Bản án số 02/2019/DS-ST ngày 11/01/2019 của TAND huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông về tranh chấp hợp đồng tín dụng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 02/2019/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 02/2019/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 02/2019/DS-ST ngày 11/01/2019 của TAND huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông về tranh chấp hợp đồng tín dụng |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng tín dụng |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Krông Nô (TAND tỉnh Đắk Nông) |
Số hiệu: | 02/2019/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 11/01/2019 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ngân hang csxhvn kiện ông Nguyễn Vũ D |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN KRÔNG NÔ
TỈNH ĐẮK NÔNG
Bản án số: 02/2019/DS-ST
Ngày 11/01/2019
V/v: “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG NÔ
Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
- Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Lê Thị Tím
- Các Hội thẩm nhân dân: Bà Lê Thị Minh và Ông Hồ Quang Hiển
- Thư ký ghi biên bản phiên tòa: bà Nguyễn Thị Nguyệt Bun, cán bộ TAND
huyện Krông Nô.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Nô tham gia phiên tòa: Ông
Nông Quốc Hùng, chức vụ Kiểm sát viên.
Mở phiên tòa ngày 11 tháng 01 năm 2019, tại phòng xử án Tòa án nhân dân
huyện Krông Nô tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số:
50/2018/TLST-DS, ngày 07/8/2018, về việc “Kiện tranh chấp hợp đồng tín
dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/2018/QĐXXST-DS, ngày
20/11/2018; Quyết định hoãn phiên tòa số 50/2018/QĐST-DS, ngày
06/12/2018; Quyết định hoãn phiên tòa số 64/2018/QĐST-DS, ngày 25/12/2018
giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam
Địa chỉ: Số 169, phố Linh Đường, phường Hoàng Liệt, quận Hoàng Mai,
Tp. Hà Nội.
Đại diện theo pháp luật: ông Dƣơng Quyết T1, c/v: Tổng giám đốc.
Đại diện theo ủy quyền: ông Phạm Xuân T2 , c/v: Giám đốc Ngân hàng
chính sách xã hội phòng giao dịch huyện Krông Nô. Có mặt.
Bị đơn: Ông Nguyễn Vũ D. Vắng mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Hứa Trần Phƣơng C (Vợ ông
Nguyễn Vũ D. Vắng mặt.
Cùng địa chỉ: thôn K, xã Đ, huyện K, tỉnh Đắk Nông.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 25/7/2018 (nộp trực tiếp tại Tòa án ngày
03/8/2018), quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Người đại diện theo ủy
quyền của Nguyên đơn – ông Phạm Xuân T2 trình bày:
Ngày 14/12/2011 NHCSXH Việt Nam - PGD Krông Nô ký kết hợp đồng
tín dụng số 600000640009084 ông Nguyễn Vũ D, theo đó Ngân hàng cho ông
vay số tiền gốc là 10.000.000 đồng, tiếp đến ngày 17/12/2012 Ngân hàng tiếp
tục cho ông D vay số tiền gốc 10.000.000 đồng, theo chương trình cho vay học
sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn để ông D cho vợ là Hứa Trần Phương C
đi học, thời hạn vay 60 tháng, kỳ hạn trả nợ 06 tháng/ lần với số tiền là
5.000.000 đồng/ năm(được thực hiện sau khi học sinh sinh viên ra trường 01
năm), lãi suất là 0,65%/ tháng, lãi suất quá hạn là 130% lãi suất khi cho vay,
thời hạn trả nợ cuối cùng: Ngày 27/12/2016.
Trong quá trình vay hộ ông Nguyễn Vũ D chỉ thanh toán được số tiền lãi
trong hạn là 2.350.000 đồng và không thanh toán được khoản tiền gốc nào. Do
ông D không thanh toán được, Ngân hàng đã phân kỳ trả nợ cho ông D, do đó
thời hạn trả nợ cuối cùng là ngày 17/10/2017. Do ông D không thanh toán được
nợ gốc, vì vậy Ngân hàng đã chuyển toàn bộ số tiền nợ gốc 20.000.000 đồng
sang nợ quá hạn với mức lãi suất là 0.845%/tháng.
Tại phiên tòa, NHCSXH Việt Nam yêu cầu Tòa án buộc ông Nguyễn Vũ
D và bà Hứa Trần Phương C phải có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng tổng
số tiền 28.639.000 đồng, trong đó:
- Số tiền nợ gốc là : 20.000.000 đồng;
- Số tiền lãi trong hạn:
Từ ngày 14/12/2011 đến ngày 17/12/2012: 10.000.000 đồng x
0.65%/tháng x 369 ngày = 799.500 đồng
Từ ngày 17/12/2012 đến ngày 17/10/2017: 20.000.000 đồng x
0.65%/tháng x 1765 ngày =7.648.333 đồng.
Tổng số tiền lãi trong hạn là: 799.500 đồng +7.648.333 đồng = 8.448.000
đồng (làm tròn).
- Số tiền lãi trong hạn chưa thanh toán: 8.448.000 đồng – 2.350.000 đồng
= 6.098.000 đồng.
Số tiền lãi quá hạn là: 20.000.000 đồng x 0.845% x 452 ngày = 2.541.000
đồng(tính từ ngày 17/10/2017 đến ngày 11/01/2019).
Ông Nguyễn Vũ D và bà Hứa Trần Phương C còn phải chịu thêm số tiền
lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên đã
thỏa thuận theo hợp đồng tín dụng số 600000640009084 ngày 14/12/2011, kể
từ ngày 12/01/2019 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản
tố tụng cho ông Nguyễn Vũ D và bà Hứa Trần Phương C, tuy nhiên ông D, bà
C vắng mặt tại địa phương, tại phiên tòa ông bà vắng mặt không có lý do.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát: quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã
chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng từ khi thụ lý đến trước khi mở
phiên tòa; tại phiên tòa Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã thực hiện đúng,
đầy đủ các trình tự thủ tục quy định; Nguyên đơn chấp hành đúng quy định của
pháp luật; Bị đơn; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vi phạm quyền và

nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70; 72; 73 và Điều 227 của Bộ luật tố
tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của Nguyên đơn.
Về án phí: Buộc ông Nguyễn Vũ D và bà Hứa Trần Phương C nộp án phí
dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và căn cứ vào kết quả
thẩm tra công khai các tài liệu, chứng cứ tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận
định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam là
quan hệ tranh chấp hợp đồng tín dụng thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
theo khoản 3 Điều 26, Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS).
[ 1.2] Quá trình Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt
các văn bản tố tụng cho ông Nguyễn Vũ D. Tại bản trích lục kết hôn và Biên
bản xác minh của Công an xã Đắk Drô thể hiện, ông Nguyễn Vũ D là chủ hộ,
đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn K, xã Đ, huyện K, thành viên hộ gia đình
có bà Hứa Trần Phương C (Vợ của ông D). Tuy nhiên ông D, bà C thường
xuyên vắng mặt tại địa phương, ông bà không thay đổi nơi cư trú, không thông
báo tạm vắng tại địa phương, không thông báo địa chỉ nơi cư trú mới cho Ngân
hàng, vì vậy chính quyền địa phương cũng như Ngân hàng không xác định được
nơi sinh sống và làm việc hiện nay của ông D, bà C.
Khoản 2 Điều 5 và điểm a khoản 2 Điều 6 NQ số: 04/2017/NQ-HĐTP,
ngày 05/5/2017 hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ
luật tố tụng dân sự 2015 quy định:
Khoản 2 Điều 5: “Người khởi kiện đã cung cấp địa chỉ “nơi cư trú, làm
việc, hoặc nơi có trụ sở” của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan cho Tòa án theo đúng quy định của pháp luật và hướng dẫn tại khoản 1
Điều này tại thời điểm nộp đơn khởi kiện mà được cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền cấp, xác nhận hoặc có căn cứ khác chứng minh rằng đó là địa chỉ của
người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì được coi là đã ghi
đúng địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy
định tại điểm e khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.”
Điều 6:
“2. Trường hợp sau khi thụ lý vụ án, Tòa án không tổng đạt được thông
báo về việc thụ lý vụ án do bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không
còn cư trú, làm việc hoặc không có trụ sở tại địa chỉ mà nguyên đơn cung cấp
thì Tòa án giải quyết như sau:
a) Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng
địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở của người bị kiện, người có

quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo địa chỉ được ghi trong giao dịch, hợp đồng
bằng văn bản thì được coi là “đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm
việc hoặc nơi có trụ sở”. Trường hợp người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan thay đổi nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở gắn với việc thực
hiện quyền, nghĩa vụ trong giao dịch, hợp đồng mà không thông báo cho người
khởi kiện biết về nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở mới theo quy định
tại khoản 3 Điều 40, điểm b khoản 2 Điều 277 Bộ luật dân sự năm 2015thì được
coi là cố tình giấu địa chỉ và Tòa án tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung mà
không đình chỉ việc giải quyết vụ án vì lý do không tổng đạt được cho bị đơn,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;”
Theo tài liệu chứng cứ mà Nguyên đơn cung cấp thể hiện, người trực tiếp
vay tiền và ký kết hợp đồng tín dụng là ông Nguyễn Vũ D, tuy nhiên ông D vay
tiền theo chương trình cho vay học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn với
mục đích đóng học phí cho bà Hứa Trần Phương C. Vì vậy bà Hứa Trần
Phương C là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đối với ông Nguyễn Vũ D
và có trách nhiệm liên đới cùng ông Nguyễn Vũ D thanh toán nợ cho Ngân
hàng.
Từ các phân tích và dẫn chiếu quy định của pháp luật trên thì xác định
được ông D, bà C là người có nghĩa vụ đối với Ngân hàng, nhưng ông bà không
thực hiện nghĩa vụ theo đúng nội dung thỏa thuận của hai bên, ông bà thường
xuyên vắng mặt tại địa phương, không thông báo tạm vắng cho chính quyền địa
phương, cũng không thông báo địa chỉ mới cho Ngân hàng, vì vậy ông D và bà
C cố tình giấu địa chỉ. Tòa án nhân dân huyện Krông Nô thụ lý, giải quyết theo
đúng thẩm quyền.
Tại phiên tòa ông Nguyễn Vũ D, bà Hứa Trần Phương C vắng mặt. Hội
đồng xét xử căn cứ Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự vẫn tiến hành xét xử vụ
án.
[2] Về nội dung Hợp đồng tín dụng:
Căn cứ vào Hợp đồng tín dụng số 600000640009084 ngày 14/12/2011
(Hợp đồng thể hiện tại Sổ vay vốn và Giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử
dụng vốn vay), đã xác định được NHCSXH Việt Nam- PGD Krông Nô đã ký
kết hợp đồng tín dụng với ông Nguyễn Vũ D. Hai bên thỏa thuận số tiền vay là
10.000.000 đồng, tiếp đến ngày 17/12/2012 ông D vay số tiền 10.000.000 đồng
theo chương trình cho vay học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn. Tổng số
tiền nợ gốc mà ông D đã vay là 20.000.000 đồng, thời hạn vay 60 tháng, kỳ hạn
trả nợ 06 tháng/ lần với số tiền là 5.000.000 đồng/ năm (được thực hiện sau khi
học sinh sinh viên ra trường 01 năm), lãi suất là 0,65%/ tháng, lãi suất quá hạn
là 130% lãi suất khi cho vay, thời hạn trả nợ cuối cùng là ngày 27/12/2016.
Trong quá trình vay ông Nguyễn Vũ D chỉ thanh toán được số tiền lãi
trong hạn là 2.350.000 đồng (thời điểm trả tiền lãi cuối cùng là ngày
17/12/2013) và không thanh toán được khoản tiền gốc nào. Tính đến ngày xét
xử, ngày 11/01/2019, ông Nguyễn Vũ D còn nợ của Ngân hàng tổng số tiền
28.639.000 đồng, trong đó số tiền nợ gốc là 20.000.000 đồng, lãi trong hạn là
6.098.000 đồng, lãi quá hạn là 2.541.000 đồng (tính từ ngày 07/04/2018 đến
ngày 11/01/2019).
Hội đồng xét xử xét thấy: Hợp đồng tín dụng thể hiện dưới hình thức văn
bản, thể hiện sự tự nguyện, tự thỏa thuận giữa bên cho vay là NHCSXH Việt
Nam –PGD Krông Nô và bên vay là ông Nguyễn Vũ D. Hợp đồng tín dụng đã
thể hiện rõ về mức cho vay, phương thức cho vay, thời hạn cho vay, lãi suất
cho vay, trả nợ gốc và lãi vốn vay, quyền và nghĩa vụ của bên cho vay; bên
vay… đúng theo quy đinh tại khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng; Điều
10; Điều 11; Điều 12; Điều 13; Điều 16; Điều 17; Điều 24; Điều 25 Quy chế
cho vay của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng (Ban hành theo Quyết định số
1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước).
[3] Về yêu cầu thanh toán nợ gốc, tiền lãi trong hạn, tiền lãi quá hạn:
[3.1] Theo Hợp đồng tín dụng số 600000640009084 ngày 14/12/2011 (Hợp
đồng thể hiện tại Sổ vay vốn và Giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng
vốn vay), thì ông D vay tổng số tiền là 20.000.000 đồng (Giải ngân ngày
14/12/2011 với số tiền 10.000.000 đồng; Giải ngân ngày 17/12/2012 với số tiền
10.000.000 đồng) với thời hạn vay là 60 tháng, đã thỏa thuận phân kỳ trả nợ,
thời điểm trả nợ cuối cùng là ngày 17/10/2017. Số tiền nợ gốc là 20.000.000
đồng.
[3.2] Tại điểm 2, điểm 5 mục II, phần phê duyệt của Ngân hàng thể hiện
trong Giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay thể hiện lãi suất
cho vay là 0,65%/tháng, tiền lãi được thanh toán vào ngày 27 hàng tháng.
Trong quá trình vay ông D chỉ thanh toán được số tiền lãi trong hạn là
2.350.000 đồng vào thời điểm cuối cùng là ngày 17/12/2013. Số tiền lãi trong
hạn còn lại ông D chưa thanh toán được, cụ thể:
Từ ngày 14/12/2011 đến ngày 17/12/2012: 10.000.000 đồng x
0.65%/tháng x 369 ngày = 799.500 đồng
Từ ngày 17/12/2012 đến ngày 17/10/2017: 20.000.000 đồng x
0.65%/tháng x 1765 ngày =7.648.333 đồng.
Tổng số tiền lãi trong hạn là: 799.500 đồng +7.648.333 đồng = 8.448.000
đồng (làm tròn).
Số tiền lãi trong hạn chưa thanh toán: 8.448.000 đồng – 2.350.000 đồng =
6.098.000 đồng.
[3.3] Tại điểm 2 mục II, phần phê duyệt của Ngân hàng thể hiện trong Giấy
đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay thể hiện Lãi suất nợ quá hạn
là 130% lãi suất cho vay ngay trước thời điểm nợ quá hạn.
Khoản 4 Điều 1 Quyết định 127/2005/QĐ-NHNN, ngày 03/2/2005 sửa đổi
bổ sung khoản 2 Điều 13 Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN, ngày 31/12/2001
quy định: "2. Đối với khoản nợ vay không trả nợ đúng hạn, được tổ chức tín
dụng đánh giá là không có khả năng trả nợ đúng hạn và không chấp thuận cho
cơ cấu lại thời hạn trả nợ, thì số dư nợ gốc của hợp đồng tín dụng đó là nợ quá
hạn và tổ chức tín dụng thực hiện các biện pháp để thu hồi nợ; việc phạt chậm
trả đối với nợ quá hạn và nợ lãi vốn vay do hai bên thoả thuận trên cơ sở quy
định của pháp luật. Tổ chức tín dụng phân loại toàn bộ số dư nợ gốc của khách
hàng vay có nợ quá hạn vào tài khoản cho vay thích hợp theo quy định của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.".
Tại điểm 4 mục II, phần phê duyệt của Ngân hàng thể hiện trong Giấy đề
nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay, thời hạn trả nợ cuối cùng là
ngày 27/12/2016. Ngày 17/10/2014 giữa Ngân hàng và ông Nguyễn Vũ D có
thỏa thuận với nhau về phân kỳ trả nợ, theo biên bản thỏa thuận thì thời hạn trả
nợ cuối cùng đối với số tiền nợ gốc 20.000.000 đồng là ngày 17/10/2016. Do
ông D không thanh toán được đúng theo thỏa thuận, vì vậy Ngân hàng đã
chuyển toàn bộ số tiền nợ gốc chuyển thành nợ quá hạn đúng theo thỏa thuận
của các bên thể hiện trong hợp đồng và phù hợp với quy định của pháp luật.
Theo đó, số tiền lãi nợ quá hạn kể từ ngày 17/10/2017 đến ngày 11/01/2019 là
2.541.000 đồng (20.000.000 đồng x 0,845%/tháng x 452 ngày = 2.541.000
đồng).
Vì vậy yêu cầu của Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam đối với số tiền nợ
gốc, tiền lãi trong hạn, tiền lãi quá hạn là có căn cứ, cần được chấp nhận.
[5] Án phí dân sự: Yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn được chấp nhận vì
vậy ông Nguyễn Vũ D và bà Hứa Trần Phương C phải nộp 1.432.000 đồng
(28.639.000 đồng x 5% = 1.432.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm là theo quy
định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 26 của NQ
326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các khoản 3 Điều 26; Điều 35; Điều 235; Điều 147 của Bộ luật tố
tụng dân sự;
Áp dụng Luật các tổ chức tín dụng; Điều 26 NQ 326/2016/UBTVQH14,
ngày 30/12/2016.
Tuyên xử:
[1] Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng chính sách xã hội Việt
Nam.
Buộc ông Nguyễn Vũ D và bà Hứa Trần Phương C phải thanh toán cho
Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam tổng số tiền 28.639.000 đồng .Trong đó
số tiền nợ gốc là 20.000.000 đồng; Số tiền lãi trong hạn còn lại là 6.098.000
đồng; Số tiền lãi quá hạn là 2.541.000đồng (Tính từ ngày 17/10/2017 đến ngày
11/01/2019).
Ông Nguyễn Vũ D và bà Hứa Trần Phương C có nghĩa vụ thanh toán số tiền
lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên
thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng số 600000640009084 ngày 14/12/2011
(Hợp đồng thể hiện tại Sổ vay vốn và Giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử
dụng vốn vay), kể từ ngày 12/01/2019 cho đến khi thi hành xong khoản nợ gốc
này.
[2] Án phí: Buộc ông Nguyễn Vũ D và bà Hứa Trần Phương C phải nộp
1.432.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.
[5]Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo Bản án trong
hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Bị đơn; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày
nhận được Bản án hoặc niêm yết Bản án lên Tòa án cấp trên yêu cầu xét xử
phúc thẩm.
Trường hợp Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự thì người đựơc thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thu hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật Thi
hành án dân sự. Thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Đắk Nông;
- VKSND huyện.Krông Nô;
- CC THADS huyện Krông Nô;
- Các đưong sự;
- Lưu HS vụ án.
TM/HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán – Chủ Tọa phiên toà
(Đã ký)
Lê Thị Tím
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 27/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 17/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 13/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 11/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 11/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 11/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 05/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 04/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 04/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 03/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 30/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 30/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 30/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 30/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 30/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 30/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm