Bản án số 90/2025/DS-ST ngày 20/06/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 11 - Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 90/2025/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 90/2025/DS-ST ngày 20/06/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 11 - Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân khu vực 11 - Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh
Số hiệu: 90/2025/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 20/06/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và Hợp đồng đặt cọc
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN TÂN CHÂU
TỈNH TÂY NINH
Bản án số: 90/2025/DS-ST
Ngày: 20-6-2025
“V/v tranh chấp Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất và Hợp
đồng đặt cọc”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN CHÂU, TỈNH TÂY NINH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Ông Nguyễn Thành Chung.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Phan Ngọc Thạch;
2. Bà Nguyễn Thị Minh Nguyệt.
- Thư ký phiên tòa: Ông Lưu Sử Ngọc Quân, là Thư ký Tòa án nhân dân
huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh tham gia
phiên tòa: Nguyễn Thị Bích Ngọc - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 17 20 tháng 6 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện
Tân Châu, tỉnh Tây Ninh xét xử thẩm ng khai v án dân sự thụ số
527/2024/TLST-DS ngày 04 tháng 11 năm 2024 về tranh chấp Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất và Hợp đồng đặt cọc theo Quyết định đưa vụ án ra xét
xử số 106/2025/QĐXXST-DS ngày 26 tháng 5 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thanh T, sinh năm 1978; địa chỉ: Tổ E, ấp T,
xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh (vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của ông T: Mai Thị Kim H, sinh năm
1960; địa chỉ: Khu phố D, Phường C, thành phố T, tỉnh Tây Ninh (có mặt).
- Bị đơn: Ông Phan Văn H1, sinh năm 1970 Đỗ Thị H2, sinh năm
1979; địa chỉ: Tổ D, khu phố A, thị trấn T, huyện T, tỉnh Tây Ninh (vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của ông H1, bà H2: Anh Trần Quốc T1, sinh
năm 1987; địa chỉ: Khu phố H, phường H, thành phố T, tỉnh Tây Ninh (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Nguyễn Văn H3, sinh năm 1985; địa chỉ: Tổ B, ấp Đ, T, huyện
T, tỉnh Tây Ninh (có mặt).
2. Chị Nguyễn Thị T2, sinh năm 1990; địa chỉ: Tổ B, ấp T, xã T, huyện T,
tỉnh Tây Ninh (vắng mặt).
3. Văng phòng công chứng Bùi Văn H4; địa chỉ: Khu phố B, thị trấn T,
huyện T, tỉnh Tây Ninh.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Bùi Văn H4 Trưởng Văn phòng.
Người đại dện theo ủy quyền của ông H4: Bùi ThN Công chứng viên
(vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo Đơn khởi kiện ngày 12/9/2024 cùng các lời khai trong quá trình giải
quyết vụ án Người đại diện theo ủy quyền của Nguyên đơn là bà Mai Thị Kim H
trình bày:
Năm 2022, do kẹt tiền người giới thiệu nên ông T1 vay H2
300.000.000 đồng, lãi 6%/tháng, thế chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số CS02060 được Sở Tài nguyên môi trường tỉnh T cấp cho ông T1 ngày
22/10/2020, có ký Hợp đồng chuyển nhượng giả tạo để làm tin vào ngày
05/7/2022, đã được công chứng tại Văn phòng C, hẹn khi nào trả đủ tiền sẽ trả lại
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đất thế chấp thuộc thửa 30, tờ bản đồ số 67,
diện tích 435 m
2
, tọa lạc tại ấp T, T, huyện T, tỉnh Tây Ninh. Sau đó, ông T1
được biết H2 đã sang nhượng lại thửa đất trên cho chị T2 với giá 1.500.000.000
đồng. Ông T1 nhiều lần đòi lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng bà H2
nói phải trả cho bà 01 tỷ đồng thì mới trả lại giấy tờ đất. Ông T1 không đồng ý vì
ông T1 biết bà H2 không còn giữ giấy tờ đất của ông T1 nữa nên mới khởi kiện.
Nay đại diện cho ông T1 yêu cầu Tòa án tuyên bố Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ngày 05/7/2022 đối với thửa đất số 30, tờ bản đồ số 67
tọa lạc tại ấp T, T, huyện T, tỉnh Tây Ninh giữa ông T1 H2, ông H
hiệu. Ông T1 đồng ý trả lại cho H2, ông H số tiền 300.000.000 đồng. Yêu cầu
tuyên bố Hợp đồng đặt cọc ngày 28/11/2022 giữa H2, ông H anh H3, chị
T2 hiệu. Đối với việc chị T2 đang giữ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
thửa đất trên thì yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Ngoài ra,
ông T1 không yêu cầu gì khác.
Người đại diện theo ủy quyền của Bị đơn là anh Trần Quốc T1 trình bày:
Vào năm 2022, H2 quen biết với ông T1 thông qua người khác giới
thiệu. Trong thời gian đó ông T1 có vay tiền của bà H2 nhiều lần, ông T1 nói vay
tiền là để trả lãi cho số tiền ông T1 đã vay trước đó của người khác và để đáo hạn
Ngân hàng. Trong thời gian này ông T1 gặp khó khăn không trả được lãi cho Ngân
hàng n nhiều lần ông T1 đề nghị vợ chồng H2 sang nhượng lại phần đất diện
tích 435m
2
, tại thửa số 30, tờ bản đồ số 67 được Sở i Nguyên môi ờng tỉnh
Tây Ninh cấp cho ông T1 ngày 22/10/2020, trên đất có 01 căn nhà, đất tọa lạc tại
Tổ E, ấp T, T, Huyện T, tỉnh Tây Ninh nhưng vợ chồng bà H2 không đồng ý
còn mẹ già của ông T1 đang ở, hơn nữa vợ chồng H2 yêu cầu ông T1 vay
tiền thì trả lại bằng tiền. vậy, bà H2 giới thiệu ông T1 đến vay vốn tại Ngân
hàng N1, địa chỉ, C, đường C, khu phố A, Phường A, thành phố T để vay số tiền
450.000.000đồng. Sau khi vay tiền trả lãi hàng tháng thì ông T1 không có tiền trả
lãi đều phải vay tiền của H2 để trả nhưng ông T1 có dùng vào mục đích khác
hay không thì H2 không biết. Cụ thể bà H2 đã chuyển khoản cho ông T1 vay
các ngày như sau: Ngày 18/02/2022 chuyển khoản 5.000.000 đồng, 12/3/2022
chuyển khoản 5.000.000 đồng, 16/3/2022 chuyển khoản 5.000.000 đồng,
25/4/2022 chuyển khoản 5.000.000 đồng, 02/5/2022 chuyển khoản 5.000.000
đồng, 04/5/2022 chuyển khoản 3 lần tổng cộng 15.000.000 đồng, 09/5/2022
chuyển khoản 5.000.000 đồng, 11/5/2022 chuyển khoản 5.000.000 đồng,
12/5/2022 chuyển khoản 5.000.000 đồng, 14/5/2022 chuyển khoản 50.000.000
đồng, 26/5/2022 chuyển khoản 5.000.000 đồng, 07/6/2022 chuyển khoản
5.000.000 đồng, 16/6/2022 chuyển khoản 3.000.000 đồng, 20/6/2022 chuyển
khoản 2.000.000 đồng, ngày 29/6/2022 chuyển khoản 5.000.000 đồng ngày
30/6/2022 chuyển khoản 20.000.000 đồng. Tất cả các ngày chuyển tiền trên đều
được chuyển từ tài khoản của H2 có tài khoản số 1190179999979 Ngân hàng
MB (Ngân hàng Q) qua tài khoản số 70909585070001 do ông Nguyễn Thanh T
đứng tên. Đây toàn bsố tiền vợ chồng H2 dùng đđặt cọc đất sau
đó tiền chuyển nhượng đất của ông T. Đến khi đáo hạn Ngân hàng thì H2
mới biết ông T trả lãi không đều, ông T muốn vay tăng thêm số tiền nhưng bị
Ngân hàng tchối không vay được giá trị tài sản không đảm bảo. Không vay
lại được Ngân hàng N1, H2 cùng ông T đi liên hệ nhiều Ngân hàng khác cho
ông T vay nhưng các Ngân hàng đều thẩm định giá trị tài sản của ông T thấp
không thể cho vay theo yêu cầu của ông T được. Do không thể vay được tiền nên
ông T yêu cầu chuyển nhượng toàn bộ tài sản trên cho vợ chồng H2 với giá
607.000.000 đồng, bằng với số tiền mà ông T đã vay gồm các khoản tiền chuyển
khoản từ ngày 18/02/2022 đến ngày 30/6/2022 tổng cộng 145.000.000 đồng, cộng
với tiền trả nợ gốc cho Ngân hàng 450.000.000đồng tiền lãi để tất toán cho
Ngân hàng 12.000.000 đồng vào ngày 30/6/2022. Giá trị tài sản tại thời điểm ông
T chuyển nhượng cho vợ chồng H2 đã cao hơn rất nhiều giá trị thị trường. Khi
lấy sổ đỏ từ Ngân hàng ra ông T trực tiếp mang hồ sơ đi xóa thế chấp tại bộ phn
tiếp nhận trả kết quả của Văn phòng đăng đất đai tỉnh T - Chi nhánh T4. Từ
việc ông T đồng ý chuyển nhượng toàn bộ tài sản cho vợ chồng H2 nên ngày
04/7/2022 ông T yêu cầu H2 đến Văn phòng công chứng Bùi Văn H4 để
Giấy ủy quyền tại văn bản chứng thực chữ ký số 873, quyển số 01/2022-
SCT/CKĐC. Theo đó ông T đã ủy quyền cho bà H2 đến bộ phận tiếp nhận và trả
kết quả của Văn phòng đăng đất đai tỉnh T - Chi nhánh T4 nhận Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất (do ông T nộp hồ sơ làm thủ tục xóa thế chấp quyền sử
dụng đất theo “Giấy tiếp nhận hồ trả kết quả” đề ngày nhận hồ
01/7/2022, ngày hẹn trả hồ 04/7/2022). Khi nhận sổ đỏ xong, ông T trực tiếp
cầm sổ đỏ giao cho H2 giữ để ngày 05/7/2022 ông T lên ký Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dựng đất cho vợ chồng bà H2. Đúng hẹn ông T đến Văn phòng
C hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất trên cho vợ chồng H2.
Đến ngày 18/7/2022, Văn phòng đăng đất đai tỉnh T Chi nhánh T4 đã ký xác
nhận trang 4 với nội dung ông T chuyển nhượng phần đất trên cho vợ chồng
H2. Ngày 22/11/2022, vchồng H2 được Sở Tài Nguyên môi trường tỉnh
T cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Như vậy, từ ngày ông T ký hợp đồng
chuyển nhượng toàn bộ tài sản cho vợ chồng H2 đến hơn 4 tháng sau vợ chồng
H2 mới được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ngày ông T hợp
đồng chuyển nhượng phần đất và tài sản trên đất trên cho vợ chồng H2 tại n
phòng C giá trị hợp đồng chuyển nhượng chỉ ghi 300.000.000 đồng theo yêu
cầu của ông T. Thực tế phần đất trên vợ chồng bà H2 mua của ông T với số tiền
607.000.000 đồng từ việc trả tiền vay gốc của ông T tại Ngân hàng là 450.000.000
đồng tiền trả lãi ngày tất toán cho ông T 12.000.000 đồng, cộng với tổng số
tiền vay các lần ông T yêu cầu chuyển khoản đtrả lãi 145.000.000 đồng, tất
cả các khoản tiền trên đều tiền gốc. Từ ngày vay tiền đến khi ông T chuyển
nhượng tài sản thì ông T không trả bất kỳ khoản tiền lãi nào. Ông T xin cho
mẹ già của ông T tiếp tục ở tại căn nhà tạm trên phần đất nêu trên một thời gian,
khi nào vợ chồng H2 có nhu cầu lấy lại tài sản thì ông T sẽ đưa mẹ ông về Tây
Ninh ở và giao tài sản cho vợ chồng H2. Từ ngày cho ở tạm đến nay vợ chồng
H2 không thu bất kỳ khoản tiền nào từ việc mẹ ông T ở nhờ.
Trong quá trình làm ăn bà H2 có nhu cầu vốn nên vào ngày 28/11/2022 bà
H2 có cầm cố cho anh H3 thửa đất nêu trên để vay số tiền 1.500.000 đồng nhưng
sau đó xảy ra tranh chấp. Tại Bản án dân sự phúc thẩm số: 315/2024/DS-PT ngày
15/7/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh đã tuyên: Tuyên bố hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Phan Văn H1 Đỗ Thị H2 với
chị Nguyễn Thị T2 ngày 28/11/2022 hiệu. Chị Nguyễn Thị T2 và anh Nguyễn
Văn H3 có trách nhiệm trả cho bà Đỗ Thị H2 và ông Phan Văn Hoa G số vào sổ
cấp GCN: CS03239, được Sở T Môi tường tỉnh Tây Ninh cấp ngày 22/11/2022,
tại thửa số 30, tờ bản đồ số 67, diện tích 435,0m
2
, tọa lạc tại ấp T, xã T, huyện T,
tỉnh Tây Ninh do ông Phan Văn H1 và bà Đỗ Thị H2 đứng tên.
Nay anh đại diện cho H2, ông H1 không đồng ý với toàn bộ yêu cầu
khởi kiện của ông T. Giả sử Tòa án tuyên Hợp đồng hiệu thì yêu cầu giải quyết
hậu quả pháp lý của Hợp đồng vô hiệu theo quy định của pháp luật. Đối với việc
anh H3, chT2 đang giữ sổ đỏ thửa đất trên thì yêu cầu Tòa án giải quyết theo
quy định của pháp luật. Ngoài ra, ông H1, H2 không yêu cầu gì khác.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Văn H3 trình bày:
Sự việc anh giữ sổ đỏ của H2, ông H1 đã được trình bày giải quyết
xong tại Bản án dân sự thẩm số 35/2024/DS-ST ngày 15/3/2024 của TAND
huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh và Bản án dân sự phúc thẩm số 315/2024/DS-PT
ngày 15/7/2024 của TAND tỉnh Tây Ninh. Theo Bản án phúc thẩm trên thì bà H2
nghĩa vụ trả lại cho vợ chồng anh 1,5 tỷ đồng tiền gốc và 53.890.000 đồng tiền
lãi, vợ chồng anh phải trả lại sđỏ thửa đất trên cho H2, ông H1. Vợ chồng
anh đã làm đơn yêu cầu thi hành án nhưng H2 chưa trả tiền nên anh chưa trả
lại sổ đỏ cho H2, ông H1. Hiện nay, sđỏ thửa đất trên do anh đang giữ, không
cầm cố, thế chấp cho ai.
Việc tranh chấp giữa ông T với bà H2, ông H1 không liên quan gì đến anh,
anh không biết về sự việc này nên Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của
pháp luật. Đối với sổ đỏ thửa đất trên thì khi nào bà H2 trả đủ tiền cho anh thì anh
sẽ trả lại cho H2, ông H1.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Nguyễn Thị T2 trình bày:
Chị hoàn toàn thống nhất với lời trình bày yêu cầu của anh H3. Ngoài
ra, chị không yêu cầu gì khác.
Bùi Thị N người đại diện cho Văn phòng C trình bày:
Vào ngày 05/7/2022, Văn phòng C tiếp nhận công chứng Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông T và bà H2, ông H1 đối với thửa đất
trên. Việc công chứng Hợp đồng trên đã được thực hiện đúng trình tự quy định
của pháp luật về công chứng. Do đó, Văn phòng C yêu cầu Tòa án giải quyết vụ
án theo quy định của pháp luật.
Tại phần tranh luận:
H1 trình bày: Ông T vay của H2 số tiền 300.000.000 đồng thật.
Việc ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cũng có thật bởi vì Điều 2
của Hợp đồng có ghi giá trị chuyển nhượng là 300.000.000 đồng và trả bằng tiền
mặt nên không phù hợp với lời trình bày của bị đơn. Tiền thuế thu nhập cá nhân
ông T ng không nộp Hợp đồng chuyển nhượng ghi ông T phải chịu. Việc
bị đơn trình bày cho ông T vay 450.000.000 đồng tại Ngân hàng để ông T trả nợ
Ngân hàng mà không có chứng cứ chứng minh là không phù hợp. Vì vậy, giả s
nếu việc ông T vay H2 số tiền 607.000.000 đồng thì cũng giao dịch
khác, không liên quan đến vụ án này. Trước đây, mông T trên đất nhưng
nay đã không còn nữa, phía bị đơn cũng không tiếp quản nhà đất. Do đó, Hợp
đồng chuyển nhượng đất giả tạo, đề nghị Hội đồng xét xchấp nhận yêu cầu
khởi kiện của ông T, ông T đồng ý trả cho bà H2, ông H1 số tiền 300.000.000
đồng và xin không trả lãi.
Anh T3 tnh bày: Bị đơn không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn vì: Số tiền đặt cọc chuyển nhượng đất giữa hai bên thể hiện 145.000.000
đồng phù hợp với stiền H2 chuyển khoản cho ông T3 vay nhiều lần trước đó.
Nguyên đơn cho rằng chỉ vay tiền của bị đơn thì phải việc trả lãi trong khi
nguyên đơn không chứng cứ chứng minh việc trả lãi. Nếu Hợp đồng chuyển
nhượng là giả cách thì phải được lập từ lần vay tiền đầu tiên chứ không phải thực
hiện ở lần vay cuối. Nguyên đơn cho rằng không bàn giao nhà, đất không đúng
vì nguyên đơn không còn ở trên đất, bị đơn cũng bỏ hoang nên Hợp đồng chuyển
nhượng là có thật.
Anh H3 trình bày: Khi nào bà H2 trả đủ tiền cho anh thì anh sẽ trả lại Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất.
H1 đối đáp: Bị đơn cho rằng việc chuyển nhượng có thật thì việc thanh
toán thực hiện như thế nào nên đề nghị xem lại sao của bị đơn, xem lại tiền
chuyển nhượng là 300.000.000 đồng hay 607.000.000 đồng. Bà H2 chỉ giao dịch
vay tiền với ông T3 nhưng khi sang nhượng thì ông H1 Hợp đồng sang
nhượng là không phù hợp. Ông T3 Hợp đồng sang nhượng nhưng không hiểu
rõ nội dung của hợp đồng nên không đảm bảo hiệu lực của hợp đồng.
Anh T3 đối đáp: Nguyên đơn không thừa nhận sao kê của bị đơn nhưng số
tài khoản nhận tiền là của ông T3 nên đề nghị được công nhận chứng cứ này của
bị đơn.
Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Châu, tỉnh y Ninh phát
biểu ý kiến:
- Về thủ tục tố tụng: Tòa án nhân dân huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh đã
thụ giải quyết vụ án đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; tại phiên
Tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; các
đương sự thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật
Tố tụng dân sự; không xảy ra vi phạm về tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án.
- Về nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng các Điều 117, 118,
119, 122, 124, 500, 501, 502, 503 của Bộ luật Dân sự; các Điều 147, 157, 165,
217 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết s 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án để xử theo hướng:
+ Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T3 về việc yêu cầu tuyên bố
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất giữa ông T3 H2, ông H1
hiệu.
+ Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của ông T3 về việc yêu cầu tuyên
bố Hợp đồng đặt cọc ngày 28/11/2022 giữaH2, ông H1 và chị T2 vô hiệu.
+ Các đương sự phải chịu chi phí tố tụng và án phí dân sự thẩm theo quy
định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ trong hồ vụ án được thẩm
tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh tụng công khai tại phiên Toà, Hội đồng xét
xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Ông T3 Nguyên đơn vắng mặt nhưng đã ủy quyền cho H1 đại
diện. Bà H2, ông H1 là Bị đơn vắng mặt nhưng đã ủy quyền cho anh T3 đại diện.
Chị T2 vắng mặt đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia
phiên tòa. N là người đại diện của Văn phòng công chứng Bùi Văn H4 vắng
mặt, đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xcăn cứ vào quy định tại
Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt đối với ông T3, bà H2, ông
H1, chị T2, bà N.
[1.2] Ngày 20/5/2025, phía ông T3 Đơn xin rút một phần yêu cầu khởi
kiện về việc yêu cầu tuyên bố Hợp đồng đặt cọc ngày 28/11/2022 giữa H2, ông
H1 và anh H3, chị T2 vô hiệu. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 217 của Bộ luật
Tố tụng dân sự Hội đồng xét xử đình chỉ việc giải quyết đối với phần yêu cầu này
của ông T3.
[2] Về nội dung tranh chấp: Tại phiên tòa, H1 đại diện cho ông T3 yêu
cầu Tòa án tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông T3
H2 đối với thửa đất số 30, tờ bản đồ số 67 vô hiệu; ông T3 đồng ý trả lại cho
H2, ông H1 số tiền 300.000.000 đồng, xin không trả lãi. Anh T3 đại diện cho
H2, ông H1 không đồng ý với yêu cầu của ông T3. Anh H3 yêu cầu Tòa án
giải quyết vụ việc theo quy định của pháp luật. Xét yêu cầu của các bên đương sự
thấy rằng:
[2.1] Căn cứ vào Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
05/7/2022 giữa ông T3 và bà H2, ông H1 và lời thừa nhận của các bên có đủ căn
cứ xác định ngày 05/7/2022 các bên Hợp đồng chuyển nhượng quyền s
dụng đất trên đối với thửa đất số 30, tờ bản đồ số 67, có diện tích 435 m
2
tọa lạc
tại ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh tại Văn phòng C có thật. Như vậy, Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất này đã được các bên thực hiện đúng quy
định của pháp luật đất đai vhình thức của Hợp đồng, thể hiện các bên hoàn toàn
tự nguyện.
[2.2] Phía ông T3 cho rằng không chuyển nhượng đất mà chỉ vay của
H2 300.000.000 đồng; nhận tiền 02 lần, lần đầu nhận 180.000.000 đồng, lần
sau nhận 120.000.000 đồng; trả lãi được 04 tháng nhưng không đưa ra được
chứng cứ chứng minh việc có vay tiền và có trả lãi như trên, phía bà H2, ông H1
cũng không thừa nhận nên không có căn cứ chấp nhận.
[2.3] Về giá chuyển nhượng: Trong hợp đồng thể hiện giá chuyển nhượng
300.000.000 đồng, giá trị thực tế ông H1, H2 trình bày 607.000.000 đồng.
Căn cứ vào Báo cáo tài khoản khách hàng đối ứng – giao dịch FT của Ngân hàng
Q đối với tài khoản số 1190179999979 do Đỗ Thị H2 đứng tên lời tha
nhận của H1 tại phiên tòa đủ căn cứ xác định H2 chuyển khoản cho
ông T3 vay tiền 18 lần từ ngày 02/6/2022 đến ngày 30/6/2022 với số tiền tổng
cộng là 145.000.000 đồng là có thật. Bị đơn xác định số tiền vay này sau đó được
chuyển thành tiền sang nhượng đất n cứ vì tất cả đều được thực hiện trước
ngày các bên kết Hợp đồng chuyển nhượng. Bị đơn xác định số tiền sang
nhượng đất còn lại 462.000.000 đồng H2 đã trả đủ cho ông T3 vào ngày
30.6.2022 để ông T3 trả nợ Ngân hàng lấy sổ đỏ ra thực hiện việc sang nhượng
không căn cứ chcăn cứ xác định được số tiền thành toán là 445.000.000
đồng gồm số tiền chuyển nhượng trong hợp đồng là 300.000.000 đồng, và số tiền
chuyển khoản là 145.000.000 đồng, cũng đã cao hơn so với kết quả định giá hiện
tại đất chỉ giá 441.000.000 đồng. Tại phiên tòa, H1 cho rằng các điều khoản
các bên thỏa thuận ghi trong Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa
các bên đều thật, giá trị thực hiện nhưng lại yêu cầu Tòa án tuyên bố Hợp
đồng vô hiệu do giả tạo là tự mâu thuẫn với mình.
[2.4] Ngoài ra, qua xem xét, thẩm định tại chỗ lời thừa nhận của các bên
có đủ căn cứ xác định phần đất và căn nhà trên đất hiện nay không có người nào
ở là phù hợp với lời trình bày của bị đơn là nhà, đất đã nhận nhưng bỏ hoang.
[2.5] Từ những phân tích trên cho thấy Hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất giữa các bên có thật, phù hợp với quy định của pháp luật về hình
thức của hợp đồng, bị đơn đã trả đủ tiền sang nhượng đất cho nguyên đơn phù
hợp với giá trị đất, đã nhận quản lý đất nên không phải là Hợp đồng giả tạo. Do
đó, cần không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là phù hợp với quy
định tại các Điều 117, 500, 501, 502, 503 của Bộ luật Dân sự.
[3] Đối với việc anh H3, chị T2 đang giữ Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất của thửa đất nêu trên đã được giải quyết xong tại Bản án dân sự phúc thẩm số
315/2024/DS-PT ngày 15/7/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh nên tiếp tục
được thi hành theo Bản án này.
[4] Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ chi phí định giá tài sản: Do
yêu cầu khởi kiện của ông T3 không được chấp nhận nên ông T3 phải chịu toàn
bộ 4.000.000 đồng theo quy định tại các Điều 157, 157 của Bộ luật Ttụng
dân sự; ghi ông T3 đã nộp và đã chi phí xong
[5] Xét đề nghị của vị Kiểm sát viên tại phiên tòa có căn cứ, phù hợp với
những nhận định trên nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân
sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí
Tòa án: Buộc ông T3 phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ o các Điều 117, 500, 501, 502, 503 của Bộ luật Dân sự; các Điều
147, 157, 165, điểm c khoản 1 Điều 217 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về
mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, tuyên
xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thanh T đối với
Đỗ Thị H2, ông Phan Văn H1 về việc yêu cầu Tòa án tuyên bố Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 05/7/2022 giữa ông Nguyễn Thanh T
Đỗ Thị H2, ông Phan Văn H1 đối với thửa đất số 30, tờ bản đồ số 67, có diện
tích 435 m
2
tọa lạc tại ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh, có tứ cận: Đông giáp
đường ĐH244, Tây giáp thửa đất số 07, Nam giáp thửa đất số 31, Bắc giáp thửa
đất số 26 là vô hiệu.
2. Đình chỉ việc giải quyết một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn
Thanh T về việc yêu cầu tuyên bố Hợp đồng đặt cọc ngày 28/11/2022 giữaĐỗ
Thị H2, ông Phan H1 và anh Nguyễn Văn H3, chị Nguyễn Thị T2 vô hiệu.
3. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và chi phí định giá tài sản: Buộc
ông Nguyễn Thanh T phải chịu 4.000.000 (bốn triệu) đồng; ghi nhận ông Nguyễn
Thanh T đã nộp và đã chi phí xong
4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn Thanh T phải chịu 300.000 (ba
trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự thẩm, được khấu trừ 600.000 (sáu trăm
nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Biên lai thu số 0006843 ngày
29/10/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh (do
Mai Thị Kim H nộp thay); ông Nguyễn Thanh T được hoàn trả lại số tiền chênh
lệch là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng.
5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 9
Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
6. Báo cho các đương sự có mặt tại phiên tòa biết có quyền kháng cáo lên
Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh để xét xử phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ
ngày tuyên án. Riêng các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn
15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết hợp lệ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Nơi nhận: THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- Đương sự;
- Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp;
- Lưu hồ sơ; (Đã ký)
- Lưu tập án.
Nguyễn Thành Chung
Tải về
Bản án số 90/2025/DS-ST Bản án số 90/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 90/2025/DS-ST Bản án số 90/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất