử cho
anh P được ly hôn chị V; Về con chung: Giao cho chị V người trực tiếp chăm
sóc nuôi dưỡng cháu L, sinh ngày 28/8/2014. Về cấp dưỡng nuôi con: Anh P phải
thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con với số tiền 1.500.000 đồng/tháng cho
đến khi cháu L đủ 18 tuổi; Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không đề nghị
xem xét. Về án phí: anh P phải chịu án phí Hôn nhân gia đình thẩm theo
7
quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Anh P đơn khởi kiện yêu cầu xin Ly hôn, nuôi
con chung với chị V, chị V nơi trú tại xóm L, Y, huyện B, tỉnh Cao
Bằng; Căn cứ vào khoản 1, Điều 28; điểm a, khoản 1, Điều 35; điểm a, khoản 1,
Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa
án nhân dân huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng.
Người làm chứng Ch S vắng mặt đơn xin xét xử vắng mặt, lời
khai, ý kiến trong hồ sơ vụ án; Căn cứ khoản 2, Điều 229 của Bộ luật tố tụng dân
sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh P và chị V kết hôn trên cơ sở tự nguyện,
được tìm hiểu đăng kết hôn vào ngày 19/01/2015 tại Ủy ban nhân dân
N1, huyện B, tỉnh Cao Bằng quan hhôn nhân hợp pháp. Quá trình giải quyết vụ
án, nguyên đơn anh P trình bày, nguyên nhân vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn
do bất đồng quan điểm sống, không tiếng nói chung, thường xuyên xảy ra cãi
vã, mục đích hôn nhân không đạt được; do vậy, anh P làm đơn yêu cầu xin ly hôn
với chị V yêu cầu giải quyết về con chung vẫn đề cấp dưỡng nuôi con
sau ly hôn. Chị V xác định vợ chồng mâu thuẫn nhưng không đồng ý ly hôn
với anh P tình cảm vợ chồng vẫn còn muốn anh P quay lại đoàn tụ vợ
chồng. Ngoài ra, qtrình giải quyết vụ án, chị V còn cung cấp cho Toà án các
bản tự khai của những người làm chứng, thể hiện trước đó hai vợ chồng phát
sinh mâu thuẫn, đã được gia đình hoà giải nhưng không thành, thể hiện việc mâu
thuẫn giữa anh P chị V đã từng sảy ra và ngày càng trầm trọng, vì trái ngược quan
điểm sống, tính tình không hợp.
Nguyên nhân mâu thuẫn, anh P khảng định rằng do bất đồng quan điểm
sống, cuộc sống vợ chồng không tiếng nói chung thường xuyên xảy ra cãi
vã. Chị V khẳng định trong khi anh P đi làm thuê, có quan hệ bất chính với người
phụ nữ khác, cả hai bên gia đình của anh P chị V cũng không rõ nguyên nhân
mẫu thuẫn. Chính quyền địa phương nơi trú, xác nhận không nguyên nhân
mâu thuẫn của vợ chồng từ đâu, các bên không cung cấp được các chứng cứ
chứng minh cho yêu cầu của mình căn cứ. Hội đồng xét xử xét thấy tại
phiên toà anh P và chị V thực tiễn không còn tình cảm vợ chồng, không có sự tôn
trọng lẫn nhau, bất đồng quan điểm sống, không thể thống nhất với nhau từ
những việc nhỏ đến lớn, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do vậy, căn cứ
8
vào các quy định của pháp luật dân sự, để căn cứ giải quyết dứt điểm vụ án.
Hội đồng xét xử xét thấy, anh P đã ly thân với chị V từ năm 2020 đến nay,
cuộc sống chung của vợ chồng thực tế đã không còn tồn tại, hai bên không còn
quan tâm, chăm sóc giúp đỡ lẫn nhau nên không thể tồn tại một gia đình hạnh
phúc, tiến bộ. Do đó, căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân gia đình hiện
hành cho thấy tình trạng hôn nhân của anh P, chị V đã lâm vào tình trạng trầm
trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
anh P xin ly hôn với chị V.
[3] Về con chung: Anh P, chị V 01(Một) con cháu L, sinh ngày
28/8/2014, hiện nay cháu L đang sống chung với mẹ đẻ (chị V) tại xóm N, xã N1,
huyện B, tỉnh Cao Bằng. Khi ly hôn cả anh P, chị V nhất trí để chị V là người
trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu L, phợp với đề nghị của người
đại diện Chính quyền địa phương, giao cháu L cho chị V nuôi dưỡng, mặt khác
cháu L nguyện vọng với chị V. Do vậy, căn cứ vào Điều 81 của Luật Hôn
nhân gia đình năm 2014. Giao cháu L cho chị V người trực tiếp chăm sóc,
nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành sẽ được đảm bảo cho cháu điều
kiện học tấp và cuộc sống tốt hơn.
[4] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Trong đơn khởi kiện của
nguyên đơn tại bản tự khai ngày 08/7/2024. Anh P nhất trí mức cấp dưỡng
nuôi con với số tiền 1.500.000 đồng/tháng cho đến khi con cháu L đủ 18 tuổi.
Tuy nhiên, tại toà chị V giữ nguyên quan điểm của mình, yêu cầu anh P thực hiện
nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu L với số tiền 5.000.000 đồng/tháng, ngoài ra không
có ý kiến nào khác.
Hội đồng xét xử đã phân tích xét đến điều kiện, hoàn cảnh kinh tế của anh
P hiện nay thấy rằng, hiện nay anh P đang đi làm thuê tại z, Ph, Quảng Ninh với
mức thu nhập chính từ 7.000.000 đồng/tháng đến 8.000.000 đồng/tháng; anh P
hiện nay không tài sản gì. Thông qua việc thẩm định, xác minh về giá cả thực
tiễn tại địa phương, xác định mức chi phí, sinh hoạt để nuôi dưỡng một trẻ em
như cháu L với số tiền từ 1.400.000 đồng, đến 1.800.000 đồng/tháng phù hợp.
Do vậy, chị V yêu cầu mức cấp dưỡng với số tiền 5.000.000 đồng/tháng thực tế
so với khả năng kinh tế và mức thu nhập hiện tại của anh P, mức sinh hoạt phí tại
địa phương, không phù hợp nên không sở chấp nhận, chấp nhận mức cấp
dưỡng nguyên đơn anh P tự nguyện đề nghị với số tiền 1.500.000 đồng/tháng,
tiền cấp dưỡng nuôi con phù hợp nên được chấp nhận, căn cứ theo quy định tại
khoản 24, Điều 3; khoản 2, Điều 82; khoản 1, Điều 116 của Luật Hôn nhân và gia
đình.
Về thời điểm cấp dưỡng: Chị V đề nghị thời điểm cấp dưỡng từ ngày
23/12/2020. Anh P được Toà án thông báo vyêu cầu của chị V nhưng không
9
ý kiến. Do hai bên không thoả thuận được về thời điểm cấp dưỡng nên Hội đồng
xét xử xét rằng tại thời điểm 23/12/2020 thì quan hệ hôn nhân giữa anh P chị
V vẫn tồn tại hợp pháp nên cả hai đều nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng cháu L,
chị V yêu cầu cấp dưỡng từ thời điểm ngày 23/12/2020 không sở chấp
nhận, cần xác định thời điểm cấp dưỡng cho cháu L đến khi cháu L đủ 18 tuổi,
theo quy định của pháp luật.
Trường hợp sự thay đổi về điều kiện trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục ảnh hưởng đến quyền lợi về mọi mặt của con chung các bên đương s
yêu cầu thì Toà án sẽ xem xét giải quyết bằng một vụ án khác theo quy định
của pháp luật.
[5] Về tài sản chung, nợ chung: Trong thời gian hôn nhân anh P chị V
cùng xác nhận không tài sản chung. Vợ chồng không tài sản cho vay
không có nợ chung, không yêu cầu Toà án giải quyết. Hội đồng xét xử không tiếp
tục xem xét thêm.
[6] Đối với các yêu cầu khác: Ngày 24/6/2024 Tòa án nhân dân huyện Bảo
Lâm nhận được đơn kiến nghị đề ngày 19/6/2024, tại biên bản lấy lời khai ngày
02/7/2024, tại phiên tòa chị V yêu cầu anh P chia ruộng đất cho con chung cháu
L; yêu cầu anh P trả tiền nuôi con riêng của anh P từ năm 2012 đến 2020 với số
tiền 100.000 đồng/ngày; yêu cầu anh P bồi thường tổn thất về tinh thần với số tiền
25.000.000 đồng. Ngày 26/6/2024 Tòa án nhân dân huyện Bảo Lâm ra thông
báo trả lời kiến nghị số 20/TB-TA với nội dung đối với các yêu cầu: yêu cầu ông
P trả tiền nuôi con riêng của anh P, yêu cầu chia ruộng đất cho con chung không
thuộc phạm vi xem xét giải quyết trong ván này (Căn cứ vào Điều 28 của Bộ
luật tố tụng dân sự năm 2015); đối với yêu cầu buộc ông P phải bồi thường tổn
thất về tinh thần với số tiền 25.000.000 đồng, chị V phải tài liệu chứng cứ
chứng minh cho yêu cầu của mình phải làm đơn phản tố riêng; tuy nhiên, chị
V không chứng minh được và cũng không làm đơn phản tố riêng Hội đồng xét xử
không xem xét. Hiện nay Luật hôn nhân gia đình năm 2014 chỉ quy định về
chia tài sản chung của vchồng khi ly hôn, không chế định chia tài sản
chung của vợ chồng cho con, chi trả tiền nuôi con riêng yêu cầu bồi thường
tổn thất về tinh thần. Ngoài ra, biên bản lấy lời khai và tại phiên tòa ngày hôm
nay bị đơn không cung cấp được tài liệu chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của
mình; do đó, không có căn cứ để chấp nhận các yêu cầu mà bị đơn.
[7] Về án phí:
- Án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 4, Điều 147 của
Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a, khoản 5, Điều 27 Nghị quyết s
326/2016/UBTVQH14, anh P phải chịu số tiền 300.000 đồng, án phí Hôn nhân và
gia đình sơ thẩm.
10
- Án phí của người có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: n cứ điểm đ, khoản
6, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, anh P phải chịu mức án phí dân
sự sơ thẩm như đối với trường hợp vụ án dân sự không có giá ngạch.
Xác nhận, anh P đã nộp số tiền 300.000 đồng, tạm ứng án phí tại Chi cục
thi hành án dân sự huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng theo biên lai số 0003577 ngày
11/6/2024. Anh P phải nộp thêm số tiền 300.000 đồng, án phí của người có nghĩa
vụ cấp dưỡng nuôi con.
[8] Về quyền kháng cáo: Các đương sự quyền kháng cáo bản án theo
quy định tại Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[9] Đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên toà phù hợp với các nhận định của
Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Về áp dụng pháp luật: n cứ các Điều 9; khoản 1, Điều 51; Điều 53,
khoản 1, Điều 56; Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 116 của Luật Hôn
nhân gia đình năm 2014; khoản 1, Điều 28; điểm a, khoản 1, Điều 35; điểm a,
khoản 1, Điều 39; khoản 4, Điều 147; khoản 2, Điều 229; Điều 271 Điều 273
của Bộ luật tố tụng Dân s; điểm a, khoản 5, điểm đ, khoản 6, Điều 27 Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.
2. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận đơn khởi kiện của anh P yêu cầu về
việc “Xin ly hôn” đối với chV. Anh P và chị V chấm dứt quan hệ hôn nhân.
3. Về con chung: Giao cháu L, sinh ngày 28/8/2014 cho chị V trực tiếp
trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu L đủ 18 tuổi.
Về việc cấp dưỡng nuôi con: Anh P thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con
hàng tháng với số tiền 1.500.000 đồng/tháng cho đến khi cháu L đủ 18 tuổi.
Khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của
con được sống chung với người trực tiếp nuôi quyền, nghĩa vụ thăm nom
con mà không ai được cản trở.
Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom đcản trở hoặc
gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì
người trực tiếp nuôi con quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con
của người đó.
Đương sự quyền thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng con chung, mức
cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn theo quy định của pháp luật.
4. Về tài sản chung nợ chung: Anh P, chị V tự nguyện thoả thuận,
không yêu cầu Toà án giải quyết.
5. Về án phí: Anh P phải chịu số tiền 300.000 đồng, án phí Hôn nhân
11
gia đình thẩm, nhưng được trừ vào số tiền đã nộp tạm ứng, theo Biên lai thu
tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003577 ngày 11 tháng 6 năm 2024 của Chi cục
thi hành án dân sự huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng;
Anh P còn phải nộp số tiền 300.000 đồng, án phí của người nghĩa vụ
cấp dưỡng nuôi con khi ly hôn.
6. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có mặt tại phiên toà có quyền
kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân dự quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi nh án theo quy định tại Điều 6, 7, 7a 9 Luật
thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự”.
Nơi nhận:
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
(Đã ký và đóng du)
Nông Đức Thọ
12
Tải về
Bản án số 02/2024/HNGĐ-ST Bản án số 02/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 02/2024/HNGĐ-ST Bản án số 02/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất