Bản án số 966/2023/HS-PT ngày 18-12-2023 của TAND cấp cao về về tội giết người
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
966_2023_HS-PT_HCM
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
966_2023_HS-PT_HCM
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 966/2023/HS-PT
| Tên Bản án: | Bản án số 966/2023/HS-PT ngày 18-12-2023 của TAND cấp cao về về tội giết người |
|---|---|
| Tội danh: | 123.Tội giết người (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND cấp cao |
| Số hiệu: | 966/2023/HS-PT |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 18/12/2023 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: | Nguyễn Hoàng D, Nguyễn Nam T, Huỳnh Thanh T1, Nguyễn Trung T2, Nguyễn Quang Minh C, Trần Đức T3, Nguyễn Hữu T4, Nguyễn Thanh Đ, Trần Tấn P phạm tội giết người |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh Phúc
Bản án số: 966/2023/HS-PT
Ngày: 18 - 12 - 2023
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Vũ Ngọc Huynh
Các Thẩm phán: Ông Phan Nhựt Bình
Bà Nguyễn Thị Thúy Hòa
- Thư ký phiên tòa: Ông Phạm Phú Cường, Thư ký Tòa án nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Đỗ Thành Đạt - Kiểm sát viên.
Ngày 18 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang,
Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử công khai vụ án
hình sự phúc thẩm thụ lý số: 763/2023/TLPT-HS ngày 06 tháng 10 năm 2023
đối với các bị cáo Nguyễn Hoàng D, Nguyễn Nam T, Huỳnh Thanh T1, Nguyễn
Trung T2, Nguyễn Quang Minh C, Trần Đức T3, Nguyễn Hữu T4, Nguyễn
Thanh Đ và Trần Tấn P. Do có kháng cáo của các bị cáo Huỳnh Thanh T1,
Nguyễn Hữu T4, Trần Tấn P, Nguyễn Trung T2, Nguyễn Quang Minh C,
Nguyễn Thanh Đ và đại diện hợp pháp của bị hại là bà Trần Thị T5 đối với Bản
án hình sự sơ thẩm số 63/2023/HS-ST ngày 22/8/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh
Kiên Giang.
- Bị cáo kháng cáo và bị kháng cáo:
1. Nguyễn Hoàng D, sinh năm 1994 tại thành phố Hồ Chí Minh; Nơi cư
trú: 8, đường P, phường A, T, thành phố. Hồ Chí Minh; Tạm trú: khu phố A, thị
trấn D, Tp ., tỉnh Kiên Giang; Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo:
Không. Nghề nghiệp: Làm thuê. Trình độ học vấn: 8/12; Con ông Nguyễn Tiến
D1, sinh năm 1970 và bà Vân Thị T6, sinh năm 1971; Chị ruột có 01 người,
sinh năm 1993. Tiền sự: Không.
2
Tiền án: Ngày 04/9/2015, bị Tòa án nhân dân (TAND) quận T, thành phố
Hồ Chí Minh tuyên phạt 05 năm tù về tội cướp giật tài sản, theo khoản 2 Điều
136 Bộ luật Hình sự năm 1999, tại bản án số 234/2015/HSST; ngày 25/8/2018
chấp hành xong hình phạt tù tại Nhà tạm giữ Công an quận T. Chưa xóa án tích
.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/4/2022 cho đến nay (có mặt).
2. Nguyễn Nam T (tên gọi khác: Tú Đ1), sinh năm 1992 tại Kiên Giang;
Nơi cư trú: ấp G, xã L, huyện L, tỉnh Hậu Giang; Tạm trú: khu phố A, thị trấn D,
Tp ., tỉnh Kiên Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không.
Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 6/12; Con ông Nguyễn Nam T7, sinh
năm 1973 và bà Tăng Minh Kim T8, sinh năm 1976. Tiền sự: Không.
Tiền án: 01 lần, ngày 15/4/2021 bị TAND thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên
Giang tuyên phạt 12 tháng tù giam về tội trộm cắp tài sản, tại bản án số
52/HSST, chấp hành xong hình phạt tù tại Trại giam K1- Bộ C2. Chưa xóa án
tích.
Về nhân thân: Ngày 02/02/2010, bị TAND huyện (nay là thành phố) P,
tỉnh Kiên Giang tuyên phạt 01 năm 06 tháng tù về tội cố ý gây thương tích, tại
bản án số 06/HSST, đã chấp hành xong hình phạt. Đã xóa án tích.
Ngày 13/6/2013 bị TAND tỉnh Kiên Giang xử phúc thẩm tuyên phạt 04
năm tù về tội cố ý gây thương tích, tại bản án số 132/2013/HSPT, đã chấp hành
xong hình phạt. Đã xóa án tích.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/3/2023 cho đến nay (có mặt).
3. Huỳnh Thanh T1, sinh năm 1994 tại Cần Thơ; Nơi cư trú: ấp E, xã T,
huyện C, thành phố Cần Thơ; Tạm trú: khu phố A, phường D, thành phố P, tỉnh
Kiên Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề
nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 7/12; Con ông Huỳnh Thanh T9, sinh năm
1973 và bà Trần Thị T10, sinh năm 1973; Vợ Châu Ngọc T11, sinh năm 1996;
Con có 01 người, sinh năm 2020. Em ruột có 02 người, lớn nhất sinh năm 2003,
nhỏ nhất sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/02/2023 cho đến nay (có mặt).
4. Nguyễn Trung T2, sinh năm 1995 tại Cần Thơ; Nơi cư trú: khu vực T,
phường L, quận Ô, thành phố Cần Thơ; Tạm trú: khu phố A, thị trấn D, Tp .,
tỉnh Kiên Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề
nghiệp: Làm Thuê; Trình độ học vấn: 6/12. Con ông Nguyễn Thanh T12, sinh
năm 1978 và bà La Thị V, sinh năm 1978; Em ruột: 01 người, sinh năm 1999;
Vợ Nguyễn Thị Hoài T13, sinh năm 1999; Con có 02 người, sinh năm 2014 và
năm 2020; Tiền sự, Tiền án: Không.
Về nhân thân, bị TAND huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh tuyên
3
phạt 03 năm tù về tội cố ý gây thương tích, tại bản án số 77/HSST, ngày
18/4/1014; chấp hành xong hình phạt tù tại Trại giam C3 - Bộ C2. Đã xóa án
tích.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/4/2022 cho đến nay (có mặt).
5. Nguyễn Quang Minh C, sinh năm 1987 tại thành phố Hồ Chí Minh;
Nơi cư trú: 8 C, phường A, T, thành phố Hồ Chí Minh; Tạm trú: khu phố A, thị
trấn D, Tp ., tỉnh Kiên Giang; Quốc tịch: Việt Nam Dân tộc: Kinh; Tôn giáo:
Không; Nghề nghiệp: Làm Thuê; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông Nguyễn
Quang B, sinh năm 1962 và bà Võ Thị H, sinh năm 1963; Em ruột có 01 người,
sinh năm 1988; Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/4/2022 cho đến nay (có mặt).
6. Trần Đức T3, sinh năm 1999 tại thành phố Hồ Chí Minh; Nơi cư trú:
72/8/2 A, đường H, tổ C, khu phố B, phường A, quận T, thành phố Hồ Chí
Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp:
Làm Thuê. Trình độ học vấn: 10/12; Con ông Trần Văn Đ2, sinh năm 1972 và
bà Lê Thị Thu N, sinh năm 1967; Em ruột có 01 người, sinh năm 2004; Tiền án,
tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/4/2022 cho đến nay (có mặt).
7. Nguyễn Hữu T4, sinh năm 1994 tại Cần Thơ; Nơi cư trú: khu vực T,
phường T, quận Ô, thành phố Cần Thơ; Tạm trú: khu phố A, thị trấn D, Tp .,
tỉnh Kiên Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề
nghiệp: Làm Thuê; Trình độ học vấn: 4/12; Con ông Nguyễn Văn H1, sinh năm
1975 và bà Nguyễn Thị Kim H2, sinh năm 1969; Em ruột có 01 người, sinh
năm 2000; Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/4/2022 cho đến nay (có mặt).
8. Nguyễn Thanh Đ, sinh năm 1992 tại Hậu Giang; Nơi cư trú: ấp E, xã
V, huyện V, tỉnh Hậu Giang; Tạm trú: khu phố A, thị trấn D, Tp ., tỉnh Kiên
Giang; Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh;Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp:
Làm Thuê; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1967 và
bà Lê Thị H3, sinh năm 1973; Vợ Thị Thì S, sinh năm 1993; Con Nguyễn Ngọc
Như Ý, sinh năm 2021; Em ruộtcó 01 người, sinh năm 1997; Tiền án, tiền sự:
Không.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/4/2022 cho đến nay (có mặt).
9. Trần Tấn P, sinh năm 1994 tại Cần Thơ; Nơi cư trú: khu vực T,
phường L, quận Ô, thành phố Cần Thơ; Tạm trú: khu phố A, thị trấn D, Tp .,
tỉnh Kiên Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề
nghiệp: Làm Thuê; Trình độ học vấn: 8/12; Con ông Trần Văn T14, sinh năm
4
1965 và Phạm Bích T15, sinh năm 1966; Em ruột: 01 người, sinh năm 2000;
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/4/2022 cho đến nay (có mặt).
(Các bị cáo có mặt tại phiên tòa).
- Người bào chữa chỉ định cho bị cáo Nguyễn Thanh Đ, Trần Đức T3,
Nguyễn Hữu T4, Nguyễn Hoàng D; Trần Tấn P; Nguyễn Nam T: Luật sư Thái
Đức G - Công ty L3 - thuộc Đoàn luật sư tỉnh K (có mặt).
Địa chỉ: số A, ấp P, xã M, huyện C, tỉnh Kiên Giang.
- Người bào chữa chỉ định cho bị cáo Huỳnh Thanh T1: Luật sư Trần
Dương Hoàng T16 - Văn phòng L4 thuộc Đoàn luật sư tỉnh K (có mặt).
- Người bào chữa chỉ định cho bị cáo Nguyễn Quang Minh C1: Luật sư
Lại Hùng A - Văn phòng L5 thuộc Đoàn luật sư tỉnh K (có mặt).
Địa chỉ: ấp V, thị trấn V, huyện V, tỉnh Kiên Giang.
- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Trung T2: Luật sư Thái Đức G -
Công ty L3 - thuộc Đoàn luật sư tỉnh K (có mặt).
Địa chỉ: số A, ấp P, xã M, huyện C, tỉnh Kiên Giang.
- Người bị hại: Ông Trần Hoàng G1, sinh năm 1969 (đã chết).
- Đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Trần Thị T5, sinh năm 1990 (có mặt).
Địa chỉ: ấp S, xã D, thành phố P, tỉnh Kiên Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 16 giờ ngày 09/4/2022, Trần Hoàng G1, Trần Văn N1 (T12),
Cao Tấn B1 và một số người bạn tổ chức uống bia tại quán Q, ở số D, đường N,
khu phố A, phường D, thành phố P, tỉnh Kiên Giang. Lúc này, Nguyễn Đăng K
là Đội trưởng đội bảo vệ của quán bar I1 thuộc khu phố A, phường D, thành phố
P được rủ đến nhậu chung. Thời gian ngồi nhậu chung, K đi lại dẫm lên chân
của B1 nên xảy ra cự cãi. Đến khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày thì nghỉ nhậu,
G1 đi ra ngoài tính tiền quán rồi quay trở lại phòng nhậu, thấy K và B1 cự cãi
nên G1 bênh vực B1 thì được mọi người can ngăn ra nhà xe của quán. Tại đây,
T12 can ngăn K đứng phía trong nhà xe, còn ông Bùi Tấn L1 (chủ quán) can
ngăn G1 đứng phía trước nhà xe. Khi đứng ở nhà xe, giữa G1 và K tiếp tục cự
cãi, thách đánh nhau. Tại thời điểm này, Lê Thị Châu P1 là nhân viên quán, điện
thoại cho Nguyễn Hữu T17 (Bi) là nhân viên bảo vệ quán bar I1 đặt bàn để
khuya đến chơi, thấy G1 và K đang cự cãi nên nói cho T17 biết. T17 liền điện
thoại kêu Huỳnh Thanh T1, là bảo vệ bar 9E đến quán Q bị đánh như thế nào.
5
Lúc này Huỳnh Thanh T1, Nguyễn Hoàng D, Nguyễn Thanh Đ, Trần Đức T3,
Nguyễn Trung T2, Nguyễn Quang Minh C, Nguyễn Hữu T4, Trần Tấn P,
Nguyễn Nam T (T) đều là bảo vệ bar 9E đang làm việc tại bar I thì Tòng hô to,
kêu cả nhóm: “anh K bị đánh ở quán Q, anh em qua đó hết”. Nghe T1 kêu, cả
nhóm biết đi đánh tiếp K nên lên xe chạy đến quán Q; cùng đi có 01 thanh niên
mặc áo trắng, có hoa văn ở lưng áo có tên là T17 (chưa xác định được nhân
thân). Khi đi thì Đ điều khiển xe mô tô biển số 94F1- 111.18 chở Đức T3 chạy
đi trước; tiếp theo T1 điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Sirus (không xác định được
biển số, xe của ông Nguyễn Văn H4 cho Trung T2 mượn) chở Trung T2, Trung
T2 đem theo 04 cây roi điện; tiếp theo T4 điều khiển xe mô tô hiệu Wave Trung
Quốc, không rõ biển số chở P và T17 (mặc áo trắng); sau cùng C điều khiển xe
mô tô biển số 59P2-818.82 chở T và D, trong đó D lấy theo cây dao bấm xếp dài
22,5cm để vào túi quần. Khi Đ, Đức T3, T1, T đến quán Q, thấy G1, ông L1 và
Võ Chí T18 là nhân viên quán Q1 đứng phía trước nhà xe; còn K được T12 can
ngăn lại phía trong nhà xe. Thấy Đ, Đức T3, T1, Trung T2 đến, K xông ra và chỉ
tay về phía G1 nói: “đánh chết mẹ nó”. Lúc này Đ, Đức T3, T1, Trung T2 chưa
xác định được G1 để đánh nên xông đến định đánh ông L1 và T18 nên ông L1
và T18 nói nhầm người rồi thì Đ, Đức T3, T1, Trung T2 chạy qua, vô trong
quán tìm G1 để đánh. Ngay lúc này, T4, P, T17, C, D, T chạy xe đến cùng xông
vào quán tìm G1 để đánh. Khi cả nhóm chạy vào quán, không tìm được G1 nên
quay trở ra trước nhà xe thì thấy K xông vào đánh G1, bị G1 đánh trả té ngã thì
cả nhóm đồng loạt xông vào đánh G1. Trong đó, D dùng tay phải lấy cây dao
trong túi quần ra, bấm bật lưỡi dao hướng vào ngón tay cái (cầm cán dao theo
kiểu nắm đấm thông thường, mu bàn tay quay lên trên), nhào vô đâm liên tiếp
vào người G1 02 nhát, trong đó 01 nhát trúng vào hông trái, 01 nhát trúng vào
lưng, sau đó D cầm dao đi ra ngoài đứng. Còn Đ, Đức T3, T1, Trung T2, T4, P,
C, T và T17 (mặc áo trắng), lúc này đều mang giày, vẫn xông vào dùng tay,
chân đánh, đá liên tiếp vào người G1. Đến khi G1 té ngã trên nền nhà xe, không
còn khả năng kháng cự, hai tay ôm đầu, nằm co người thì các bị can vẫn tiếp tục
đánh. Trong đó: Đ dùng chân đạp liên tiếp nhiều cái vào người G1; Đức T3
dùng chân đá liên tiếp nhiều cái vào người G1; T1 dùng chân dậm, đá liên tiếp
vào người G1; Trung T2 cầm roi điện ghim vào bụng của bị hại để giật điện; T4
dùng chân đá liên tiếp nhiều cái vào người G1; P dùng chân trái đang mang giày
đá liên tiếp nhiều cái vào người G1, trong đó xác định đá 02 cái trúng vào chân
của bị hại; C dùng tay đánh từ trên xuống vào người bị hại G1 nhiều cái; T dùng
tay đánh G1 nhiều cái, đến khi G1 nằm nghiêng, mất khả năng kháng cự thì
dùng chân phải đá mạnh vào mặt G1 thêm 01 cái; còn T17 (mặc áo trắng) bay
người, dùng chân đạp G1 té ngã và dùng chân đá, dậm bị hại G1 nhiều nhất. Lúc
6
này, Nguyễn Quang Minh N2 cũng là bảo vệ bar 9E chở Nguyễn Hữu T17 (B)
đến, thấy nhóm bảo vệ đang đánh G1 nằm gục nên Hữu Trí vào can ngăn, kêu cả
nhóm ra về, còn N2 đứng bên ngoài đợi. Lúc này nhóm chăm sóc khách hàng
của bar 9E gồm có: Nguyễn Thanh M, Lê Huỳnh Đ3, Lê Vũ P2, Phan Văn T19,
Dương Bảo T20 cũng chạy đến, đứng ngoài đường nhìn thấy nhóm bảo vệ 9E
đang đánh G1, riêng M thấy T đá vào mặt G1 nên vào can ngăn. Sau đó cả nhóm
lên xe về quán bar I1, lúc này xe ô tô của K đang đỗ trong nhà xe, G1 bị đánh
nằm gục chắn lối ra nên T1 kêu C kéo lê hất G1 qua một bên để T1 lùi xe ra về,
C hất mạnh làm đầu của G1 đập lên nền nhà xe. Khi về bar 9E thì cả nhóm làm
việc bình thường, riêng D thấy lưỡi dao bị dính máu nên vào nhà vệ sinh rửa rồi
đem cất giấu. Đến khi Đào Trọng H5 là chủ quán bar I1, hay tin nhân viên đánh
chết người nên gọi hỏi thì D thừa nhận đâm G1 tử vong. Sau đó Nguyễn Hoàng
D, Nguyễn Thanh Đ, Trần Đức T3, Nguyễn Trung T2, Nguyễn Hữu T4, Trần
Tấn P, Nguyễn Quang M1 C đến Công an thành phố P đầu thú, giao nộp hung
khí gây án. Sau khi bị khởi tố, đến ngày 14/3/2023, Nguyễn Nam T đến Cơ quan
điều tra đầu thú; còn Nguyễn Đăng K bỏ trốn chưa bắt được. Đối với Trần
Hoàng G1, sau khi bị đánh, bị đâm thì được Trần Văn N1 và Trương Phi L2 đưa
đến Trung tâm y tế thành phố P cấp cứu nhưng đã tử vong.
Tại Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 338/KL-KTHS ngày
07/5/2022 của Phòng K2 Công an tỉnh K đối với Trần Hoàng G1 như sau:
1. Các kết quả chính:
- Trên người nạn nhân có vết thương dẫn đến tử vong ở đường nách giữa
bên trái cách hõm nách trái 20cm, vết thương đã khâu 02 mũi chỉ, cắt chỉ khâu
vết thương có kích thước l,4cm x 0,7cm, bờ mép sắc gọn, sâu vào khoang ngực
bụng theo hướng chếch xuống và chếch ra sau. Vùng lưng phải cạnh đốt sống
thắt lưng L5 có vết thương kích thước l,2cm x 0,5cm, bờ mép sắc gọn sâu qua
lớp da.
- Bầm tụ máu và phù nề hốc mắt trái và thái dương trái.
- Tụ máu dưới da đầu vùng trán phải và trán trái.
- Tụ máu dưới da đầu vùng thái dương phải.
- Tụ máu cơ thái dương hai bên.
- Đứt thủng cơ hoành bên trái dài 2cm.
- Đứt lách dài 2cm, xuyên thấu từ mặt hoành sang mặt dạ dày.
- Đứt lìa động mạch lách.
- Thủng mạc nối lớn.
- Tụ máu dưới da - cơ vùng ngực phải và ngực trái.
7
- Phổi trái xẹp. Khoang màng phổi trái có khoảng 2000ml máu loãng.
- Ổ bụng có khoảng 200ml máu loãng.
Bệnh án ngoại khoa của Trung tâm y tế thành phố P với chuẩn đoán: Đa
thương khai do bạo lực xung đột/vết thương thấu ngực trái.
2. Nguyên nhân chết: sốc mất máu cấp do vết thương thấu vùng ngực
bụng trái gây đứt xuyên thấu lách và đứt lìa động mạch lách trên người có chấn
thương phần mềm.
3. Cơ chế hình thành thương tích:
Vết thương ở đường nách giữa bên trái dẫn đến tử vong và vết thương
vùng lưng phải trên người nạn nhân Trần Hoàng G1 có đặc điểm phù hợp với
đặc điểm vết thương do vật sắc nhọn gây nên.
Các vết thương khác trên người nạn nhân Trần Hoàng G1 có đặc điểm
phù hợp với đặc điểm vết thương do vật tầy gây nên.
* Bản kết luận giám định pháp y vật gây thương tích số 371/KL-KTHS
ngày 29/4/2022 của Phòng K2 Công an tỉnh K kết luận đối với cây dao do
Nguyễn Hoàng D giao nộp khi đầu thú như sau:
Cây dao gửi giám định gây được vết thương ở đường nách giữa bên trái
và vết thương ở vùng lưng phải trên tử thi Trần Hoàng G1.
* Kết luận giám định kỹ thuật sổ, số: 1136/KJL-KTHS ngày 29/11/2022
của Phòng K2 Công an tỉnh K đối với các tệp video do ông Bùi Tấn L1 giao nộp
như sau:
* Các tệp video gửi giám định có thời lượng: Tệp video “CH00_2022-04-
09J200000_2022-04-09_210001_ID0137.AVI” có thời lượng 01 giờ 00
phút.Tệp video CH00_2022-04-09_200001_2022-04-09_210001_ID0152.AVI”
có thời lượng 01 giờ 00 phút; Tệp video CH02_2022-04-09_200000_2022-04-
09_210000_IDOI39.AVI” có thời lượng 59 phút giờ 59 giây; Tệp video
“CH08_2022-04-09_200001_2022-04-09_210000
]
JD0150.AVI” có thời lượng
59 phút giờ 59 giây.
Không phát hiện thấy dấu vết cắt ghép, chỉnh sửa nội dung trong các tệp
video mẫu cần giám định.
- Trích xuất 43 (bốn mươi ba) tập ảnh của các tập video gửi giám định
(các tệp ảnh được lưu trong đĩa DVD kèm theo).
Kèm theo kết luận giảm định: 01 đĩa DVD chứa 43 tệp ảnh lưu trong mục
“Anh” có tổng dung lượng 11.7MB được trích xuất trong các đoạn camera gửi
giám định.
+ Việc thu giữ, xử lý vật chứng:
8
* 01 cây dao bấm xếp dài 22,5cm, cán dài 13cm bằng kim loại được ốp gỗ
màu đen, lưỡi dao bằng kim loại màu trắng dài 9,5cm sắc nhọn, nơi rộng nhất
l,5cm, cây dao đã qua sử dụng. Cây dao được niêm phong trong 01 bì thư và có
đóng dấu giáp lai bằng dấu tròn màu đỏ của Phòng K2 Công an tỉnh K, có chữ
ký của ông Lê Vũ H6, Danh Minh H7, Trần Hoàng T21.
* 04 cây roi điện màu đen, mỗi cây dài 16m, nơi rộng nhất 4,7cm, trên roi
điện có ghi dòng chữ “60000k VOLT 928 TYPE Direct-current ultrahigh
voltage”. Đã qua sử dụng.
* Đối với các xe mô tô do Nguyễn Quang Minh C, Nguyễn Hữu T4,
Nguyễn Thanh Đ điều khiển đi gây án như xe biển số: 59P2 - 818.82; xe biển
số: 94Ft- 111.18 và xe Wave (loại xe Trung Quốc), không rõ biển số. Sau khi
gây án, các bị can chạy về để tại bar 9E, Cơ quan điều tra tổ chức truy tìm
nhưng chưa thu giữ được, khi nào thu được xử lý sau.
Đối với xe mô tô nhãn hiệu Sirius do Huỳnh Thanh T1 điều khiển chở
Nguyễn Trung T2, là của ông Nguyễn Văn H4, cho Trung T2 mượn để làm
phương tiện đi lại hàng ngày, việc Trung T2 sử dụng đi gây án, ông H4 không
biết nên Cơ quan điều tra không xử lý.
Tại bản cáo trạng số: 26/CT-VKSTKG-P2 ngày 10/5/2023 của Viện kiểm
sát nhân tỉnh Kiên Giang đã truy tố các bị cáo Nguyễn Hoàng D, Nguyễn Nam
T, Huỳnh Thanh T1, Nguyễn Quang Minh C, Nguyễn Trung T2, Trần Đức T3,
Nguyễn Hữu T4, Nguyễn Thanh Đ, Trần Tấn P, về tội “Giết người” theo điểm n
khoản 1 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 63/2023/HS-ST ngày 22/8/2023, Tòa án
nhân dân tỉnh Kiên Giang quyết định:
1. Căn cứ vào: điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1, 2 Điều 51, điểm
h khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa
đổi bổ sung năm 2017;
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoàng D phạm tội “Giết người”;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng D 18 (mười tám) năm tù, thời điểm chấp
hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 10
tháng 4 năm 2022.
- Căn cứ vào: điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1 Điều 51, điểm
h khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa
đổi bổ sung năm 2017
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Nam T phạm tội “Giết người”;
9
Xử phạt bị cáo Nguyễn Nam T 14 (mười bốn) năm tù, thời điểm chấp
hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 11
tháng 3 năm 2023.
- Căn cứ vào: điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều
17, Điều 58 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;
Tuyên bố bị cáo Huỳnh Thanh Tòng phạm t “Giết người”;
Xử phạt bị cáo Huỳnh Thanh T1 16 (mười sáu) năm tù, thời điểm chấp
hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 10
tháng 02 năm 2023.
- Căn cứ vào: điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51,
Điều 17, Điều 58 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm
2017;
Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Trung T2, Trần Đức T3, Nguyễn Quang
Minh C, Trần Tấn P và Nguyễn Hữu T4 phạm tội “Giết người”;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Trung T2 14 (mười bốn) năm tù, thời điểm chấp
hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 10
tháng 4 năm 2022;
Xử phạt bị cáo Trần Đức T3 13 (mười ba) năm tù, thời điểm chấp hành
hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 10 tháng
4 năm 2022;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Quang M1 C 16 (mười sáu) năm tù, thời điểm
chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là
ngày 10 tháng 4 năm 2022;
Xử phạt bị cáo Trần Tấn P 13 (mười ba) năm tù, thời điểm chấp hành
hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 10 tháng
4 năm 2022;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu T4 13 (mười ba) năm tù, thời điểm chấp
hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 10
tháng 4 năm 2022.
- Căn cứ vào: điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều
17, Điều 58 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh Đ phạm tội “Giết người”;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh Đ 14 (mười bốn) năm tù, thời điểm chấp
hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 10
tháng 4 năm 2022.
10
2. Về trách nhiệm bồi thường: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự, Điều 591
Bộ luật dân sự. Buộc các bị cáo có nghĩa vụ bồi thường các khoản thiệt hại còn
lại và cấp dưỡng nuôi con của bị hại là Trần Khôi N3, sinh ngày 05/4/2013 cho
đại diện hợp pháp của bị hại bà Trần Thị T5 nhận, phần của từng bị cáo như
sau:
- Bị cáo Nguyễn Hoàng D phải bồi thường 66.027.500 đồng (sáu mươi
sáu triệu không trăm hai mươi bảy ngàn năm trăm đồng);
- Bị cáo Nguyễn Nam T phải bồi thường 56.027.500 đồng (năm mươi sáu
triệu không trăm hai mươi bảy ngàn năm trăm đồng);
- Bị cáo Huỳnh Thanh T1 phải bồi thường 44.027.500 đồng (bốn mươi
bốn triệu không trăm hai mươi bảy ngàn năm trăm đồng);
- Bị cáo Nguyễn Trung T2 phải bồi thường 44.027.500 đồng (bốn mươi
bốn triệu không trăm hai mươi bảy ngàn năm trăm đồng);
- Bị cáo Trần Đức T3 phải bồi thường 24.027.500 đồng (hai mươi bốn
triệu không trăm hai mươi bảy ngàn năm trăm đồng);
- Bị cáo Nguyễn Quang Minh C1 phải bồi thường 44.027.500 đồng (bốn
mươi bốn triệu không trăm hai mươi bảy ngàn năm trăm đồng);
- Bị cáo Trần Tấn P phải bồi thường 48.027.500 đồng (bốn mươi tám
triệu không trăm hai mươi bảy ngàn năm trăm đồng);
- Bị cáo Nguyễn Hữu T4 phải bồi thường 56.027.500 đồng (năm mươi sáu
triệu không trăm hai mươi bảy ngàn năm trăm đồng);
- Bị cáo Nguyễn Thanh Đ phải bồi thường 66.027.500 đồng (sáu mươi sáu
triệu không trăm hai mươi bảy ngàn năm trăm đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan
thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có
đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền
phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi
hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức
lãi suất qui định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và
quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 23/8/2023, bị cáo Trần Tấn P kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Ngày 28/8/2023, bị cáo Nguyễn Thanh Đ, Nguyễn Hữu T4 và Trần Đức T3
kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt; bị cáo Nguyễn Quang Minh C1 kháng cáo
yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại tội danh của bị cáo.
11
Ngày 03/9/2023 bị cáo Huỳnh Thanh T1 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Ngày 05/9/2023, đại diện hợp pháp của bị hại là bà Trần Thị T5 kháng cáo
yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm tăng nặng hình phạt đối với tất cả các bị cáo và
buộc các bị cáo bồi thường thêm tiền tổn thất tinh thần là 180.000.000 đồng, tiền
chi phí mai tang là 219.000.000 đồng và tiền cấp dưỡng nuôi con của bị hại là
432.000.000 đồng.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Các bị cáo Nguyễn Hoàng D, Nguyễn Nam T, Huỳnh Thanh T1,
Nguyễn Trung T2, Trần Đức T3, Nguyễn Hữu T4, Nguyễn Thanh Đ và
Trần Tấn P trình bày: Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như bản án sơ
thẩm đã nêu. Thống nhất tự nguyện nâng mức bồi thường và cấp dưỡng nuôi
con của bị hại là cháu Trần Khôi N3 với tổng số tiền 684.000.000 đồng và chia
đều số tiền bồi thường này cho 09 bị cáo, tương đương mỗi bị cáo bồi thường
76.000.000 đồng cho đại diện hợp pháp của bị hại là bà Trần Thị T5, trừ đi số
tiền các bị cáo đã bồi thường trong quá trình giải quyết vụ án.
Các bị cáo Trần Tấn P, Nguyễn Thanh Đ, Nguyễn Hữu T4, Trần Đức T3,
Huỳnh Thanh T1 vẫn giữ kháng cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
Bị cáo Nguyễn Quang Minh C trình bày: Bị cáo thừa nhận có tác động
vào thân thể bị hại nhưng cho rằng hành vi của bị cáo không phạm tội giết
người do bị cáo không có ý muốn giết bị hại nên kháng cáo kêu oan. Đồng thời,
bị cáo thống nhất ý kiến của các bị cáo khác về việc tự nguyện nâng mức bồi
thường và cấp dưỡng nuôi con của bị hại lên thành 76.000.000 đồng/bị cáo cho
đại diện hợp pháp của bị hại là bà Trần Thị T5.
Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thanh Đ, Trần Đức T3, Nguyễn
Hữu T4, Nguyễn Hoàng D; Trần Tấn P; Nguyễn Nam T là Luật sư Thái
Đức G trình bày: Mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử các bị cáo là có
phần nghiêm khắc. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét sự tự nguyện của các bị
cáo về việc bồi thường thêm cho đại diện hợp pháp của bị hại là tình tiết giảm
nhẹ mới, riêng bị cáo T4 đã thực hiện xong việc bồi thường thêm 10.000.000
đồng cho đại diện hợp pháp của bị hại và có xác nhận hộ nghèo, để giảm nhẹ
hình phạt cho các bị cáo.
Người bào chữa chỉ định cho bị cáo Huỳnh Thanh T1 là Luật sư Trần
Dương Hoàng T16 trình bày: Bị cáo Tòng phạm tội do muốn bênh vực bạn; bị
cáo đã thể hiện thái độ ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo; tự nguyện khắc phục
hậu quả; tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo còn tự nguyện bồi thường thêm cho gia
đình bị hại. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị
cáo.
12
Người bào chữa chỉ định cho bị cáo Nguyễn Quang M1 C là Luật sư
Lại Hùng A trình bày: Thống nhất về tội danh mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét
xử đối với bị cáo. Về hình phạt, vai trò của bị cáo C là thứ yếu, không tích cực;
bị cáo đã tác động gia đình bồi thường thiệt hại; bị cáo thừa nhận có tác động
đến bị hại, nhưng do nhận thức của bị cáo nên bị cáo cho rằng không phạm tội
“Giết người” chứ không phải bị cáo cố tình quanh co chối tội; bị cáo có nhân
thân tốt; tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo cũng tự nguyện bồi thường thêm cho gia
đình bị hại nên mức án 16 năm là nặng so với các bị cáo khác. Do đó, đề nghị
Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đại diện hợp pháp của bị hại là bà Trần Thị T5 trình bày: Bà T5 tự
nguyện rút một phần kháng cáo đối với yêu cầu tăng nặng hình phạt đối với tất
cả các bị cáo, vẫn giữ kháng cáo về phần trách nhiệm dân sự, yêu cầu Hội đồng
xét xử sửa bản án sơ thẩm, ghi nhận sự tự nguyện của các bị cáo về viêc đồng ý
nâng mức bồi thường và cấp dưỡng nuôi con của bị hại lên 684.000.000 đồng,
tương đương mỗi bị cáo bồi thường 76.000.000 đồng cho đại diện hợp pháp
của bị hại.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh: Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo D 18 năm tù, các bị cáo
T1 và C 16 năm tù, T, Trung T2 và Đ 14 năm tù, Đức T3, P và T4 13 năm tù về
tội “Giết người”, là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội và
nhân thân của các bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Nguyễn Thanh Đ,
Nguyễn Hữu T4, Trần Đức T3, Trần Tấn P và Huỳnh Thanh T1 kháng cáo xin
giảm nhẹ hình phạt nhưng không xuất trình được tình tiết giảm nhẹ đặc biệt nào
mới mà Tòa án cấp sơ thẩm chưa xem xét nên đề nghị Hội đồng xét xử không
chấp nhận. Đối với kháng cáo kêu oan của bị cáo C là không có căn cứ vì hành
vi của bị cáo C đã thể hiện sự đồng tình tích cực, khi chỉ nghe nhân viên quán
nói lại mà bị cáo đã kêu Nguyễn Nam T cùng đi qua quán Quốc Huỳnh I để
đánh tiếp K, cho thấy bị cáo đã tiếp nhận ý chí của các bị cáo khác trong việc đi
đánh G1 và chấp nhận hậu quả xảy ra, do đó Tòa án cấp sơ thẩm xử bị cáo
phạm tội giết người là không oan.
Đối với kháng cáo của đại diện hợp pháp của bị hại, tại phiên tòa phúc
thẩm, đại diện hợp pháp của bị hại tự nguyện rút kháng cáo về phần hình phạt
đối với các bị cáo nên đề nghị đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo
này. Đối với kháng cáo về phần trách nhiệm dân sự của đại diện hợp pháp của
bị hại là không có cơ sở, tuy nhiên, các bị cáo đã tự nguyện nâng mức bồi
thường và cấp dưỡng nuôi con của bị hại lên thành 76.000.000 đồng/mỗi bị cáo
cho đại diện hợp pháp của bị hại, xét thấy đây là sự tự nguyện của các bị cáo
nên đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận.
13
Từ các phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm
một phần kháng cáo về hình phạt của đại diện hợp pháp của bị hại; bác kháng
cáo của các bị cáo Nguyễn Thanh Đ, Nguyễn Hữu T4, Trần Đức T3, Trần Tấn
P và Huỳnh Thanh T1 và kháng cáo về phần dân sự của đại diện hợp pháp của
bị hại, giữ nguyên bản án sơ thẩm, đồng thời ghi nhận sự tự nguyện của các bị
cáo về trách nhiệm dân sự như phân tích trên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã
được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan, người tiến hành tố tụng
của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh K, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên
Giang trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện hợp pháp của bị hại xin rút lại yêu
cầu kháng cáo tăng nặng hình phạt đối với các bị cáo. Xét việc rút kháng cáo
của đại diện hợp pháp của bị hại là tự nguyện, không trái quy định của pháp luật
nên Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo
này của đại diện hợp pháp của bị hại như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát
nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa là có căn cứ
chấp nhận.
[3] Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Nguyễn Hoàng D, Nguyễn Nam T,
Huỳnh Thanh T1, Nguyễn Trung T2, Trần Đức T3, Nguyễn Hữu T4, Nguyễn
Thanh Đ và Trần Tấn P đã thừa nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã
nêu; bị cáo Nguyễn Quang Minh C1, không thừa nhận hành vi phạm tội. Tuy
nhiên, căn cứ lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, lời
khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án,
Hội đồng xét xử phúc thẩm có đủ cơ sở để xác định như sau:
[3.1] Vào khoàng 21 giờ 30 phút ngày 09/4/2022, tại số D đường N, khu
phố A, phường D, thành phố P, Kiên Giang, do mâu thuẫn với nhau trong lúc
nhậu tại quán, Nguyễn Đăng K và Trần Hoàng G1 cự cãi, thách thức đánh nhau;
nghe vậy, Huỳnh Thanh T1 kêu Nguyễn Hoàng D, Nguyễn Nam T, Huỳnh
Thanh T1, Nguyễn Trung T2, Trần Đức T3, Nguyễn Hữu T4, Nguyễn Thanh Đ,
Nguyễn Quang Minh C1 và Trần Tấn P (là nhân viện bảo vệ ở quán bar G2 đó)
di đến để đánh G1 tiếp K. Hậu quả là Trần Hoàng G1 bị nhóm của K dùng tay
đánh, dùng giày đá, trong đó Nguyễn Hoàng D dùng con dao (loại dao bấm xếp)
đâm 01 nhát trúng vào hông, 01 nhát trúng vào lưng G1 dẫn đến G1 tử vong do
sốc mất máu cấp do vết thương thấu vùng ngực bụng trái gây đứt xuyên thấu
lách và đứt lìa động mạch lách.
14
[3.2] Mặc dù không có mâu thuẫn gì với bị hại nhưng Nguyễn Hoàng D,
Nguyễn Nam T, Huỳnh Thanh T1, Nguyễn Trung T2, Nguyễn Quang Minh C,
Trần Đức T3, Nguyễn Hữu T4, Nguyễn Thanh Đ và Trần Tấn P vực K mà bị
cáo đã cùng nhau tước đoạt tính mạng của bị hại. Hành vi của các bị cáo thể
hiện tính côn đồ, hung hăng, thích giải quyết mâu thuẫn bằng bạo lực.
[3.3] Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Nguyễn Hoàng D,
Nguyễn Nam T, Huỳnh Thanh T1, Nguyễn Trung T2, Nguyễn Quang Minh C,
Trần Đức T3, Nguyễn Hữu T4, Nguyễn Thanh Đ và Trần Tấn P phạm tội “Giết
người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ.
Đối với đối tượng tên T17, tham gia đánh bị hại Trần Hoàng G1. Đến nay
chưa xác định được nhân thân nên Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra xử lý sau.
Đối với bị can Nguyễn Đăng K, Cơ quan điều tra đã ra quyết định truy nã,
khi nào bắt được sẽ xử lý sau.
[4] Hành vi của các bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm
tính mạng của bị hại trái pháp luật, gây đau thương, mất mát cho gia đình bị hại,
tạo tâm lý hoang mang, bất bình trong quần chúng nhân dân, đồng thời còn gây
mất trật tự trị an ở địa phương. Hành vi của các bị cáo thể hiện ý thức xem
thường pháp luật và bất chấp hậu quả xảy ra cho bị hại. Do đó, cần phải xử lý
nghiêm mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã
hội.
[6] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo Nguyễn Thanh Đ,
Nguyễn Hữu T4, Trần Đức T3, Trần Tấn P và Huỳnh Thanh T1.
Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định các bị cáo này không có
tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và áp dụng cho các bị cáo các tình tiết
giảm nhẹ gồm: các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi
phạm tội quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Các bị cáo T1, Đức T3, T4
có tác động gia đình bồi thường một phần thiệt hại được áp dụng điểm b khoản
1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Các bị cáo Đ, Đức T3, T4, P ra đầu thú nên được áp
dụng thêm khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, từ đó xử phạt bị cáo T1 16 năm tù,
Đ 14 năm tù, Đức T3, P và T4 13 năm tù. Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo
tiếp tục thể hiện thái độ thành khẩn, ăn năn hối cải và thống nhất nâng mức bồi
thường và cấp dưỡng nuôi con của bị hại cho đại diện hợp pháp của bị hại vơi số
tiền 76.000.000 đồng/bị cáo, trong đó bị cáo T4 đã thực hiện việc bồi thường
thêm 10.000.000 đồng và được đại diện hợp pháp của bị hại xác nhận. Đây là
tình tiết mới phát sinh tại cấp phúc thẩm, do đó Hội đồng xét xử chấp nhận
15
kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo Nguyễn Thanh Đ, Nguyễn Hữu
T4, Trần Đức T3, Trần Tấn P và Huỳnh Thanh T1.
[6] Xét kháng cáo kêu oan của bị cáo Nguyễn Quang Minh C1.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Quang Minh
C1 thừa nhận có tác động vào bị hại nhưng cho rằng chỉ nhằm để G1 không
đánh K chứ không cố ý giết người nên không phải chịu trách nhiệm hình sự
chung với các bị cáo khác. Hội đồng xét xử thấy rằng, hành vi của bị cáo C1 đã
thể hiện sự đồng tình tích cực, khi chỉ nghe nhân viên quán nói lại mà bị cáo đã
kêu Nguyễn Nam T cùng đi qua quán Quốc Huỳnh I để đánh tiếp K, cho thấy bị
cáo đã tiếp nhận ý chí của các bị cáo khác trong việc đi đánh G1 và chấp nhận
hậu quả xảy ra. Hơn nữa, khi thấy K và G1 đánh nhau bị cáo đã xông vào đánh
G1, xô đẩy G1 ngay lúc đó, sau khi cùng đám đông đánh G1 nằm gục tại chổ,
thay vì xem xét tình trạng thương tích bị hại thì để T1 lùi xe ra, bị cáo đã kéo lê
hất mạnh làm đầu của G1 đập lên nền nhà xe rồi bỏ đi. Tại phiên tòa, các bị cáo
Đ, P và T4 đều xác định bị cáo C1 có tham gia đánh bị hại. Hành vi của bị cáo
C1 đã thể hiện được sự quyết liệt, côn đồ của bị cáo khi phạm tội nên Tòa án cấp
sơ thẩm xử phạt bị cáo phạm tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1
Điều 123 Bộ luật hình sự là đúng quy định, không oan.
Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm cũng đã áp dụng đầy đủ tình tiết giảm
nhẹ cho bị cáo, từ đó xử phạt bị cáo 16 năm tù là phù hợp. Tại phiên tòa, bị cáo
tự nguyện nâng mức bồi thường và cấp dưỡng nuôi con cho đại diện hợp pháp
của bị hại thành 76.000.000 đồng nhưng bị cáo vẫn một mực kêu oan và cho
rằng bị cáo không phạm tội. Điều này cho thấy bị cáo chưa thành khẩn khai báo,
ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử không xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị
cáo.
[7] Đối với kháng cáo của đại diện hợp pháp của bị hại về phần trách
nhiệm dân sự.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo đồng ý nâng mức bồi thường và cấp
dưỡng nuôi con của bị hại cho đại diện hợp pháp của bị hại là bà Trần Thị T5
với tổng số tiền là 684.000.000 đồng và thống nhất chia đều số tiền bồi thường
này cho 09 bị cáo, tương đương mỗi bị cáo phải bồi thường 76.000.000 đồng.
Trừ đi số tiền các bị cáo đã bồi thường gồm: bị cáo T 10.000.000 đồng, bị cáo
T1, bị cáo Trung T2, C1 đã bồi thường mỗi bị cáo 22.000.000 đồng, bị cáo Đức
T3 đã bồi thường 42.000.000 đồng, bị cáo P đã bồi thường 18.000.000 đồng, bị
cáo T4 đã bồi thường 20.000.000 đồng. Xét thấy, đây là sự tự nguyện của các bị
cáo, phù hợp với quy định của pháp luật và có lợi cho đại diện hợp pháp của bị
16
hại nên Hội đồng xét xử ghi nhận, chấp nhận kháng cáo của bà T5, sửa án sơ
thẩm phần này.
[8] Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm, đình chỉ xét
xử phúc thẩm một phần kháng cáo về hình phạt của đại diện hợp pháp của bị
hại; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Quang Minh C1; chấp nhận
kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Thanh Đ, Nguyễn Hữu T4, Trần Đức T3, Trần
Tấn P, Huỳnh Thanh T1 và kháng cáo của đại diện hợp pháp của bị hại về trách
nhiệm dân sự, sửa một phần bản án hình sự sơ thẩm như phân tích tại mục [6] và
[7].
[9] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo,
không bị kháng nghị có hiệu lực theo quy định của pháp luật.
[10] Án phí hình sự phúc thẩm: các bị cáo Nguyễn Thanh Đ, Nguyễn Hữu
T4, Trần Đức T3, Trần Tấn P, Huỳnh Thanh T1 không phải chịu; bị cáo Nguyễn
Quang Minh C1 phải chịu.
[11] Án phí dân sự phúc thẩm: bà Trần Thị T5 không phải chịu.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào Điều 348, điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1, điểm b
khoản 2 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;
Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của đại diện hợp pháp của
bị hại là bà Trần Thị T5 về phần hình phạt đối với các bị cáo Nguyễn Hoàng D,
Nguyễn Nam T, Huỳnh Thanh T1, Nguyễn Trung T2, Nguyễn Quang Minh C,
Trần Đức T3, Nguyễn Hữu T4, Nguyễn Thanh Đ và Trần Tấn P.
2. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Quang Minh C1; Chấp
nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Thanh Đ, Nguyễn Hữu T4, Trần Đức T3,
Trần Tấn P, Huỳnh Thanh T1; chấp nhận kháng cáo của đại diện hợp pháp của
bị hại là bà Trần Thị T5 về phần trách nhiệm dân sự. Sửa một phần Bản án hình
sự sơ thẩm số 63/2023/HS-ST ngày 22/8/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên
Giang về hình phạt của các bị cáo Nguyễn Thanh Đ, Nguyễn Hữu T4, Trần Đức
T3, Trần Tấn P, Huỳnh Thanh T1 và trách nhiệm dân sự.
3. Căn cứ vào: điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều
17, Điều 58 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;
17
Tuyên bố bị cáo Huỳnh Thanh T1 phạm tội “Giết người”;
Xử phạt bị cáo Huỳnh Thanh T1 15 (mười lăm) năm tù, thời điểm chấp
hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 10
tháng 02 năm 2023.
- Căn cứ vào: điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều
17, Điều 58 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;
Tuyên bố các bị cáo Trần Đức T3, Nguyễn Quang Minh C, Trần Tấn P
và Nguyễn Hữu T4 phạm tội “Giết người”;
Xử phạt bị cáo Trần Đức T3 12 (mười hai) năm tù, thời điểm chấp hành
hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 10 tháng
4 năm 2022;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Quang Minh C 16 (mười sáu) năm tù, thời điểm
chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày
10 tháng 4 năm 2022;
Xử phạt bị cáo Trần Tấn P 12 (mười hai) năm tù, thời điểm chấp hành
hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 10 tháng
4 năm 2022;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu T4 12 (mười hai) năm tù, thời điểm chấp
hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 10
tháng 4 năm 2022.
- Căn cứ vào: điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều
17, Điều 58 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh Đ phạm tội “Giết người”;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh Đ 13 (mười ba) năm tù, thời điểm chấp
hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 10
tháng 4 năm 2022.
4. Bản án hình sự sơ thẩm số 63/2023/HS-ST ngày 22/8/2023 của Tòa án
nhân dân tỉnh Kiên Giang tuyên về phần tội danh và hình phạt của các bị cáo
Nguyễn Hoàng D, Nguyễn Nam T, Nguyễn Trung T2 có hiệu lực pháp luật kể từ
ngày 18/12/2023.
5. Tiếp tục tạm giam các bị cáo Nguyễn Hoàng D, Nguyễn Nam T, Huỳnh
Thanh T1, Nguyễn Trung T2, Nguyễn Quang Minh C, Trần Đức T3, Nguyễn
Hữu T4, Nguyễn Thanh Đ và Trần Tấn P để đảm bảo thi hành án.
6. Về trách nhiệm bồi thường: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự, Điều 591
Bộ luật dân sự.
18
Ghi nhận sự tự nguyện của các bị cáo Nguyễn Hoàng D, Nguyễn Nam T,
Huỳnh Thanh T1, Nguyễn Trung T2, Nguyễn Quang Minh C, Trần Đức T3,
Nguyễn Hữu T4, Nguyễn Thanh Đ và Trần Tấn P về việc nâng mức bồi thường
và cấp dưỡng nuôi con của bị hại cho đại diện hợp pháp của bị hại bà Trần Thị
T5 nhận tổng số tiền là 684.000.000 đồng, trong đó mỗi bị cáo bồi thường
76.000.000 đồng.
Buộc các bị cáo có nghĩa vụ bồi thường các khoản thiệt hại còn lại và cấp
dưỡng nuôi con của bị hại là Trần Khôi N3, sinh ngày 05/4/2013 cho đại diện
hợp pháp của bị hại bà Trần Thị T5 nhận, phần của từng bị cáo như sau:
- Bị cáo Nguyễn Hoàng D phải bồi thường 76.000.000 đồng (bảy mươi sáu
triệu đồng);
- Bị cáo Nguyễn Nam T phải bồi thường 66.000.000 đồng (sáu mươi sáu
triệu đồng);
- Bị cáo Huỳnh Thanh T1 phải bồi thường 54.000.000 đồng (năm mươi bốn
triệu đồng);
- Bị cáo Nguyễn Trung T2 phải bồi thường 54.000.000 đồng (năm mươi
bốn triệu đồng);
- Bị cáo Trần Đức T3 phải bồi thường 34.000.000 đồng (ba mươi bốn triệu
đồng);
- Bị cáo Nguyễn Quang M1 C phải bồi thường 54.000.000 đồng (năm mươi
bốn triệu đồng);
- Bị cáo Trần Tấn P phải bồi thường 58.000.000 đồng (năm mươi tám triệu
đồng);
- Bị cáo Nguyễn Hữu T4 phải bồi thường 56.000.000 đồng (năm mươi sáu
triệu đồng);
- Bị cáo Nguyễn Thanh Đ phải bồi thường 76.000.000 đồng (bảy mươi sáu
triệu đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi
hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn
yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả
cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án
còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất
qui định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác..
7. Án phí hình sự phúc thẩm:
19
Các bị cáo Nguyễn Thanh Đ, Nguyễn Hữu T4, Trần Đức T3, Trần Tấn P,
Huỳnh Thanh T1 không phải chịu;
Bị cáo Nguyễn Quang Minh C1 phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.
8. Án phí dân sự phúc thẩm: bà Trần Thị T5 không phải chịu.
9. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo,
không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo,
kháng nghị.
10. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSNDCC tại Thành phố Hồ Chí Minh;
- TAND tỉnh Kiên Giang;
- VKSND tỉnh Kiên Giang;
- Công an tỉnh Kiên Giang;
- Sở tư pháp Kiên Giang;
- Cục THADS Kiên Giang;
- TTG CA tỉnh Kiên Giang
“Để tống đạt cho bị cáo”;
- Lưu hồ sơ vụ án (1), VP (5). 31b. (PPC).
(1)
(1)
(10)
(1)
(1)
(1)
(1)
(1)
(9)
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đã ký
Vũ Ngọc Huynh
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 15/05/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 09/05/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 11/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 11/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 28/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 26/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 02/02/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 25/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 25/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 23/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 22/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 15/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 12/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 09/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 08/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 04/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 29/12/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 27/12/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 26/12/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 21/12/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm