Bản án số 01/2025/HNGĐ-ST ngày 09/07/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 3 - Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 01/2025/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 01/2025/HNGĐ-ST ngày 09/07/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 3 - Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân khu vực 3 - Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng
Số hiệu: 01/2025/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 09/07/2025
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chị Trần Thị P ly hôn với anh Triệu Văn B
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
KHU VỰC 3 - CAO BẰNG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 01/2025/HNGĐ-ST
Ngày 09/7/2025
V/v: Xin ly hôn, tranh chấp quyền
nuôi con và chia tài sản chung khi ly hôn.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN KHU VỰC 3 - TỈNH CAO BẰNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Nông Quốc Hùng;
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Bế Ngọc Báu
2. Bà Nông Diệu Huế
- Thư phiên toà: Triệu Thị Thu Hương - Thư Toà án nhân dân khu
vực 3 - tỉnh Cao Bằng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân khu vực 3 tham gia phiên tòa: Ma
Kim Hiệp - Kiểm sát viên.
Ngày 09 tháng 7 năm 2025, tại Trụ sở Tán nhân dân khu vực 3 - tỉnh Cao
Bằng xét xử thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ số:
113/2024/TLST-HNGĐ ngày 16/12/2024 về việc Ly hôn, tranh chấp quyền nuôi
con chia tài sản chung khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:
24/2025/QĐXXST - HNGĐ ngày 13 tháng 6 năm 2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Trần Thị P, sinh năm 1988; Có mặt;
- Bị đơn: Anh Triệu Văn B, sinh năm 1984; mặt.
Cùng địa ch thường trú: Xóm B, xã Q, tỉnh Cao Bằng.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 08/11/2024 c lời khai tiếp theo tại Tòa, nguyên
đơn Trần Thị P trình bày: Ch đăng kết hôn với anh Triệu Văn B vào ngày
04/5/2011 tại Ủy ban nhân dân xã X, huyện T, tỉnh Cao Bằng (NayỦy ban nhân
dân xã Q, tỉnh Cao Bằng) việc đăng ký do hai bên tự nguyện. Quá trình chung sống
hạnh phúc. Tuy nhiên, chị P cho rằng hai vợ chồng xảy ra mâu thuẫn một phần do
mẹ chồng của chị luôn coi thường, xúc phạm chị, chồng chị luôn tin tưởng mnên
đã những lời lẽ xúc phạm chị và gia đình. Hai anh chị đã ly thân được hơn một
năm. Chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt
được nên chị yêu cầu được ly hôn với anh B.
2
Về con chung, một con chung cháu Triệu Minh H, sinh ngày
12/01/2011. Hiện nay cháu đang sống cùng với anh B. Sau khi ly hôn, cháu Hsẽ do
bố chăm sóc và nuôi dưỡng, chị P không cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung: những đồ dùng sinh hoạt chung như Ti vi, tủ lanh, bàn
ghế, bình nóng lạnh, máy giặt,...khi chị làm dâu còn được sửa nhà, xây nhà tắm,
xây chuồng lợn, chuồng trâu. Ngoài ra, trong thời kỳ hôn nhân, chị đôi Bg tai
vàng nhưng mẹ chồng chị đã mượn để mua trâu và hứa hẹn trả lại nhưng tới nay
vẫn không trả. Nay về tài sản, chị yêu cầu anh B có trách nhiệm thanh toán cho chị
100.000.000đ, tài sản sẽ do anh B sử dụng.
Nợ chung xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại bản tự khai ngày 24/02/2025 các lời khai tiếp theo anh Triệu Văn B
trình bày: Anh xác nhận các vấn đề về thời gian kết hôn, tình cảm, con cái như chị
P trình bày là đúng. Quá trình chung sống giữa hai vợ chồng có mâu thuẫn do chị P
quan hệ ngoài luồng với người khác. Nay chị P yêu cầu ly hôn, anh nhất trí ly
hôn.
Vcon chung: 01 con chung cháu Triệu Minh H. Sau khi ly hôn anh
nhất trí sẽ người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu. Không yêu cầu chị P cấp
dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung: Không nhất trí với yêu cầu của chị P. Những tài sản như chị
P liệt kê sẽ để lại cho con chung là Triệu Minh H.
Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 21/5/2025 của Tòa án, bà Hoàng Thị Luyến cho
biết: mẹ chồng của chị P, mẹ đẻ của anh B. Chị P anh B kết hôn vào năm
2011, kết hôn tự nguyện được tìm hiểu. Sau khi kết hôn, hai anh chị chung
sống cùng bà tại xóm B. Ban đầu anh chị chung sống hạnh phúc, tuy nhiên tới năm
2022, gia đình phát hiện chị P ngoại tình với một người đàn ông khác nợ nần
ngoài, gia đình đã nhiều lần khuyên bảo nhưng không kết quả. Tới tháng
10/2023, chị P mượn xe họ hàng đi bán rồi về nhà ngoại sinh sống, từ đó chị P và
anh B ly thân. Anh chị 01 con chung hiện đang sống cùng bố bà tại xóm B.
Về tài sản, không sự việc đôi Bg tai như chP trình bày, vào năm 2011 mua
trâu với họ hàng nhưng không vay tiền chị P để mua trâu. Từ khi chị P đi làm, ch
P kiếm tiền tự chi tiêu, không được vay mượn gì với chị P. Về các tài sản như
chuồng trâu chuồng ngựa và anh B làm, khi đó chị P đi làm không gửi tiền
cũng không góp công, còn ntắm do chị P B cùng làm. Tuy nhiên về yêu cầu
được thanh toán 100.000.000đ của chị P, bà không nhất trí, do chị P đi làm từ 2015
không gửi tiền về giúp nuôi con.
Tại biên bản xác minh ngày 25/6/2025 của Tòa án, qua việc xác minh với
trưởng xómm B, xã X, huyện T, (Nay là xã Q) tỉnh Cao Bằng cho biết: Chị P và
anh B công dân sinh sống tại xóm B. Quá trình chung sống vợ chồng đã phát
sinh mâu thuẫn nhiều lần, thậm chí cả xô xát, do khi chị P đi làm ng
nhân vay nợ nhiều nên đã mang xe tự mua đi cầm cố, ngoài ra chị P còn
quan hệ tình cảm với người đàn ông khác. Khi chị P anh B xảy ra xát, chị P
3
đăng video lên mạng khiến anh B bức xúc, tổ hòa giải xóm chưa được làm việc
hòa giải nhưng bản thân trưởng xóm đã được can thiệp, khuyên bảo nhiều lần.
Hiện chị P đã về nhà ngoại sinh sống. Hai anh chị 01 con chung cháu Triệu
Minh H, hiện đang sống tại xóm B cùng bố nội. Chủ yếu cháu H do nội
chăm sóc. Anh B làm nghề tự do chịu khó làm ăn, đủ khả năng để chăm sóc
cũng như đảm bảo các điều kiện sống khác cho con.
Tại phiên tòa:
Chị P xác định mâu thuẫn vợ chồng đã không thể hàn gắn được nữa nên giữ
nguyên yêu cầu xin ly hôn với anh B. Về con chung, chị P yêu cầu được trực tiếp
chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con, không đặt ra vấn đề cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Chị P thay đổi yêu cầu khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu được hưởng
100.000.000đ từ khối tài sản chung, không yêu cầu tòa án xem xét về tài sản
chung. Về nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Anh B giữ nguyên ý kiến của mình, nhất trí ly hôn với chị P. Về con chung,
anh B tôn trọng ý kiến của con nếu con lựa chọn với bthì anh sẽ người trực
tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu. Không yêu cầu chị P cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung: Tại phiên tòa chị P rút toàn bộ yêu cầu về phần tài sản anh B
không có ý kiến gì. Về nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư trong
quá trình giải quyết vụ án đương sự kể từ khi thụ vụ án cho đến trước thời
điểm Hội đồng xét xử nghị án đều tuân theo chấp hành đúng pháp luật tố tụng
dân sự. Về hướng giải quyết vụ án đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Căn cứ khoản
1 Điều 28; Điều 35; Điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147 Điều 271, Điều 273 Bộ
luật Tố tụng dân sự; Điều 55, 57, 59, 61, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân gia đình
năm 2014; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý sử dụng án phí lệ phí Tòa án; Khoản 3 Điều 11 Nghị quyết
số: 01/2024/NQ-HĐTP ngày 16/5/2024 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết vụ việc
về hôn nhân và gia đình.
- Vquan hhôn nhân: Công nhận việc thuận tình ly hôn giữa chị Trần Thị P
và anh Triệu Văn B.
- Về con chung: Giao cháu Triệu Minh H, sinh ngày 12/01/2011 cho anh
Triệu Văn B trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu Hđủ 18
tuổi (Hoặc đến khi có bản án, quyết định khác của Tòa án thay thế). Không đặt vấn
đề cấp dưỡng nuôi con đối với chị P.
Sau khi ly hôn, chị P có quyền đi lại thăm nom con chung không ai được phép
cản trở. Vì quyền lợi của con, khi có căn cứ, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu
Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con theo quy
định của pháp luật.
- Về tài sản chung, nợ chung: Tại phiên tòa chị Trần Thị P rút toàn bộ yêu cầu
về chia tài sản. Nên không đặt ra xem xét giải quyết.
4
- Về án phí: Các đương sự phải chịu án phí dân sự thẩm theo quy định của
pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1]. Về thẩm quyền quan hệ tranh chấp: Bị đơn Triệu Văn B hộ khẩu
thường trú tại xóm B, xã Q, tỉnh Cao Bằng. Vì vậy, theo quy định tại điểm a khoản
1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
nhân dân khu vực 3 tỉnh Cao Bằng. Căn cứ Đơn yêu cầu khởi kiện Hội đồng xét
xử xác định quan hệ tranh chấp cần giải quyết ly hôn, tranh chấp về quyền nuôi
con và chia tài sản chung khi ly hôn theo khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tung dân sự.
[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị P anh Triệu Văn B cùng xác nhận
đăng ký kết hôn vào năm 2011 tại Ủy ban nhân dân xã X, huyện T, (Nay là Ủy ban
nhân dân Q), tỉnh Cao Bằng, việc đăng kết hôn tự nguyện, nên việc kết
hôn giữa chị P anh B hợp pháp quan hệ vợ chồng được pháp luật công
nhận từ ngày đi đăng ký kết hôn.
Sau khi kết hôn thời gian đầu vợ chồng sống hòa thuận, hạnh phúc nhưng sau
đó vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn. Mâu thuẫn trở nên gay gắt thậm chí
trưởng xóm cũng can thiệp nhiều lần nhưng không mang lại kết quả. Tại tòa cả hai
đều xác nhận tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được
nên đều nhất trí thuận tình ly hôn. Từ những phân tích, nhận định trên đây, xét thấy
tình trạng hôn nhân giữa chị P và anh B đã có mâu thuẫn trầm trọng, đời sống
chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. vậy, yêu cầu xin
ly hôn của chị P, ý kiến nhất trí ly hôn của anh B và ý kiến của Kiểm sát viên
căn cứ nên cần được chấp nhận theo quy định tại Điều 55 Luật hôn nhân gia đình
năm 2014.
[3]. Về con chung và cấp dưỡng nuôi con: Hai bên đương sự xác nhậnmột
con chung cháu Triệu Minh H, sinh ngày 12/01/2011. Hin nay cháu đang sống
cùng bố tại xóm B. Trong đơn xin ly hôn chị P mong muốn con chung sẽ do anh B
chăm c nuôi dưỡng, không đặt ra việc cấp dưỡng nuôi con. Tại phiên tòa chi
P thay đổi yêu cầu mong muốn được trực tiếp nuôi con. Anh B cho biết sẽ tôn
trọng nguyện vọng của con, nếu con chung lựa chọn chung sống với anh, anh sẽ là
người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung không đặt ra yêu cầu cấp dưỡng
nuôi con đối với chị P. Tại biên bản lấy lời khai ngày 24/02/2025 với cháu Triệu
Minh H tại phiên tòa, cháu trình bày nguyện vọng muốn tiếp tục với bố vì đã
với bố tnhỏ, cũng như đang học hành tại X. Hội đồng xét xử nhận thấy việc
giao cháu Hcho anh Triệu Văn B trực tiếp chăm c, nuôi dưỡng phợp với
nguyện vọng của cháu H. Ngoài ra, qua việc xác minh tại nơi thường trú của anh B
và cháu Hcho thấy hiện nay cháu Hđang sinh sống cùng bố và bà nội tại xóm B, xã
X (nay Q), việc sinh hoạt hàng ngày của cháu được bà nội hỗ trợ chăm sóc,
bản thân anh B cũng chăm chỉ lao động tự do có thu nhập nên đảm bảo về việc trực
tiếp nuôi con. Về phần chị P hiện nay chưa chỗ ổn định, từ khi ly thân chị
phải về sống nhờ nhà bố mẹ đẻ, tại phiên tòa chị P cho biết nếu chị trực tiếp nuôi
con chị sẽ đưa cháu Hvề sống nhờ nhà ông ngoại chị sẽ đi làm công nhân để
kiếm tiền nuôi con. Như vậy, nếu giao con chung cho chị P trực tiếp nuôi con sẽ
5
không đảm bảo cho việc chăm sóc nuôi dưỡng con chung cũng trái với nguyện
vọng của con chung.
Từ những phân tích nêu trên xét thấy cần giao cháu Triệu Minh Hcho anh
Triệu Văn B chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục căn cứ. Do anh B không đặt
ra việc cấp dưỡng nuôi con, nên không đặt ra việc xem xét cấp dưỡng nuôi con đối
với chị P.
[4]. Về tài sản chung, nợ chung:
Tại đơn yêu cầu khởi kiện biên bản hòa giải chị P cho rằng hai vợ chồng
có những tài sản chung như: Ti vi, tủ lạnh, bàn ghế, máy nóng lạnh, chị P được xây
nhà tắm, sửa nhà, làm chuồng trâu, chuồng lợn,... Chị P yêu cầu anh B trách
nhiệm thanh toán cho chị P 100.000.000đ tiền tài sản chung, còn các tài sản trên sẽ
do anh B sử dụng. Tại phiên tòa chị P rút toàn bộ yêu cầu về chia tài sản chung
không yêu cầu tòa án giải quyết về phần tài sản chung trong vụ án này.
Xét thấy, chị P hoàn toàn tự nguyện rút toàn bộ yêu cầu về phần tài sản
chung, không yêu cầu tòa án xem giải quyết trong vụ án này. Anh B không ý
kiến về việc rút yêu cầu của chị P. Nên Hội đồng xét xử chấp nhận về việc rút
toàn bộ yêu cầu về việc chia tài sản chung của chị P không đặt ra xem xét trong
vụ án này.
[5]. Về án phí: Trong quá trình hòa giải các bên đương sự đã tự nguyện ly hôn
nên mỗi bên phải chịu 75.000 đồng tiền án phí yêu cầu xin ly hôn để sung quỹ Nhà
nước. Về án phí chia tài sản chung chị P đã rút toàn bộ yêu cầu về phần tài sản
chung, nên chị P không phải chịu án phí về chia tài sản chung.
Chị P đã nộp tạm ứng án phí 2.500.000 đồng tại biên lai thu nộp án phí, lệ phí
Tòa án số 0002768 ngày 16/12/2024 tại Chi cục Thi hành án dân shuyện Trùng
Khánh, tỉnh Cao Bằng. Nay chị P được hoàn trả lại số tiền 2.425.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 28; Điều 35; Điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147, Điều
227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 55, 57, 81, 82,
83, 84 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Khoản 3 Điều 11 Nghị quyết số: 01/2024/NQ-HĐTP ngày 16/5/2024 của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp
luật trong giải quyết vụ việc về hôn nhân và gia đình.
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận việc thuận tình ly hôn giữa chị Trần Thị
P và anh Triệu Văn B.
2. Về con chung: Giao cháu Triệu Minh H, sinh ngày 12/01/2011 cho anh
Triệu Văn B trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu Hđủ 18
6
tuổi (Hoặc đến khi có bản án, quyết định khác của Tòa án thay thế). Không đặt vấn
đề cấp dưỡng nuôi con đối với chị P.
Sau khi ly hôn, chị P có quyền đi lại thăm nom con chung không ai được phép
cản trở. Vì quyền lợi của con, khi có căn cứ, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu
Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con theo quy
định của pháp luật.
3. Về tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn rút yêu cầu vphần tài sản tại
phiên. Nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết trong vụ án này.
4. Về án phí: Chị Trần Thị P anh Triệu Văn B mỗi người phải chịu
75.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm về yêu cầu xin ly hôn. Chị P đã nộp tạm
ứng án phí 2.500.000 đồng tại biên lai thu nộp án phí, lệ phí Tòa án s0002768
ngày 16/12/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao
Bằng, nay được trừ vào số tiền án phí chị P phải nộp. Chị P được hoàn trả lại số
tiền tạm ứng án phí đã nộp quá là 2.425.000 đồng.
5. Về quyền kháng cáo: Chị P anh B quyền kháng cáo Bản án trong
thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Cao Bằng;
- VKS khu vực 3;
- Phòng THADS khu vực 3;
- UBND xã Q;
- Các đương sự;
- Lưu án văn;
- Lưu hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
(Đã ký)
Nông Quốc Hùng
Tải về
Bản án số 01/2025/HNGĐ-ST Bản án số 01/2025/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 01/2025/HNGĐ-ST Bản án số 01/2025/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất