Bản án số 95/2025/DS-PT ngày 19/05/2025 của TAND tỉnh Bình Định về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 95/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 95/2025/DS-PT ngày 19/05/2025 của TAND tỉnh Bình Định về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bình Định
Số hiệu: 95/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 19/05/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CNG HÒA XÃ HI CH NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH BÌNH ĐỊNH Độc Lp T Do Hnh Phúc
Bn án s: 95/2025/DS-PT
Ngày: 19 - 5 - 2025
V/v Tranh chp yêu cu hy hợp đồng
chuyển nhượng quyn s dụng đất.
NHÂN DANH
C CNG HÒA XÃ HI CH NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH
- Thành phn Hội đồng xét x phúc thm gm có:
Thm phán Ch ta phiên tòa: Bà Đỗ Th Thm.
Các Thm phán: Ông Phan Minh Dũng
Ông Nguyễn Văn Hiệp
- Thư phiên tòa: Nguyn Th Thuý Nga Thư Tòa án nhân n
tỉnh Bình Định.
- Đại din Vin kim sát nhân dân tỉnh Bình Định tham gia phiên tòa:
Nguyn Th Tú Oanh Kim sát viên.
Ngày 19 tháng 5 năm 2025 tại trụ sTòa án nhân dân tỉnh nh Định xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ số 20/2025/TLPT-DS ngày 19 tháng 02 năm
2025 về việc Tranh chấp yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Do Bản án dân sự thẩm số 99/2024/DS-ST ngày 30 tháng 12 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định, bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm s63/2025/-PT ngày 04
tháng 4 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Kim O, sinh năm 1980 (có mặt)
Địa chỉ: Khu phố G, thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Định.
2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Diễm O1, sinh năm 1978 (có mặt)
Địa chỉ: Khu phố G, thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Định.
3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
- Ông Võ S, sinh năm 1973 (có mặt)
Địa chỉ thường trú: Thôn H, xã T, huyện Q, tỉnh Quảng Bình.
2
Chỗ ở hiện nay: Khu phố G, thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Định.
- Ông Phạm Văn B Công chứng viên thuộc Phòng C tỉnh Bình Định. (vắng
mặt)
Địa chỉ: Số A Q, phường B, thị xã H, tỉnh Bình Định.
4. Người kháng cáo: Nguyễn Thị Kim O nguyên đơn; ông S
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện cùng các tài liệu tiếp theo Nguyễn Thị Kim O trình
bày:
Năm 2019, thỏa thuận chuyển nhượng cho Nguyễn Thị Diễm O1
thửa đất s106, tờ bản đồ số 33, diện ch 128,4m² ất ở) tọa lạc tại Thôn G, th
trấn T, huyện H, tỉnh Bình Định đã được Ủy ban nhân dân huyện H cấp quyền sử
dụng đất cho tại Giấy chứng nhận quyền sdụng số vào sổ H01535 ngày
19/3/2008, trên thửa đất ngôi nhà của ông S (người sống nvợ chồng với
bà). Ngày 23/12/2019, hai bên lập hợp đồng chuyển nhượng thửa đất nói trên với
giá 1.300.000.000đồng đã được Phòng C Bình Định công chứng; Diễm O1 chỉ
giao cho 500.000.000đồng. Đến ngày 28/6/2020, Diễm O1 lập Văn bản thỏa
thuận hủy hợp đồng kết ngày 23/12/2019, đồng thời Diễm O1 lập 01 hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, với nội dung như hợp đồng lập ngày
23/12/2019, bà Diễm O1 cùng một người tự xưng nhân viên văn phòng công
chứng, đến Trung m y tế huyện H (lúc đó Kim O mới sinh con), Diễm O1
đưa 02 văn bản nói trên cho ký, Diễm O1 nói văn bản thỏa thuận hủy
hợp đồng chuyển nhượng năm 2019, nên điểm chỉ o các văn bản do
Diễm O1 đưa chứ bà không biết nội dung gì; sau đó, Diễm O1 tự đi làm thủ tục
chuyển nhượng thửa đất sang cho Diễm O1. Nay yêu cầu a án giải quyết
hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 26/8/2020 giữa bà với
Diễm O1, Diễm O1 phải giao lại thửa đất ngôi nhà cho bà. Nếu Diễm O1
muốn lấy nhà, đất thì phải trả tiếp cho 800.000.000đồng; còn nếu Diễm O1
giao nhà, đất cho bà, trả lại cho Diễm O1 500.000.000đồng; đối với ngôi nhà
thì bà thỏa thuận bồi thường cho ông Võ S.
Bị đơn bà Nguyễn Thị Diễm O1 trình bày:
Năm 2019, bà Kim O thỏa thuận Kim O chuyển nhượng cho
bà thửa đất số 106, tờ bản đồ số 33, diện tích 128,4m² ất ở) tọa lạc tại Thôn G, thị
trấn T, huyện H, tỉnh Bình Định cùng ngôi nhà trên đất với giá 1.300.000.000
đồng; nhưng do ngôi nhà của bà Kim O xây lấn 7,4m² đất của cha mẹ bà Kim O
ông Nguyễn Văn D Nguyễn Thị Minh T nên thương lượng với ông D,
T mua 7,4m² đất của ông D. Ngày 23/12/2019, các bên lập hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất gồm: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa
3
Nguyễn Thị Kim O với bà Nguyễn Thị Diễm O1 đối với 128,4m² đất Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông Nguyễn Văn D, bà
Nguyễn Thị Minh T chuyển nhượng cho Nguyễn Thị Diễm O1 7,4m² đất ở;
giao trước cho Kim O 1.200.000.000đồng giao đủ tiền chuyển nhượng đất
cho vợ chồng ông D, bà T. Tuy nhiên, bà Kim O chưa đăng ký quyền sở hữu nhà
còn nợ tiền thi hành án trong một vụ án khác, nên không làm được thủ tục đăng
quyền sử dụng đất cho bà. Do hợp đồng hai bản ký kết đã lâu mà chưa thực hiện
được, nên và Kim O thống nhất hủy hp đồng năm 2019; đến ngày
26/8/2020, giữa hai bên thống nhất lập văn bản hủy hợp đồng giữa với bà
Kim O kết năm 2019 lập hợp đồng khác về việc chuyển nhượng quyền sử
dụng đất giữa với Kim O; giao tiếp cho Kim O 120.000.000đ (bà cho
thêm bà Kim O 20.000.000đ để thuê nhà ở). Ngày 09/11/2020, Văn phòng đăng
đất đai tỉnh B hợp nhất 2 phần đất nhận nhận chuyển nhượng từ Nguyễn Thị
Diễm O1 phần đất nhận chuyển nhượng từ vợ chồng Nguyễn Văn D
Nguyễn Thị Minh T để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho tại thửa đất
có shiệu 1781, tờ bản đồ số 01, diện tích 135,8m²; riêng ngôi nhà chưa đăng
quyền sở hữu nhà nên chưa thể hiện trong Giấy chứng nhận. Sau khi chuyển
nhượng nhà đất, Kim O không chịu giao nhà đất cho nên khởi kiện yêu
cầu đòi lại tài sản. Trong quá trình Tòa án giải quyết, thì bà Kim O dọn đi nơi khác,
nên rút yêu cầu khởi kiện; hiện nay đang sở hữu sử dụng nđất i
trên. không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Kim O, thửa đất ngôi nhà
bà Kim O đã chuyển nhượng cho bà và bà đã được cấp giấy chứng nhận.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan yêu cầu độc lập, ông S trình
bày:
Ông với Kim O chung sống như vợ chồng từ năm 2008. Cha mẹ Kim
O thống nhất cho ông Kim O xây dựng ngôi nhà trên phần đất của cha mẹ bà
Kim O để ở; tiền xây dựng nhà là của ông, đất là của cha mẹ bà Kim O cho bà Kim
O được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Kim O. Việc Kim O
bà Diễm O1 tự thỏa thuận chuyển nhượng nhà, đất như thế nào ông không biết.
Nay ông xác định ngôi nhà là tài sản của ông, còn đất là của bà Kim O; ông yêu cầu
hủy hợp đồng chuyển nhượng giữa hai bên, để ông được sử dụng ngôi nhà.
Người có quyền, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Văn B trình bày:
Ngày 26/8/2020 ông B được phân công công chứng hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa Nguyễn Thị Kim O Nguyễn Thị Diễm O1
ký, hợp đồng được hai bên điểm chỉ, chữ viết của Kim O, vậy ông
khẳng định chữ điểm ch trong hợp đồng của bà Kim O. Ông không đến
Trung tâm y tế huyện H để yêu cầu bà Kim O ký như bà đã trình bày. Đối giá trị tài
sản thì các bên đương sự tự thỏa thuận, Văn phòng không chức năng định giá,
kiểm tra thực tế mà chỉ kiểm tra tính hợp pháp của giấy chứng nhận, năng lực hành
vi của các n kết và sự tự nguyện của họ. Đối với ngôi nhà, do chưa đăng
4
quyền sở hữu nên Văn phòng không ký công chứng. Ông khẳng định việc ông ký
công chứng đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Kim O
Diễm O1 là hoàn toàn đúng quy định của pháp luật, thửa đất đã được cấp
Giấy chứng nhận cho Kim O nên quyền chuyển nhượng. Thời điểm công
chứng, c bên đều minh mẫn, đủ năng lực hành vi dân shoàn toàn tự nguyện
trong việc chuyển nhượng nhận chuyển nhượng. Công chứng viên quyền
thực hiện công chứng các loại văn bản do công dân yêu cầu, không phụ thuộc vào
sự phân công của Trưởng phòng. Do vậy, việc ông công chứng nhân danh Công
chứng viên thực hiện theo quy định của pháp luật.
Bản án dân sự thẩm số 99/2024/DS-ST ngày 30 tháng 12 m 2024 của
Toà án nhân dân huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định, Quyết định:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Thị
Kim O, về yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa
Nguyễn Thị Kim O với Nguyễn Thị Diễm O1, được công chứng ngày
26/8/2020.
2. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan ông Võ S về yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và ngôi
nhà giữa Nguyễn Thị Kim O với Nguyễn Thị Diễm O1, được công chứng
ngày 26/8/2020.
Ngoài ra, bản án còn quyết định về án phí dân sự thẩm quyền kháng
cáo của các bên đương sự.
- Ngày 02/01/2025 đơn kháng cáo bổ sung ngày 14/5/2025, nguyên đơn
Nguyễn Thị Kim O kháng cáo toàn bộ bản án dân sự thẩm yêu cầu Tòa án
cấp phúc thẩm hủy án sơ thẩm.
- Ngày 06/01/2025, ông S người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
kháng cáo toàn bộ bản án dân sự thẩm, yêu cầu xem xét trả lại căn nhà cho ông
S.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu: Trong quá trình tố tụng, người
tiến hành tố tụng người tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định của pháp luật
tố tụng; đồng thời đề nghị hội đồng xét xử không chấp nhận nội dung kháng cáo
của bà Nguyễn Thị Kim O và ông Võ S.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án được thẩm
tra tại phiên tcăn cứ kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận
định:
[1] Về sự vắng mặt của đương sự: Tại phiên tòa phúc thẩm, người quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Văn B đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng
5
vắng mặt không do. Căn cứ vào khoản 3 Điều 296 của Bộ luật Tố tụng Dân sự,
Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng.
[2] Xét kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim O, thấy rằng:
[2.1] Thửa đất số 106, tờ bản đồ số 33, diện tích 128,4m²
tại thôn (khu phố)
G, thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Định (gọi tắt là thửa đất 106) có nguồn gốc là của
cha mẹ Nguyễn Thị Kim O tặng cho Kim O vào năm 2008 đã được
UBND huyện H cấp quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị Kim O vào ngày
19/3/2008. Ngày 23/12/2019 Nguyễn Thị Kim O chuyển nhượng thửa đất 106
cho Nguyễn Thị Diễm O1. Hai bên đã lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất đã được Phòng Công Chứng số 2 tỉnh Bình Định chứng thực số 8401,
quyển số 01/TP/CC-SCC/HĐGD. Ngày 26/8/2020 Kim O Diễm O1 lập
“Văn bản thỏa thuận v/v hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” đối với
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được Phòng C tỉnh Bình Định
chứng thực số 8401, quyển số 01/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 23/12/2019 đã được
Phòng C tỉnh Bình Định chứng thực số 5071, quyển số 01/TP/CC-SCC/HĐGD.
cũng trong ngày 26/8/2020 Nguyễn Thị Kim O và Nguyễn Thị Diễm O1 lập
lại Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất 106 với nội dung
tương tự hợp đồng ngày 23/12/2019 đã được Phòng công chứng số 02 tỉnh Bình
Định chứng thực số 5072, quyền số 01/TP/CC-SCC/HĐGD. Ngày 09/11/2020, Sở
Tài nguyên và Môi trường tỉnh B đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
vào sổ: CS04777 cấp cho Nguyễn Thị Diễm O1, thửa đất số hiệu 1781, tờ
bản đồ số 01, diện tích 135,8m² (hợp nhất phần diện tích đất nhận chuyển nhượng
của Kim O 128,4m²
7,4m² đất Diễm O1 nhận chuyền nhượng tcha m
của Kim O ông Nguyễn Văn D Nguyễn Thị Minh T). Như vậy, Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 26/18/2020 giữa Nguyễn Thị Kim
O với bà Nguyễn Thị Diễm O1 được công chứng đúng theo quy định của pháp luật,
phù hợp với quy định tại Điều 502 của Bluật Dân sự nên bảo đảm về hình thức
của Hợp đồng.
[2.2] Mặc dù, tại Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
26/18/2020 giữa Nguyễn Thị Kim O với Nguyễn Thị Diễm O1 không thể
hiện chuyển nhượng tài sản gắn liền với đất ngôi nhà hiện trên đất nhưng tại
giấy viết tay Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đất
(không có thời gian) có chữ ký của bà Kim O và Diễm O1 thì có thể hiện tài sản
bà Kim O chuyển nhượng cho Diễm O1 quyền sử dụng thửa đất 106
toàn bộ tài sản gắn liền với đất ngôi nhà cấp 4 (ngang 5m, dài 20m) với giá
1.300.000.000 đồng (BL76,77), đồng thời tại biên bản lấy lời khai ngày 17/6/2023
Kim O thừa nhận Giấy viết tay nội dung Tôi tự nguyện bán nhà đất cho
chị D1 O giá tiền (một tỷ ba hai chục) tôi đã nhận đủ” do Kim O viết
(BL57 65B). Mặt khác, theo Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất tài sản
gắn liền với đất ngày 08/01/2008 giữa ông Nguyễn Văn D, Nguyễn Thị Minh T
6
(cha mẹ Kim O) với Nguyễn Thị Kim O thì ông D T tặng cho Kim O
đất và nhà ở gắn liền với đất nhưng do bà Kim O chưa đăng ký quyền sở hữu nhà ở
nên chưa được cấp có thẩm quyền công nhận quyền sở hữu nhà ở trong Giấy chứng
nhận.
Mặt khác, qua xem xét thẩm định tại chỗ ngày 07/5/2025 cho thấy toàn bộ
diện tích của thửa đất 106 đã được xây dựng nhà, công trình phụ mái hiên trên
đất, không còn khoảng đất trống nên Kim O cho rằng không bán tài sản n
trên thửa đất 106 là không đúng với thực tế.
Từ những phân tích trên đủ sở xác định Kim O chuyển nhượng ngôi
nhà gắn liền thửa đất 106 cho bà Diễm O1.
[2.3] Xét yêu cầu kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu
cầu độc lập ông Võ S, thấy rằng:
Ông S cho rằng ngôi nhà là do ông xây dựng năm 2009, giá khoảng
700.000.000 đồng. Tuy nhiên, ông không cung cấp được tài liệu, chứng cứ nào để
chứng minh cho yêu cầu trên. Tại Báo cáo số 49/BC-CNHA ngày 27 tháng 11 năm
2020 và hồtặng cho QSDĐ gắn liền với tài sản giữa vợ chồng ông Nguyễn Văn
D, Nguyễn Thị Minh T của Văn phòng đăng đất đai Chi nhánh huyện H thể
hiện: Qua kiểm tra hcấp Giấy chứng nhận QSDĐ cho Nguyễn Thị Kim O
nguồn gốc đất nhận tặng cho QSDĐ tài sản gắn liền với đất của cha mẹ
ông Nguyễn Văn D, Nguyễn Thị Minh T, được UBND thị trấn T, huyện H
chứng thực theo hợp đồng số 02, quyển số 01 ngày 08/01/2008. Do vậy đây tài
sản riêng của bà Kim O chứ không phải tài sản chung của vợ chồng. Việc ông Võ S
trình bày nhà do vchồng ông xây dựng năm 2009 là không có cơ sở; qua kiểm
tra hợp đồng tặng cho QSDĐ và tài sản gắn liền với đất thì ngôi nhà bà Nguyễn Thị
Kim O nhận tặng cho ngày 08/01/2008, chưa làm sở hữu nhà, do Kim O không
nhu cầu; trong thời gian Kim O chuyển nhượng QSDĐ ngôi nhà cho
Diễm O1, ông S biết và cũng không ý kiến hay khiếu nại gì về ngôi nhà. Do đó,
Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu độc lập của ông S là có căn cứ.
[3] Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận nội dung
kháng cáo của bà Nguyễn Thị Kim O và ông S. Giữ nguyên nội dung bản án
thẩm.
[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Nguyễn Thị Kim O thuộc diện hộ nghèo, ông
Võ S thuộc gia đình liệt sĩ, nên được miễn án phí sự sơ thẩm theo quy định tại điểm
d khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm
2026 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm,
nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí.
[5] Các quyết định khác của Bản án thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
7
[6] Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định phát biểu ý kiến về việc
giải quyết vụ án đề nghị không chấp nhận nội dung kháng cáo của Nguyễn Thị
Kim O và ông Võ S, giữ nguyên Bản án thẩm là phợp với nhận định của Hi
đồng xét xử.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ các Điều 116, 117, 119, 223, 385, 500, 501, 502, 503 Bộ luật dân s
2015;
Căn cứ các Điều 166, 167, 168, 170, Luật Đất đai năm 2013;
Căn cứ Điều điểm d khoản 1 Điều 12, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận toàn bộ nội dung kháng cáo của nguyên đơn Nguyễn
Thị Kim O và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Võ S. Giữ nguyên bản án
dân sự thẩm số 99/2024/DS-ST ngày 30 tháng 12 năm 2024 của Tòa án nhân
dân huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định.
2. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn
Thị Kim O về yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa
Nguyễn Thị Kim O với Nguyễn Thị Diễm O1, được công chứng ngày
26/8/2020.
2. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan ông Võ S về yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà
Nguyễn Thị Kim O với bà Nguyễn Thị Diễm O1, được công chứng ngày 26/8/2020
để trả lại ngôi nhà hiện có trên thửa đất cho ông Võ S.
3. Về chi phí tố tụng và án phí:
3.1. Chi phí xem xét, thẩm định ti ch định giá tài sn 13.000.000
đồng (mười ba triệu đồng) bà Nguyễn Thị Kim O phải chịu. Bà Nguyễn Thị Kim O
đã nộp xong.
3.2. Về án phí:
3. Án pdân sự sơ thẩm phúc thẩm: Nguyễn Thị Kim O, ông S
được miễn.
Nguyễn Thị Kim O được hoàn trả 1.200.000 đồng tiền tạm ứng án phí,
theo biên lai thu số 0010972, ngày 29/5/2023 của Chi cục Thi hành án Dân sự
huyện Hoài Ân.
8
4. Các quyết định khác của bản án thẩm không bị kháng o, kháng nghị
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
5. Quyền và nghĩa vụ thi hành án:
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi nh án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án Dân sự;
thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân
sự.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT X PHÚC THM
- VKSND tỉnh Bình Định; THM PHÁN CH TA PHIÊN TÒA
- TAND huyn Hoài Ân;
- CCTHADS huyn Hoài Ân;
- Các đương sự;
- Lưu: HCTP, Tòa dân s, h sơ vụ án.
Đỗ Th Thm
9
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Nguyễn Văn Hiệp Phan Minh Dũng
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đỗ Thị Thắm
Tải về
Bản án số 95/2025/DS-PT Bản án số 95/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 95/2025/DS-PT Bản án số 95/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất