Bản án số 95/2025/DS-PT ngày 19/05/2025 của TAND tỉnh Bình Định về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 95/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 95/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 95/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 95/2025/DS-PT ngày 19/05/2025 của TAND tỉnh Bình Định về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bình Định |
Số hiệu: | 95/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 19/05/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH BÌNH ĐỊNH Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc
Bản án số: 95/2025/DS-PT
Ngày: 19 - 5 - 2025
V/v Tranh chấp yêu cầu hủy hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Đỗ Thị Thắm.
Các Thẩm phán: Ông Phan Minh Dũng
Ông Nguyễn Văn Hiệp
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thuý Nga là Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Bình Định.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định tham gia phiên tòa: Bà
Nguyễn Thị Tú Oanh – Kiểm sát viên.
Ngày 19 tháng 5 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 20/2025/TLPT-DS ngày 19 tháng 02 năm
2025 về việc Tranh chấp yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 99/2024/DS-ST ngày 30 tháng 12 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định, bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 63/2025/QĐ-PT ngày 04
tháng 4 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Kim O, sinh năm 1980 (có mặt)
Địa chỉ: Khu phố G, thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Định.
2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Diễm O1, sinh năm 1978 (có mặt)
Địa chỉ: Khu phố G, thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Định.
3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
- Ông Võ S, sinh năm 1973 (có mặt)
Địa chỉ thường trú: Thôn H, xã T, huyện Q, tỉnh Quảng Bình.

2
Chỗ ở hiện nay: Khu phố G, thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Định.
- Ông Phạm Văn B – Công chứng viên thuộc Phòng C tỉnh Bình Định. (vắng
mặt)
Địa chỉ: Số A Q, phường B, thị xã H, tỉnh Bình Định.
4. Người kháng cáo: Bà Nguyễn Thị Kim O là nguyên đơn; ông Võ S là
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện cùng các tài liệu tiếp theo bà Nguyễn Thị Kim O trình
bày:
Năm 2019, bà có thỏa thuận chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Diễm O1
thửa đất số 106, tờ bản đồ số 33, diện tích 128,4m² (đất ở) tọa lạc tại Thôn G, thị
trấn T, huyện H, tỉnh Bình Định đã được Ủy ban nhân dân huyện H cấp quyền sử
dụng đất cho bà tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng có số vào sổ H01535 ngày
19/3/2008, trên thửa đất có ngôi nhà của ông Võ S (người sống như vợ chồng với
bà). Ngày 23/12/2019, hai bên lập hợp đồng chuyển nhượng thửa đất nói trên với
giá 1.300.000.000đồng đã được Phòng C Bình Định công chứng; bà Diễm O1 chỉ
giao cho bà 500.000.000đồng. Đến ngày 28/6/2020, bà Diễm O1 lập Văn bản thỏa
thuận hủy hợp đồng ký kết ngày 23/12/2019, đồng thời bà Diễm O1 lập 01 hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, với nội dung như hợp đồng lập ngày
23/12/2019, bà Diễm O1 cùng một người tự xưng là nhân viên văn phòng công
chứng, đến Trung tâm y tế huyện H (lúc đó bà Kim O mới sinh con), bà Diễm O1
đưa 02 văn bản nói trên cho bà ký, bà Diễm O1 nói là ký văn bản thỏa thuận hủy
hợp đồng chuyển nhượng năm 2019, nên bà ký và điểm chỉ vào các văn bản do bà
Diễm O1 đưa chứ bà không biết nội dung gì; sau đó, bà Diễm O1 tự đi làm thủ tục
chuyển nhượng thửa đất sang cho bà Diễm O1. Nay bà yêu cầu Tòa án giải quyết
hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký ngày 26/8/2020 giữa bà với bà
Diễm O1, bà Diễm O1 phải giao lại thửa đất và ngôi nhà cho bà. Nếu bà Diễm O1
muốn lấy nhà, đất thì phải trả tiếp cho bà 800.000.000đồng; còn nếu bà Diễm O1
giao nhà, đất cho bà, bà trả lại cho bà Diễm O1 500.000.000đồng; đối với ngôi nhà
thì bà thỏa thuận bồi thường cho ông Võ S.
Bị đơn bà Nguyễn Thị Diễm O1 trình bày:
Năm 2019, bà Kim O và bà có thỏa thuận là bà Kim O chuyển nhượng cho
bà thửa đất số 106, tờ bản đồ số 33, diện tích 128,4m² (đất ở) tọa lạc tại Thôn G, thị
trấn T, huyện H, tỉnh Bình Định cùng ngôi nhà có trên đất với giá là 1.300.000.000
đồng; nhưng do ngôi nhà của bà Kim O xây lấn 7,4m² đất của cha mẹ bà Kim O là
ông Nguyễn Văn D và bà Nguyễn Thị Minh T nên bà có thương lượng với ông D,
bà T mua 7,4m² đất của ông D. Ngày 23/12/2019, các bên lập hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất gồm: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa

3
bà Nguyễn Thị Kim O với bà Nguyễn Thị Diễm O1 đối với 128,4m² đất ở và Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông Nguyễn Văn D, bà
Nguyễn Thị Minh T chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Diễm O1 7,4m² đất ở; bà
giao trước cho bà Kim O 1.200.000.000đồng và giao đủ tiền chuyển nhượng đất
cho vợ chồng ông D, bà T. Tuy nhiên, bà Kim O chưa đăng ký quyền sở hữu nhà ở
và còn nợ tiền thi hành án trong một vụ án khác, nên không làm được thủ tục đăng
ký quyền sử dụng đất cho bà. Do hợp đồng hai bản ký kết đã lâu mà chưa thực hiện
được, nên bà và bà Kim O có thống nhất hủy hợp đồng năm 2019; đến ngày
26/8/2020, giữa hai bên có thống nhất lập văn bản hủy hợp đồng giữa bà với bà
Kim O ký kết năm 2019 và lập hợp đồng khác về việc chuyển nhượng quyền sử
dụng đất giữa bà với bà Kim O; bà giao tiếp cho bà Kim O 120.000.000đ (bà cho
thêm bà Kim O 20.000.000đ để thuê nhà ở). Ngày 09/11/2020, Văn phòng đăng ký
đất đai tỉnh B hợp nhất 2 phần đất nhận bà nhận chuyển nhượng từ bà Nguyễn Thị
Diễm O1 và phần đất nhận chuyển nhượng từ vợ chồng Nguyễn Văn D và bà
Nguyễn Thị Minh T để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà tại thửa đất
có số hiệu 1781, tờ bản đồ số 01, diện tích 135,8m²; riêng ngôi nhà chưa có đăng
ký quyền sở hữu nhà ở nên chưa thể hiện trong Giấy chứng nhận. Sau khi chuyển
nhượng nhà đất, bà Kim O không chịu giao nhà đất cho bà nên bà khởi kiện yêu
cầu đòi lại tài sản. Trong quá trình Tòa án giải quyết, thì bà Kim O dọn đi nơi khác,
nên bà rút yêu cầu khởi kiện; hiện nay bà đang sở hữu và sử dụng nhà và đất nói
trên. Bà không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Kim O, vì thửa đất và ngôi nhà
bà Kim O đã chuyển nhượng cho bà và bà đã được cấp giấy chứng nhận.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập, ông Võ S trình
bày:
Ông với bà Kim O chung sống như vợ chồng từ năm 2008. Cha mẹ bà Kim
O thống nhất cho ông và bà Kim O xây dựng ngôi nhà trên phần đất của cha mẹ bà
Kim O để ở; tiền xây dựng nhà là của ông, đất là của cha mẹ bà Kim O cho bà Kim
O và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Kim O. Việc bà Kim O
và bà Diễm O1 tự thỏa thuận chuyển nhượng nhà, đất như thế nào ông không biết.
Nay ông xác định ngôi nhà là tài sản của ông, còn đất là của bà Kim O; ông yêu cầu
hủy hợp đồng chuyển nhượng giữa hai bên, để ông được sử dụng ngôi nhà.
Người có quyền, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Văn B trình bày:
Ngày 26/8/2020 ông B được phân công công chứng hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị Kim O và Nguyễn Thị Diễm O1
ký, hợp đồng được hai bên ký và điểm chỉ, chữ viết là của bà Kim O, vì vậy ông
khẳng định chữ ký và điểm chỉ trong hợp đồng của bà Kim O. Ông không đến
Trung tâm y tế huyện H để yêu cầu bà Kim O ký như bà đã trình bày. Đối giá trị tài
sản thì các bên đương sự tự thỏa thuận, Văn phòng không có chức năng định giá,
kiểm tra thực tế mà chỉ kiểm tra tính hợp pháp của giấy chứng nhận, năng lực hành
vi của các bên ký kết và sự tự nguyện của họ. Đối với ngôi nhà, do chưa đăng ký

4
quyền sở hữu nên Văn phòng không ký công chứng. Ông khẳng định việc ông ký
công chứng đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Kim O và
bà Diễm O1 là hoàn toàn đúng quy định của pháp luật, vì thửa đất đã được cấp
Giấy chứng nhận cho bà Kim O nên bà có quyền chuyển nhượng. Thời điểm công
chứng, các bên đều minh mẫn, đủ năng lực hành vi dân sự và hoàn toàn tự nguyện
trong việc chuyển nhượng và nhận chuyển nhượng. Công chứng viên có quyền
thực hiện công chứng các loại văn bản do công dân yêu cầu, không phụ thuộc vào
sự phân công của Trưởng phòng. Do vậy, việc ông công chứng là nhân danh Công
chứng viên thực hiện theo quy định của pháp luật.
Bản án dân sự sơ thẩm số 99/2024/DS-ST ngày 30 tháng 12 năm 2024 của
Toà án nhân dân huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định, Quyết định:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Thị
Kim O, về yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà
Nguyễn Thị Kim O với bà Nguyễn Thị Diễm O1, được công chứng ngày
26/8/2020.
2. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan ông Võ S về yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và ngôi
nhà giữa bà Nguyễn Thị Kim O với bà Nguyễn Thị Diễm O1, được công chứng
ngày 26/8/2020.
Ngoài ra, bản án còn quyết định về án phí dân sự sơ thẩm và quyền kháng
cáo của các bên đương sự.
- Ngày 02/01/2025 và đơn kháng cáo bổ sung ngày 14/5/2025, nguyên đơn
bà Nguyễn Thị Kim O kháng cáo toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm yêu cầu Tòa án
cấp phúc thẩm hủy án sơ thẩm.
- Ngày 06/01/2025, ông Võ S là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
kháng cáo toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm, yêu cầu xem xét trả lại căn nhà cho ông
S.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu: Trong quá trình tố tụng, người
tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định của pháp luật
tố tụng; đồng thời đề nghị hội đồng xét xử không chấp nhận nội dung kháng cáo
của bà Nguyễn Thị Kim O và ông Võ S.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm
tra tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận
định:
[1] Về sự vắng mặt của đương sự: Tại phiên tòa phúc thẩm, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Văn B đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng

5
vắng mặt không lý do. Căn cứ vào khoản 3 Điều 296 của Bộ luật Tố tụng Dân sự,
Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng.
[2] Xét kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim O, thấy rằng:
[2.1] Thửa đất số 106, tờ bản đồ số 33, diện tích 128,4m²
tại thôn (khu phố)
G, thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Định (gọi tắt là thửa đất 106) có nguồn gốc là của
cha mẹ bà Nguyễn Thị Kim O tặng cho bà Kim O vào năm 2008 và đã được
UBND huyện H cấp quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị Kim O vào ngày
19/3/2008. Ngày 23/12/2019 bà Nguyễn Thị Kim O chuyển nhượng thửa đất 106
cho bà Nguyễn Thị Diễm O1. Hai bên đã lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất và đã được Phòng Công Chứng số 2 tỉnh Bình Định chứng thực số 8401,
quyển số 01/TP/CC-SCC/HĐGD. Ngày 26/8/2020 bà Kim O và bà Diễm O1 lập
“Văn bản thỏa thuận v/v hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” đối với
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được Phòng C tỉnh Bình Định
chứng thực số 8401, quyển số 01/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 23/12/2019 đã được
Phòng C tỉnh Bình Định chứng thực số 5071, quyển số 01/TP/CC-SCC/HĐGD. Và
cũng trong ngày 26/8/2020 bà Nguyễn Thị Kim O và bà Nguyễn Thị Diễm O1 lập
lại Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất 106 với nội dung
tương tự hợp đồng ngày 23/12/2019 đã được Phòng công chứng số 02 tỉnh Bình
Định chứng thực số 5072, quyền số 01/TP/CC-SCC/HĐGD. Ngày 09/11/2020, Sở
Tài nguyên và Môi trường tỉnh B đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có số
vào sổ: CS04777 cấp cho bà Nguyễn Thị Diễm O1, thửa đất có số hiệu 1781, tờ
bản đồ số 01, diện tích 135,8m² (hợp nhất phần diện tích đất nhận chuyển nhượng
của bà Kim O 128,4m²
và 7,4m² đất bà Diễm O1 nhận chuyền nhượng từ cha mẹ
của bà Kim O là ông Nguyễn Văn D và bà Nguyễn Thị Minh T). Như vậy, Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 26/18/2020 giữa bà Nguyễn Thị Kim
O với bà Nguyễn Thị Diễm O1 được công chứng đúng theo quy định của pháp luật,
phù hợp với quy định tại Điều 502 của Bộ luật Dân sự nên bảo đảm về hình thức
của Hợp đồng.
[2.2] Mặc dù, tại Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
26/18/2020 giữa bà Nguyễn Thị Kim O với bà Nguyễn Thị Diễm O1 không thể
hiện chuyển nhượng tài sản gắn liền với đất là ngôi nhà hiện có trên đất nhưng tại
giấy viết tay Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất
(không có thời gian) có chữ ký của bà Kim O và bà Diễm O1 thì có thể hiện tài sản
mà bà Kim O chuyển nhượng cho bà Diễm O1 là quyền sử dụng thửa đất 106 và
toàn bộ tài sản gắn liền với đất và ngôi nhà cấp 4 (ngang 5m, dài 20m) với giá
1.300.000.000 đồng (BL76,77), đồng thời tại biên bản lấy lời khai ngày 17/6/2023
bà Kim O thừa nhận Giấy viết tay có nội dung “Tôi tự nguyện bán nhà và đất cho
chị D1 O giá tiền (một tỷ ba hai chục) tôi đã nhận đủ” là do bà Kim O viết và ký
(BL57 và 65B). Mặt khác, theo Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản
gắn liền với đất ngày 08/01/2008 giữa ông Nguyễn Văn D, bà Nguyễn Thị Minh T

6
(cha mẹ bà Kim O) với bà Nguyễn Thị Kim O thì ông D bà T tặng cho bà Kim O
đất và nhà ở gắn liền với đất nhưng do bà Kim O chưa đăng ký quyền sở hữu nhà ở
nên chưa được cấp có thẩm quyền công nhận quyền sở hữu nhà ở trong Giấy chứng
nhận.
Mặt khác, qua xem xét thẩm định tại chỗ ngày 07/5/2025 cho thấy toàn bộ
diện tích của thửa đất 106 đã được xây dựng nhà, công trình phụ và mái hiên trên
đất, không còn khoảng đất trống nên bà Kim O cho rằng không bán tài sản là nhà
trên thửa đất 106 là không đúng với thực tế.
Từ những phân tích trên đủ cơ sở xác định bà Kim O có chuyển nhượng ngôi
nhà gắn liền thửa đất 106 cho bà Diễm O1.
[2.3] Xét yêu cầu kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu
cầu độc lập ông Võ S, thấy rằng:
Ông S cho rằng ngôi nhà là do ông xây dựng năm 2009, giá khoảng
700.000.000 đồng. Tuy nhiên, ông không cung cấp được tài liệu, chứng cứ nào để
chứng minh cho yêu cầu trên. Tại Báo cáo số 49/BC-CNHA ngày 27 tháng 11 năm
2020 và hồ sơ tặng cho QSDĐ gắn liền với tài sản giữa vợ chồng ông Nguyễn Văn
D, bà Nguyễn Thị Minh T của Văn phòng đăng ký đất đai Chi nhánh huyện H thể
hiện: Qua kiểm tra hồ sơ cấp Giấy chứng nhận QSDĐ cho bà Nguyễn Thị Kim O
có nguồn gốc đất là nhận tặng cho QSDĐ và tài sản gắn liền với đất của cha mẹ là
ông Nguyễn Văn D, bà Nguyễn Thị Minh T, được UBND thị trấn T, huyện H
chứng thực theo hợp đồng số 02, quyển số 01 ngày 08/01/2008. Do vậy đây là tài
sản riêng của bà Kim O chứ không phải tài sản chung của vợ chồng. Việc ông Võ S
trình bày nhà do vợ chồng ông xây dựng năm 2009 là không có cơ sở; vì qua kiểm
tra hợp đồng tặng cho QSDĐ và tài sản gắn liền với đất thì ngôi nhà bà Nguyễn Thị
Kim O nhận tặng cho ngày 08/01/2008, chưa làm sở hữu nhà, do bà Kim O không
có nhu cầu; trong thời gian bà Kim O chuyển nhượng QSDĐ và ngôi nhà cho bà
Diễm O1, ông S biết và cũng không có ý kiến hay khiếu nại gì về ngôi nhà. Do đó,
Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu độc lập của ông S là có căn cứ.
[3] Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận nội dung
kháng cáo của bà Nguyễn Thị Kim O và ông Võ S. Giữ nguyên nội dung bản án sơ
thẩm.
[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị Kim O thuộc diện hộ nghèo, ông
Võ S thuộc gia đình liệt sĩ, nên được miễn án phí sự sơ thẩm theo quy định tại điểm
d khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm
2026 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm,
nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí.
[5] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

7
[6] Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định phát biểu ý kiến về việc
giải quyết vụ án đề nghị không chấp nhận nội dung kháng cáo của bà Nguyễn Thị
Kim O và ông Võ S, giữ nguyên Bản án sơ thẩm là phù hợp với nhận định của Hội
đồng xét xử.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ các Điều 116, 117, 119, 223, 385, 500, 501, 502, 503 Bộ luật dân sự
2015;
Căn cứ các Điều 166, 167, 168, 170, Luật Đất đai năm 2013;
Căn cứ Điều điểm d khoản 1 Điều 12, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận toàn bộ nội dung kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn
Thị Kim O và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Võ S. Giữ nguyên bản án
dân sự sơ thẩm số 99/2024/DS-ST ngày 30 tháng 12 năm 2024 của Tòa án nhân
dân huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định.
2. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn
Thị Kim O về yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà
Nguyễn Thị Kim O với bà Nguyễn Thị Diễm O1, được công chứng ngày
26/8/2020.
2. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan ông Võ S về yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà
Nguyễn Thị Kim O với bà Nguyễn Thị Diễm O1, được công chứng ngày 26/8/2020
để trả lại ngôi nhà hiện có trên thửa đất cho ông Võ S.
3. Về chi phí tố tụng và án phí:
3.1. Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản là 13.000.000
đồng (mười ba triệu đồng) bà Nguyễn Thị Kim O phải chịu. Bà Nguyễn Thị Kim O
đã nộp xong.
3.2. Về án phí:
3. Án phí dân sự sơ thẩm và phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị Kim O, ông Võ S
được miễn.
Bà Nguyễn Thị Kim O được hoàn trả 1.200.000 đồng tiền tạm ứng án phí,
theo biên lai thu số 0010972, ngày 29/5/2023 của Chi cục Thi hành án Dân sự
huyện Hoài Ân.

8
4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
5. Quyền và nghĩa vụ thi hành án:
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án Dân sự;
thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân
sự.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- VKSND tỉnh Bình Định; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- TAND huyện Hoài Ân;
- CCTHADS huyện Hoài Ân;
- Các đương sự;
- Lưu: HCTP, Tòa dân sự, hồ sơ vụ án.
Đỗ Thị Thắm
9
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Nguyễn Văn Hiệp Phan Minh Dũng
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đỗ Thị Thắm
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 22/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 16/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 15/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 04/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 31/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 29/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 29/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 28/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 28/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 25/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 25/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 24/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm