Bản án số 89/2025/DS-PT ngày 29/04/2025 của TAND tỉnh Bình Thuận về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 89/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 89/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 89/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 89/2025/DS-PT ngày 29/04/2025 của TAND tỉnh Bình Thuận về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bình Thuận |
Số hiệu: | 89/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 29/04/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Nguyễn Thế V - Nguyễn Thị Hồng S “Tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, yêu cầu thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”. Chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Thế V và người liên quan ông Nguyễn Thế L, sửa bản án dân sự sơ thẩm. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH BÌNH THUẬN Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 89/2025/DS-PT
Ngày: 29/4/2025
V/v: “Tranh chấp hợp đồng
tặng cho QSDĐ, yêu cầu
thu hồi giấy chứng nhận QSD đất;
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH THUẬN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Phạm Thái Bình
Các Thẩm phán: ông Đặng Văn Cường, bà Nguyễn Thị Thủy Tiên
- Thư ký phiên tòa: Bà Lương Mai Hân - Thư ký Tòa án nhân dân tnh
Bình Thun.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tnh Bnh Thun tham gia phiên
tòa: Bà Nguyễn Thị Thùy Dương - Kiểm sát viên.
Ngày 23 - 29 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tnh Bình
Thun, xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sư thụ lý số 259/2024/TLPT-DS
ngày 17 tháng 12 năm 2024 về việc: “ Tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử
dụng đất, yêu cầu thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”. Do bản án dân
sự sơ thẩm số 148/2024/DS-ST ngày 27 tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân
thành phố Phan Thiết bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc
thẩm số 85/2025/QĐ-PT, ngày 03 tháng 4 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thế V, sinh năm 1966.
Địa ch thường trú: Số B Bà H, phường I, Qun A, Thành phố Hồ Chí
Minh.
- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Hồng S, sinh năm 1958.
Địa ch thường trú: Số A, đường L, phường P, thành phố P, tnh Bình
Thun.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1/Ông Nguyễn Thế H, sinh năm 1950, Địa ch thường trú ở nước ngoài:
Số I, ALASKAAVE,LEHIGH ACERS, PL33971,FLORIDA. Hiện đang cư trú
tại:Số D, đường T, phường P, thành phố P, tnh Bình Thun.
2
- Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Thế H: Bà Nguyễn Thị
Diệu H1, sinh ngày 26/12/1978; Địa ch thường trú: Khu phố C, phường P,
thành phố P, tnh Bình Thun
2/Ông Nguyễn Thế D, sinh năm 1954; Địa ch thường trú ở nước ngoài:
Số A, KANE AVE,YORK, ON,M6M3N5,ONTARIO, CANADA; Địa ch
thường trú: Số B M, phường B, Qun B, thành phố Hồ Chí Minh; Địa ch tạm
trú: 6 Khu V, đường số A, phường T, Qun G, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Thế H: Ông Nguyễn Thế
H2, sinh 1976; Địa ch thường trú: Khu phố C, phường P, thành phố P, tnh Bình
Thun
3/ Bà Nguyễn Thị Thanh H3, sinh năm 1956, Địa ch: Số A, đường T,
phường Đ, thành phố P, tnh Bình Thun.
4/ Ông Nguyễn Thế P, sinh năm 1962, Địa ch: Khu phố P, thị trấn P,
huyện H, tnh Bình Thun.
5/ Bà NguyễnThị Hồng S1, sinh năm 1964, Địa ch thường trú: Khu phố
F, phường P, thành phố P, tnh Bình Thun; Địa ch nơi ở hiện nay: Số B, P,
phường T, Thành phố T, thành phố Hồ Chí Minh.
6/ Ông Nguyễn Thế L, sinh năm 1969, Địa ch: Số A, đường B, phường P,
thành phố P, tnh Bình Thun.
7/ Ông Nguyễn Thế S2, sinh năm 1970, Địa ch: Số A, đường C, phường
P, thành phố P, tnh Bình Thun.
8/ Ủy ban nhân dân phường P, thành phố P, tnh Bình Thun.
Nguyên đơn, bị đơn, người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Thế
H, người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Thế D, ông Nguyễn Thế L, bà
Nguyễn Thị Hồng S3, bà Nguyễn Thị Thanh H3, có mặt tại phiên tòa.
Ông Nguyễn Thế P, ông Nguyễn Thế S2 và UBND phường P, thành phố
P có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Người kháng cáo: Ông Nguyễn Thế L, ông Nguyễn Thế V.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bản án sơ thẩm thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
* Theo đơn khởi kiệnđề ngày 07/6/2023, các bản tự khai và trong quá
trnh xét xử giải quyết vụ án, nguyên đơn – ông Nguyễn Thế V trình bày:
Cha mẹ của ông là ông Nguyễn Ngọc H4 và bà Nguyễn Thị L1, cha ông
mất ngày 25/3/2011, mẹ ông mất ngày 27/03/2022. Cha mẹ ông có tất cả 09
người con, hiện là các đương sự trong vụ án.
3
Lúc sinh thời cha mẹ ông có mua nhà và đất tại thửa đất số 50, tờ bản đồ
số 28, có diện tích 74m
2
, loại đất ở đô thị (Xác định theo Giấy chứng nhn
quyền sử dụng đất).
Vị trí đất tại số A, H, phường P, thành phố P, tnh Bình Thun, nay là số
A, L, phường P, P, tnh Bình Thun; Nhà và đất này cha mẹ ông đã được UBND
tnh B, cấp Giấy chứng nhn quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà số D, hồ sơ
gốc số 0145 ngày 19/4/2000.
Khi cha mẹ ông còn sống, ông chưa bao giờ nghe nói đến việc cha mẹ ông
tặng cho nhà và đất này cho chị ông là bà Nguyễn Thị Hồng S. Cho đến khi mẹ
ông mất thì ông mới nghe bà S tuyên bố nhà này cha mẹ ông đã tặng cho bà và
bà S đã được cấp Giấy chứng nhn quyền sử dụng đất vào năm 2021.
Đến khi làm lễ 100 ngày mất của mẹ ông, thì ông mới xem và chụp được
văn bản Hợp đồng tặng cho nhận nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở
(sở hữu tư nhân) có UBND phường P chứng thực ngày 02/8/2002 (Sau đây gọi
tắt là Hợp đồng tặng cho nhà và đất), mà bà S đã giấu nhẹm hơn 20 năm. Lúc
này ông mới phát hiện chữ ký, chữ viết của cha mẹ ông và cả chữ ký, chữ viết
của bà S, viết và ký tại mục bên cho và bên nhn trên hợp đồng tặng cho này
đều là giả mạo, không phải chữ ký, chữ viết của cha mẹ ông và bà S. Địa ch nơi
thường trú của mẹ ông ghi trên hợp đồng tặng cho cũng không đúng vì mẹ ông
thường trú tại phường Đ, chứ không phải phường P. Năm 2002 cha mẹ ông sức
khỏe rất yếu mắt mờ, nghe nhìn kém, nhưng khi cha mẹ ông làm hợp đồng tặng
cho này không có người con nào chứng kiến. Đồng thời chính bà S cũng đã
tuyên bố chữ ký, chữ viết bên nhn tặng cho trong hợp đồng tặng cho cũng
không phải là chữ ký, chữ viết của bà, bà tuyên bố hợp đồng tặng cho này cha
ông đã làm sẵn và đưa cho bà khi bà về P;
Do vy nay ông đề nghị Tòa án giải quyết cụ thể như sau:
[1] Tuyên bố vô hiệu Hợp đồng tặng cho nhận nhà ở và chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ở (sở hữu tư nhân) tại thửa đất số 50, tờ bản đồ số 28, tại số
A, L, khu phố F, phường P, thành phố P, tnh Bình Thun, giữa bên tặng cho là
ông Nguyễn Ngọc H4 và bà Nguyễn Thị L1, bên được tặng cho là bà Nguyễn
Thị Hồng S, được UBND phường P chứng thực ngày 02/8/2002.
[2] Thu hồi Giấy chứng nhn quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở số
DB 499429 do Sở Tài nguyên và Môi trường tnh B cấp ngày 08/7/2021, cho bà
Nguyễn Thị Hồng S, theo hợp đồng tặng cho nêu trên;
[3] Tại đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án ông V yêu cầu: Tước
quyền thừa kế của bà Nguyễn Thị Hồng S đối với toàn bộ tài sản thừa kế của
ông Nguyễn Ngọc H4 và bà Nguyễn Thị L1. Tại phiên tòa ông đề nghị ch tước
4
quyền thừa kế của bà S đối với nhà và đất tại thửa đất số 50, tờ bản đồ số 28, tại
số A, L, khu phố F, phường P, thành phố P, tnh Bình Thun.
Về án phí và chi phí tố tụng: Ông yêu cầu giải quyết theo quy định pháp
lut.
* Quá trnh giải quyết vụ án và tại phiên tòa Bị đơn –Bà Nguyễn Thị
Hồng S trình bày:
Ngày 02/8/2002 cha mẹ bà là ông Nguyễn Ngọc H4 và bà Nguyễn Thị L1
đã làm thủ tục tặng cho bà, nhà và đất tại thửa đất số 50, tờ bản đồ số 28, tại số
A, đường L, phường P, thành phố P, theo Hợp đồng tặng cho nhận nhà ở và
chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở (sở hữu tư nhân) được UBND phường P
chứng thực ngày 02/8/2002.
Cha mẹ bà tự nguyện và tự thực hiện làm văn bản Hợp đồng tặng cho này,
không cho bà biết nên bà không có sự tác động nào để cha mẹ tặng cho tài sản,
khi cha mẹ làm hợp đồng tặng cho này bà đang ở S, chữ ký bên nhn tặng cho
trên hợp đồng này cũng không phải chữ ký, chữ viết của bà, còn chữ ký chữ viết
của ai thì bà không rõ, đến khoảng năm 2002 thì bà được cha bà cho biết về việc
tặng cho này, nhưng bà cũng không từ chối nhn tài sản tặng cho.
Khoảng năm 2008 theo yêu cầu của cha bà, bà đã nộp đơn làm thủ tục
đăng ký chủ sở hữu nhà và đất do nhn tặng cho. Ngày 22/01/2009 bà đã tiến
hành đo đạc ký giáp ranh có xác nhn của UBND phường P, để làm hồ sơ đăng
ký chủ sở hữu do nhn tặng cho, nhưng đến năm 2013 thì Phòng tài nguyên môi
trường thành phố P đã trả hồ sơ cho bà vì thửa đất của bà nằm trong quy hoạch
mở rộng đường L.
Thời điểm cha mẹ bà tặng cho nhà và đất này cho bà thì cha bà rất minh
mẫn, bằng chứng là từ năm 2005 đến 2009 cha bà đã làm di chúc, ủy quyền cho
bà tham gia tố tụng trong các vụ kiện tranh chấp đất thừa kế của gia đình tại M,
đất tại P, huyện H, chủ trì họp gia đình ngày 03/3/2009 để phân chia đất thừa kế
cho anh chị em bà (Các tài liệu này bà S đã nộp cho Tòa có tại hồ sơ ).Việc cha
mẹ bà tặng cho nhà và đất thì 09 anh chị em bà đều biết, nên khi cha mẹ bà còn
sống anh chị em đều không tranh chấp gì về hợp đồng tặng cho này, bằng chứng
là vào ngày 03/03/2009 khi họp gia đình để phân chia di sản thừa kế, thì do cha
mẹ bà đã cho bà nhà và đất này nên tất cả anh chị em đều không có ý kiến gì về
việc đòi chia tài sản là nhà và đất tại số A, L, chứ nếu cha mẹ không cho bà, thì
họ đã yêu cầu chia rồi.
Khoảng năm 2002 bà và ông Nguyễn Thế V có góp vốn mua xe để kinh
doanh dịch vụ vn tải, nhưng sau đó ông V rút vốn góp, bà không có tiền trả cho
ông V, nên cha bà đã đưa hợp đồng tặng cho này cho bà và đã tuyên bố trước tất
cả 09 anh chị em trong nhà là cha mẹ đã cho bà nhà và đất này, để bà làm thủ
5
tục vay tiền ngân hàng trả cho ông V; Tài liệu Hợp đồng bảo lãnh vay vốn của
Ngân hàng C1 ngày 17/12/2002 có ghi rõ nội dung: Giấy tờ bảo lãnh là “Hợp
đồng tặng cho do UBND phường P chứng thực ngày 02/8/2002”. Ông V đã giữ
tài liệu bản chính Hợp đồng bảo lãnh này và đã cung cấp cho Tòa làm thủ tục
đối chứng giám định chữ ký, do vy việc ông V khai ch đến 100 ngày mẹ mất
mới biết về hợp đồng tặng cho này là không đúng sự tht, mà ông V đã biết hợp
đồng tặng cho từ thời điểm xảy ra sự việc cha mẹ bà bảo lãnh bà vay vốn Ngân
hàng C1 từ tháng 12/2002, tính đến nay là đã hơn 20 năm. Do vy bà đề nghị
Tòa án áp dụng thời hiệu khởi kiện, đình ch yêu cầu khởi kiện của ông V.
Trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện, thì bà đề nghị Tòa án
công nhn hợp đồng tặng cho này, bởi lẽ: Cha mẹ tự nguyện cho bà nhà và đất
này bà đã đồng ý nhn và đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tnh B cấp Giấy
chứng nhn quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở số DB 499429 ngày
08/7/2021.
Về việc ông V đòi tước quyền thừa kế của bà là không có căn cứ, đề nghị
Tòa án không chấp nhn, vì bà là người được cha bà ủy quyền tham gia tố tụng
trong suốt quá trình tranh tụng tại tòa án các cấp để giành quyền thừa kế của gia
đình, đối với các thửa đất tại P, thửa đất tại H, công sức bà rất nhiều trong việc
tạo dựng di sản để chia thừa kế.
Về án phí: Bà là người cao tuổi, và xin miễn án phí nên đề nghị xét miễn
án phí theo quy định pháp lut.
Về chi phí tố tụng khác: Đề nghị giải quyết theo quy định pháp lut.
*Quá trnh giải quyết vụ án và tại phiên tòa người có quyền lợi nghĩa
vụ liên quan - Ông Nguyễn Thế H và đại diện theo ủy quyền thống nhất trnh
bày:
Ông là con trai trưởng trong 09 người con thuộc hàng thừa kế thứ nhất của
cha mẹ ông là Nguyễn Ngọc H4 và bà Nguyễn Thị L1.
Ông thường đi làm ăn xa nhưng những lần về thăm cha mẹ, thì ông không
nghe cha mẹ nói về vấn đề đã tặng cho nhà đất tại số A, L, phường P, thành phố
P, cho bà Nguyễn Thị Hồng S. Đến lễ 100 ngày mất của mẹ (Khoảng tháng
7/2022 thì ông mới được nhìn thấy Hợp đồng tặng cho nhà đất do UBND
phường P chứng thực ngày 02/8/2002, thì ông phát hiện chữ ký bên tặng cho của
cha, mẹ ông và chữ ký bên nhn tặng cho của bà S tại hợp đồng là giả mạo, địa
ch nơi thường trú của mẹ ông trên hợp đồng cũng cũng ghi sai. Do vy ông
thống nhất với toàn bộ nội dung yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn - ông
Nguyễn Thế V và đề nghị tòa án xem xét giải quyết tuyên bố hợp đồng tặng cho
nhà và đất nêu trên là vô hiệu.
6
*Quá trnh giải quyết vụ án và tại phiên tòa người có quyền lợi nghĩa
vụ liên quan–Ông Nguyễn Thế D trình bày:
Cha mẹ ông là Nguyễn Ngọc H4 và bà Nguyễn Thị L1 khi cha mẹ còn
sống ông vì hoàn cảnh ở xa nên ít về thăm cha mẹ, nhưng vẫn gửi tiền cho bà
Nguyễn Thị Hồng S để chăm sóc nuôi dưỡng cha mẹ, bà S không có tiền thì góp
công chăm sóc cha mẹ. Ông cũng không biết gì về vấn đề hợp đồng tặng cho
nhà đất tại số A, L, phường P, thành phố P, của cha mẹ ông đối với bà S.
Ngày 27/3/2023 tại đám giỗ đầu của mẹ ông thì ông mới nhìn thấy hợp
đồng tặng chodo UBND phường P chứng thực ngày 02/8/2002, ông cũng nhn
thấy chữ ký bên tặng cho của cha mẹ ông tại hợp đồng là giả mạo, chữ ký của bà
S là bên nhn tặng cho cũng là giả mạo, địa ch nơi thường trú của mẹ ông trên
hợp đồng cũng ghi sai. Do vy ông thống nhất với toàn bộ nội dung yêu cầu
khởi kiện của Nguyên đơn - ông Nguyễn Thế V, đề nghị tòa án xem xét giải
quyết về hình thức, nội dung Hợp đồng tặng cho này theo quy định pháp lut,
nếu đúng chữ ký chữ viết tên trên Hợp đồng tặng cho của cha mẹ ông thì ông
công nhn việc tặng cho này, còn nếu không đúng chữ ký chữ viết của cha mẹ
ông thì đề nghị tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu.
*Quá trnh giải quyết vụ án và tại phiên tòa người có quyền lợi nghĩa
vụ liên quan - Ông Nguyễn Thế L trình bày:
Cha mẹ ông là ông Nguyễn Ngọc H4 và bà Nguyễn Thị L1, lúc cha mẹ
ông còn sống ông cũng không nghe cha mẹ nói về việc đã tặng cho nhà và đất
tại số A, L, phường P thành phố P cho bà Nguyễn thị Hồng S. Ch đến lễ 100
ngày mẹ mất (ngày 26/7/2022)thì ông mới biết và thấy Hợp đồng tặng cho nhà
và đất do UBND phường phú T chứng thực ngày 02/8/2002, chính ông là người
đã mượn bà S hợp đồng tặng cho này để chụp hình và chuyển cho các anh chị
em trong nhà xem.Ông cũng nhn thấy chữ ký bên tặng cho của cha, mẹ ông tại
hợp đồng là giả mạo, chữ ký của bà S là bên nhn tặng cho cũng là giả mạo, địa
ch nơi thường trú của mẹ ông trên hợp đồng cũng cũng ghi sai.
Do vy ông thống nhất với toàn bộ nội dung yêu cầu khởi kiện của
Nguyên đơn ông Nguyễn Thế V, đề nghị tòa án giải quyết về hình thức, nội
dung hợp đồng tặng cho này theo quy định pháp lut, nếu đúng chữ ký chữ viết
tên trên Hợp đồng tặng cho của cha mẹ ông thì ông công nhn việc tặng cho
này, còn nếu không đúng chữ ký chữ viết của cha mẹ ông thì ông đề nghị Tòa án
tuyên bố hợp đồng vô hiệu.
*Quá trnh giải quyết vụ án và tại phiên tòa người có quyền lợi nghĩa
vụ liên quan– Bà NguyễnThị T trình bày:
Cha mẹ bà là ông Nguyễn Ngọc H4 và bà Nguyễn Thị L1. Việc cha, mẹ
bà tặng cho bà Nguyễn Thị Hồng S nhà và đất tại số A, L, phường P thành phố
7
P, theo Hợp đồng tặng cho có chứng thực của UBND phường P ngày 02/8/2002
thì ch vài tháng sau là bà đã biết. Khoảng tháng 12/2002 bà đã nghe cha bà nói
việc tặng cho nhà đất này và bà đã thấy Hợp đồng tặng cho khi cùng bà S đến
Ngân hàng C1 làm thủ tục vay tiền trả cho ông V. Do vy tất cả anh chị em
trong nhà đều biết về hợp đồng tặng cho này từ năm 2002 chứ không phải mới
biết lúc cúng giỗ 100 ngàymẹ mất như họ đã trình bày.
Nay ông Nguyễn Thế V khởi kiện đề nghị tuyên bố Hợp đồng tặng cho vô
hiệu, thì bà không tranh chấp gì về Hợp đồng tặng cho này.
*Quá trnh giải quyết vụ án người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan-Bà
Nguyễn Thị Hồng S3 trình bày:
Khoảng năm 2020 bà có nghe sự việc cha, mẹ bà là ông Nguyễn Ngọc H4
và bà Nguyễn Thị L1 tặng cho chị bà là Nguyễn Thị Hồng S, nhà đất tại số A, L,
phường P, thành phố P, chính bà là người cho bà S mượn tiền để làm thủ tục xin
cấp Giấy chứng nhn quyền sử dụng nhà và đất theo Hợp đồng tặng cho nhà đất
của cha mẹ bà.
Nay bà xác định việc cha mẹ bà tặng cho nhà đất cho bà S là quyền của
cha mẹ bà, bà không phản đối, không tranh chấp gì về Hợp đồng tặng cho nêu
trên.
*Quá trnh giải quyết vụ án người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan -
Ông Nguyễn Thế P trình bày:
Cha mẹ ông là ông Nguyễn Ngọc H4 và bà Nguyễn Thị L1 đã tặng cho
chị ông là Nguyễn Thị Hồng S, nhà đất tại số A, L, phường P, thành phố P. Đây
là quyền của cha mẹ ông, ông không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của
ông Nguyễn Thế V, cũng không tranh chấp gì về Hợp đồng tặng cho nhà đất nêu
trên với bà S.
*Quá trnh giải quyết vụ án người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan- Ông
Nguyễn Thế S2 trình bày:
Cha mẹ ông là ông Nguyễn Ngọc H4 và bà Nguyễn Thị L1 tặng cho chị
ông là Nguyễn Thị Hồng S, nhà đất tại số A, L, phường P, thành phố P, Đây là
quyền của cha mẹ ông, ông không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của
ông Nguyễn Thế V, cũng không tranh chấp gì về Hợp đồng tặng cho nhà đất nêu
trên với bà S.
*Quá trnh tiến hành tố tụng theo yêu cầu của Nguyên đơn, tòa án đã
trưng cầu giám định chữ ký chữ viết bên cho và bên nhn trong hợp đồng
tặng cho kết quả như sau:
- Tại kết lun giám định số 976/KL-KTHS ngày 07/9/2023 của Phòng K
- Công an tnh B đã kết lun:
8
- Không đủ cơ sở kết lun chữ ký tên “Nguyễn Thị Hồng S” trên tài liệu
cần giám định ký hiệu A (Hợp đồng tặng cho) và chữ ký mang tên Nguyễn Thị
Hồng S các tài liệu mẫu so sánh, có phải do cùng một người ký ra hay không.
- Chữ viết tên “Nguyễn Thị Hồng S” trên tài liệu A (hợp đồng tặng cho)
và chữ viết mang tên Nguyễn Thị Hồng S các tài liệu mẫu so sánh không phải
do cùng một người viết ra.
- Không đủ cơ sở kết lun chữ ký mang tên Nguyễn Ngọc H4 trên tài liệu
A so với chữ ký mang tên Nguyễn Ngọc H4 trên các tài liệu mẫu so sánh có phải
do cùng một người ký ra hay không.
- Chữ viết có nội dung “Nguyễn Ngọc H4, Nguyễn Thị L1” dưới mục
BÊN CHO NHÀ KÝ TÊN, trên tài liệu A và chữ viết có nội dung “Nguyễn
Ngọc H4” trên tài liệu mẫu so sánh có nội dung Nguyễn Ngọc H4 là do cùng
một người viết ra.
- Không đủ cơ sở kết lun chữ ký mang tên Nguyễn Thị L1 trên tài liệu
cần giám định A so với chữ ký mang tên Nguyễn Thị L1 trên các tài liệu mẫu so
sánh có phải do cùng một người ký ra hay không.
- Tại kết lun giám định số 3886/KL-KTHS ngày 30/8/2024 của Phòng
K - Bộ C2 đã kết lun:
- Chữ ký đứng tên Nguyễn Ngọc H4 trên tài liệu cần giám định ký hiệu A
so với chữ ký mang tên Nguyễn Ngọc H4 trên các tài liệu mẫu so sánh là do
cùng một người ký, viết ra.
- Không đủ cơ sở kết lun chữ viết đứng tên Nguyễn Ngọc H4 trên tài liệu
A, so với chữ viết đứng tên Nguyễn Ngọc H4 trên các tài liệu mẫu so sánh, là
phải hay không phải do cùng một người viết ra.
- Không đủ cơ sở kết lun chữ ký, chữ viết đứng tên Nguyễn Thị L1 trên
tài liệu cần giám định ký hiệu A so với chữ ký, chữ viết mang tên Nguyễn Thị
L1 trên các tài liệu mẫu so sánh, là phải hay không phải do cùng một người ký,
viết ra.
- Chữ ký, chữ viết đứng tên “Nguyễn Thị Hồng S” trên tài liệu cần giám
định ký hiệu A (hợp đồng tặng cho) và chữ ký, chữ viết mang tên Nguyễn Thị
Hồng S trên các tài liệu mẫu so sánh, là không phải do cùng một người ký, viết
ra.
* Tại biên bản trả lời xác minh của Tòa án lp ngày 29/03/2024, UBND
phường P, thành phố P, đã có ý kiến, cụ thể như sau:
- Về vấn đề chứng thực việc tặng cho nhà và đất tại số A, L, phường P
thành phố P,theo Hợp đồng tặng cho có chứng thực của UBND phường P ngày
02/8/2002, thì hiện nay UBND phường P không còn lưu trữ hồ sơ chứng thực
9
Hợp đồng tặng cho nêu trên, do nhiều lần di dời trụ sở, trụ sở bị ngp tài liệu hồ
sơ lưu trữ bị hư hỏng đã xin phép tiêu hủy.
- Việc chứng thực Hợp đồng tặng cho nêu trên, do chủ tịch UBND
phường P thời điểm đó là ông Nguyễn Văn C chứng thực, là đúng thẩm quyền
và trình tự thủ tục.
- Về vấn đề khi chứng thực thì bên tặng cho và bên nhn tặng cho có ký
kết trước mặt người chứng thực hay không thì UBND phường P không có thông
tin để cung cấp cho tòa án.
- Về vấn đề nguyên đơn – ông Nguyễn Thế V yêu cầu tuyên bố vô hiệu
Hợp đồng tặng cho nêu trên, thì đề nghị Tòa án căn cứ vào kết quả giám định
chữ ký chữ viết và các tài liệu chứng cứ thu thp được, để giải quyết vụ án theo
quy định pháp lut UBND phường P không có yêu cầu ý kiến gì.
*Quan điểm của lut sư bảo vệ quyền và lợi ích cho nguyên đơn:
- Hợp đồng tặng cho có chứng thực của UBND phường P ngày 02/8/2002
nhưng bên nhn tặng cho là bà Nguyễn Thị Hồng S đã không ký nhn tặng cho
và không có mặt khi chứng thực Hợp đồng tặng cho; Bên tặng cho là bà Nguyễn
Thị L1 cũng không có mặt khi ký kết hợp đồng tặng cho; Nội dung lời ghi
chứng thực của UBND phường P trên hợp đồng tặng cho cũng không ghi đầy
đủ theo quy định tại Điều 43 Nghị định 75/2000 của Chính phủ; Mặt khác thời
điểm ký kết hợp đồng tặng cho nêu trên ông H4, bà L1 đã trên 80 tuổi có nhiều
bệnh tt không minh mẫn. Do vy việc UBND phường P chứng thực hợp đồng
tặng cho là không đúng trình tự thủ tục quy định pháp lut, do vy ngay tại thời
điểm ký kết chứng thực đã không đảm bảo các điều kiện có hiệu lực pháp lut
của giao dịch dân sự quy định tại điều 131 Bộ lut dân sự năm 1995, nên đã vô
hiệu ngay từ thời điểm ký kết, theo quy định tại điều 136 Bộ lut Dân sự năm
1995.
- Thực tế mục đích ông Nguyễn Ngọc H4 và bà Nguyễn Thị L1 soạn thảo
Hợp đồng tặng cho nhà và đất này cho bà S, là để nhằm vay vốn ngân hàng theo
Hợp đồng bảo lãnh ngày 08/12/2002; Tài liệu cho thấy sau thời điểm tặng cho
ông H4 và bà L1 vẫn quản lý sử dụng nhà và đất, và ký hợp đồng cho ông V
thuê nhà vào tháng 03/2007. Ông H4, bà L1 cũng không có biên bản giao nhn
nhà cho bà S, thời điểm sau khi tặng cho nhà cho bà S thì ông H4, bà S3, ông V,
ông L vẫn là nộp thuế sử dụng đất.
Do vy đủ căn cứ để xác định không có sự việc cho nhà đất, hợp đồng
tặng cho này ch là giả tạo, do vy đề nghị tuyên bố vô hiệu, và đề nghị Tòa án
kiến nghị cơ quan chức năng thu hồi Giấy chứng nhn quyền sử dụng đất đã cấp
cho bà S đối với nhà đất nhn tặng cho.

10
- Về vấn đề tước quyền thừa kế thì đề nghị Hội đồng xét xử xem xét: Nếu
bà S có hành vi ngược đãi cha mẹ thì đề nghị chấp nhn yêu cầu Nguyên đơn
tước quyền thừa kế của bà S đối với nhà đất nêu trên, còn nếu không có căn cứ
bà S ngược đãi cha, mẹ thì tùy hội đồng xem xét.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 148/2024/DS-ST ngày 27 tháng 9 năm
2024, Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết, tnh Bình Thun đã quyết định:
1/Căn cứ vào các quy định tại khoản 03 Điều 26, điểm a khoản 01 Điều
35 và điểm c khoản 01 Điều 39, khoản 01 điều 147, khoản 01 Điều 161Bộ lut
tố tụng Dân sự năm 2015, Điều 30 Lut đất đai năm 1993 sửa đổi năm 1998 và
năm 2001, Điều 131, Điều 461, Điều 463 Bộ lut Dân sự năm 1995, điểm c
khoản 01 Điều 100, khoản 02 Điều 102 Lut đất đai năm 2013, điểm d khoản 01
Điều 688, Điều 429, khoản 01 Điều 154, Điều 461 Bộ lut dân sự năm 2015;
khoản 01, khoản 02 Điều 26, điểm b mục 1.3 khoản 01 phần II Danh mục
ANghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ
Quốc hội; Lut thi hành án dân sự.
2/Tuyên xử:
[1] Không chấp nhn ý kiến Bị đơn- Bà Nguyễn Thị Hồng S về việc áp
dụng thời hiệu đối với yêu cầu khởi kiện về tranh chấp Hợp đồng tặng cho nhận
nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở (sở hữu tư nhân)được UBND
phường P chứng thực ngày 02/8/2002, đối với nhà và đất tại thửa đất số 50, tờ
bản đồ số 28, tại số A, đường L, phường P, thành phố P, tnh Bình Thun.
[2] Không chấp nhn yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn - Ông Nguyễn
Thế V về việc tuyên bố vô hiệu Hợp đồng tặng cho nhận nhà ở và chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ở (sở hữu tư nhân) được UBND phường P chứng
thực ngày 02/8/2002, đối với việc tặng cho nhà và đất tại thửa đất số 50, tờ bản
đồ số 28, tại khu phố F phường P, (số A, đường L) thành phố P, tnh Bình
Thun, giữa bên tặng cho là ông Nguyễn Ngọc H4 và bà Nguyễn Thị L1, bên
nhn tặng cho là bà Nguyễn Thị Hồng S; Công nhn Hợp đồng tặng cho nhận
nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở (sở hữu tư nhân) được UBND
phường P chứng thực ngày 02/8/2002, là có hiệu lực pháp lut.
[3] Không chấp nhn yêu cầu của Nguyên đơn - Ông Nguyễn Thế V về
việc: Kiến nghị cơ quan chức năng thu hồi Giấy chứng nhn quyền sử dụng đất
quyền sở hữu nhà ở số DB 499429 ngày 08/7/2021 do Sở Tài nguyên và Môi
trường tnh B cấp cho bà Nguyễn Thị Hồng S, đối với nhà đất tại thửa đất số 50
tờ bản đồ số 28, tại khu phố F, phường P, thành phố P, tnh Bình Thun.
Bà Nguyễn Thị Hồng S được thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người
sử dụng đất, theo các quy định của pháp lut về đất đai, đối với nhà và đất tại địa
11
ch nêu trên, theo Giấy chứng nhnquyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở số DB
499429 do Sở Tài nguyên và Môi trường tnh B cấpngày 08/7/2021.
[3] Không chấp nhn yêu cầu của Nguyên đơn - Ông Nguyễn Thế V về
việc tước quyền thừa kế của bà Nguyễn Thị Hồng S đối với nhà và đất tại thửa
đất số 50, tờ bản đồ số 28, tại khu phố F phường P, (số A, đường L) thành phố
P.
[4] Về chi phí tố tụng: Nguyên đơn phải chịu chi phí giám định chữ ký
chữ viết là 9.060.000đ, chi phí này Nguyên đơn đã tạm ứng và chi hết cho quá
trình giám định. Hoàn trả lại cho ông Nguyễn Thế V 940.000đ chi phí tạm ứng
cho việc giám định.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo, quyền và
nghĩa vụ thi hành án của các đương sự.
Ngày 07/10/2024, ông Nguyễn Thế L kháng cáo toàn bộ bản án, cho rằng
quyền lợi bị xâm phạm nghiêm trọng, đề nghị xem xét lại bản án.
Ngày 10/10/2024, ông Nguyễn Thế V kháng cáo yêu cầu sửa bản án sơ
thẩm theo hướng chấp nhn toàn bộ khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Ông Nguyễn Thế L giữ yêu cầu kháng cáo, ông Nguyễn Thế V rút một
phần yêu cầu khởi kiện về việc đề nghị tước quyền thừa kế của bà S, các phần
khác ông giữ nguyên ý kiến.
- Bị đơn đề nghị không chấp nhn yêu cầu kháng cáo.
- Kiểm sát viên phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Thư ký,
Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định của Bộ lut Tố tụng dân
sự; người tham gia tố tụng chấp hành pháp lut. Về nội dung:
Đề nghị HĐXX căn cứ điểm b khoản 1 Điều 299, khoản 2 khoản 4
Điều 308, khoản 1 Điều 309, Điều 311 BLTTDS tuyên:
- Chấp nhn một phần kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Thế V và người
liên quan ông Nguyễn Thế L;
- Hủy và đình ch một phần bản án sơ thẩm đối với yêu cầu được ông
Nguyễn Thế V rút tại phiên tòa;
- Sửa Bản án sơ thẩm số 148/2024/DS-ST ngày 27/9/2024 của TAND
thành phố Phan Thiết, theo hướng:
+ Tuyên bố Hợp đồng tặng cho nhn nhà ở và chuyển nhượng quyền sử
dụng đất ở (sở hữu tư nhân) ngày 02/8/2002, đối với việc tặng cho nhà và đất tại
thửa đất số 50, tờ bản đồ số 28, tại khu phố F phường P, (số A đường L) thành
phố P, tnh Bình Thun, giữa bên tặng cho là ông Nguyễn Ngọc H4 và bà
12
Nguyễn Thị L1, bên nhn tặng cho là bà Nguyễn Thị Hồng S là hợp đồng vô
hiệu;
+ Sở Tài nguyên và Môi trường căn cứ vào bản án, quyết định của Tòa án
để giải quyết điều chnh biến động hoặc cấp lại giấy chứng nhn quyền sử dụng
đất phù hợp với kết quả giải quyết của Tòa án.
- Ông Nguyễn Thế V và ông Nguyễn Thế L không phải chịu án phí phúc
thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 148 BLTTDS năm 2015.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra
tại phiên tòa phúc thẩm; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu, chứng
cứ, ý kiến trình bày tại phiên tòa của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên,
Hội đồng xét xử nhn thấy:
[1] Quá trình giải quyết vụ án, ông Nguyễn Thế P, ông Nguyễn Thế S2 và
UBND phường P, thành phố P có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Tại phiên tòa
phúc thẩm, các đương sự có mặt đề nghị xét xử mà không cần sự có mặt của các
đương sự trên. Do đó Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.
Về thời hiệu khởi kiện: Ông Nguyễn Thế V và một số người con của
ông Nguyễn Ngọc H4 và bà Nguyễn Thị L1 biết được Hợp đồng tặng cho là
vào tháng 07/2022 và ông V cho rằng chữ ký trên hợp đồng tặng cho không
giống với chữ ký của cha mẹ mình nên ngày 18/5/2023 ông Nguyễn Thế V
khởi kiện tại Tòa án. Bà Nguyễn Thị Hồng S cho rằng tất cả các thành viên
trong gia đình đều biết việc cha mẹ cho bà S nhà và đất nhưng không cung
cấp được chứng cứ để chứng minh cho lời trình bày này. Do vy, Tòa án sơ
thẩm xác định thời hiệu khởi kiện vẫn còn trong thời hiệu khởi kiện là phù
hợp quy định tại khoản 1 Điều 154, Điều 429 BLDS 2015.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện về
việc tước quyền thừa kế của bà Nguyễn Thị Hồng S đối với nhà và đất tại thửa
đất số 50, tờ bản đồ số 28, tại khu phố F phường P, (số A, đường L) thành phố
P. Do đó Hội đồng xét xử hủy và đình ch một phần bản án sơ thẩm đối với yêu
cầu được ông Nguyễn Thế V rút tại phiên tòa.
[2] Xét yêu cầu kháng cáo của các đương sự:
[2.1] Về kháng cáo yêu cầu tuyên vô hiệu đối với hợp đồng tặng cho nhn
nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở (sở hữu tư nhân) ngày 02/8/2002,
đối với việc tặng cho nhà và đất tại thửa đất số 50, tờ bản đồ số 28, tại khu phố F
phường P, (số A đường L) thành phố P, tnh Bình Thun, giữa bên tặng cho là
ông Nguyễn Ngọc H4 và bà Nguyễn Thị L1, bên nhn tặng cho là bà Nguyễn
Thị Hồng S. Hội đồng xét xử nhn thấy:
Trong quá trình giải quyết vụ án bà S thừa nhn bà không ký vào hợp
13
đồng tặng cho ngày 02/8/2002, việc cha mẹ bà là ông Nguyễn Ngọc H4 và bà
Nguyễn Thị L1 tặng cho bà Nguyễn Thị Hồng S quyền sử dụng nhà và đất tại
số A L bà không được biết. Đồng thời, bà S cũng không đến UBND phường
P để ký vào hợp đồng tặng cho trước mặt người chứng thực chữ ký.
Theo kết lun giám định số 976/KL-KTHS ngày 07/9/2023 của Phòng
K - CA tnh B và Kết lun giám định số 3886/KL-KTHS ngày 30/8/2024 của
Phân viện KHHS tại Thành phố Hồ Chí Minh – Bộ C2. Thì chữ ký và chữ
viết mang tên Nguyễn Ngọc H4 có các kết lun khác nhau. Nhưng đối vối
phần chữ ký và chữ viết đứng tên Nguyễn Thị L1 so với mẫu giám định thì
đều kết lun là không đủ cơ sở để kết lun có phải do cùng một người ký,
viết ra hay không.
Như vy, Tòa án sơ thẩm nhn định căn cứ vào kết lun giám định để
đánh giá không có căn cứ cho rằng chữ ký của bà L1 là giả và công nhn hợp
đồng tặng cho nhà và đất ngày 02/8/2002 có hiệu lực là chưa phù hợp với kết
quả giám định. Trường hợp này phải đánh giá là không có căn cứ để xác định
đó là chữ ký, chữ viết của bà L1, và đánh giá thêm các chứng cứ khác để giải
quyết vụ án.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các đương sự trình ra 02 sổ hộ khẩu và đều
thừa nhn khoảng thời gian trước năm 2002 đến năm 2011, bà L1 ở tại
phường Đ, thành phố P chứ không ở phường P, ch khi ông H4 qua đời thì bà
L1 mới về phường P để ở. Nhưng hợp đồng ngày 02/8/2002 ghi bà L1
thường trú ở phường P.
Tại Điều 6 của Hợp đồng cho nhn nhà ở và chuyển nhượng QSDĐO
ngày 02/8/2002 nêu: "Hai bên đã đọc kỹ lại bản hợp đồng này và cùng ký tên
dưới đây...". Hợp đồng này được UBND Phường P chứng thực ngày 02/8/2002.
Căn cứ vào lời khai của bà S và kết lun giám định chữ ký, chữ viết, bà
L1 không ở phường P, có cơ sở xác định bà L1, bà S không ký vào bản hợp
đồng trước mặt người thực hiện công chứng nhưng Chủ tịch UBND phường
P vẫn ký chứng thực là vi phạm về mặt hình thức, theo quy định tại Khoản
01 Điều 11 Nghị định 75/2000 ngày 08/12/2000 của chính phủ về công
chứng chứng thực quy định: "Việc ký, điểm chỉ của người yêu cầu công
chứng, chứng thực phải được thực hiện trước mặt người thực hiện công
chứng, chứng thực, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác".
Mặt khác, Bộ lut Dân sự năm 1995 quy định:
“Điều 394. Hợp đồng dân sự là sự thoả thun giữa các bên về việc xác
lp, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.
Điều 461. Hợp đồng tặng cho tài sản
14
Hợp đồng tặng cho là sự thoả thun giữa các bên, theo đó bên tặng cho
giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không
yêu cầu đền bù, còn bên được tặng cho đồng ý nhn.
Điều 463. Tặng cho bất động sản
1- Tặng cho bất động sản phải được lp thành văn bản có chứng nhn của
Công chứng nhà nước hoặc có chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm
quyền và phải đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nếu theo quy định
của pháp lut bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu.
2- Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký;”
Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường P ký chứng thực vào Hợp đồng
không có các bên tham gia giao dịch ký trực tiếp là không đủ điều kiện có
hiệu lực quy định khoản 3, khoản 4 Điều 131 BLDS năm 1995: “Giao dịch
dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây: Người tham gia giao dịch
hoàn toàn tự nguyện; hình thức giao dịch phù hợp với quy định của pháp
luật”.
Như vy, hợp đồng tặng cho nhn nhà ở được Chủ tịch UBND phường
P chứng thực ngày 02/8/2002 bị vô hiệu theo quy định tại Điều 133 BLDS
năm 1995 “Trong trường hợp pháp luật có quy định giao dịch dân sự phải
được thể hiện bằng văn bản, phải được công chứng nhà nước chứng nhận,
được chứng thực… thì phải tuân theo quy định đó”.
Ngoài ra, tài liệu trong hồ sơ còn thể hiện: Sau khi lp Hợp đồng cho nhn
nhà đất cho bà Nguyễn Thị Hồng S ngày 02/8/2002 thì ông H4, bà L1 vẫn thực
hiện quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với nhà đất số A H (nay là Lê
D1), phường P, Tp . bằng việc ông Nguyễn Ngọc H4, bà Nguyễn Thị L1 ký Hợp
đồng bảo lãnh bằng tài sản để vay vốn tại Ngân hàng C1 - Chi nhánh B có
chứng nhn của Phòng công chứng số 1 tnh Bình Thun ngày 18/12/2002. Tài
sản thế chấp là nhà đất tại số A H nêu trên.
Ngày 09/3/2007, ông Nguyễn Ngọc H4, bà Nguyễn Thị L1 tiếp tục thực
hiện quyền của người chủ sở hữu nhà, quyền của người sử dụng đất là ký Hợp
đồng thuê nhà với ông Nguyễn Thế V để cho ông Nguyễn Thế V thuê căn nhà
số A H, phường P, Tp ., tnh Bình Thun làm trụ sở Công ty. Hợp đồng thuê nhà
này có chứng nhn của Phòng C3 tnh Bình Thun ngày 09/03/2007.
Về thực hiện nghĩa vụ nộp thuế nhà đất hàng năm đối với nhà đất số A H
(nay là Lê D1) sau thời điểm tặng cho là do những người sinh sống trong gia
đình nộp, cụ thể do ông Nguyễn Ngọc H4, ông Nguyễn Thế S2, ông Nguyễn
Thế L, bà Nguyễn Thị Hồng S3 nộp (có các biên lai thu thuế).
Lời khai của nguyên đơn và một số người con trong gia đình thể hiện ông
H4, bà L1 có nguyện vọng để căn nhà nêu trên làm nhà từ đường để thờ cúng
15
ông bà tố tiên của dòng họ nên không có việc tặng cho nhà đất nêu trên cho bà
S. Thực tế tới thời điểm hiện nay, các đương sự xác định căn nhà trên vẫn là nơi
thờ tự ông H4 và bà L1.
Lời trình bày của bà S về thời điểm biết hợp đồng tặng cho có nhiều mẫu
thuẩn, lúc thì khai biết khi ký hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, lúc thì khai
mãi sau này khi ông H4 đưa hợp đồng cho thì mới biết. Nhiều năm sau khi có
hợp đồng tặng cho, bà S mới thực hiện thủ tục đăng ký và được cấp Giấy chứng
nhn quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở số DB 499429 ngày 08/7/2021.
Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ trên, không đủ căn cứ để xác định về nội
dung ông H4 và bà L1 tự nguyện tặng cho nhà đất cho và S.
Như vy, Hợp đồng cho nhn nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng
đất ngày 02/8/2002 không đảm bảo có hiệu lực cả về nội dung và hình thức.
Các bên tham gia giao dịch không có mặt để ký kết hợp đồng, chữ ký, chữ
viết ghi họ tên của bà S trên hợp đồng không phải của bà S mà của một người
nào đó không rõ, không có chứng cứ chứng minh chữ ký, chữ viết ghi họ tên
bà L1 trên hợp đồng là của bà L1, không thể hiện được ý chí của ông H4, bà
L1 tự nguyện tặng cho nhà đất số A H (nay là Lê D1), phường P, Tp . cho bà
S nhưng UBND phường P vẫn chứng thực hợp đồng là trái quy định pháp
lut. Hợp đồng trên không đáp ứng điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân
sự nên vô hiệu theo quy định tại Điều 136 BLDS 1995.
[2.2] Về kháng cáo đề nghị chấp nhn khởi kiện về yêu cầu kiến nghị cơ
quan chức năng thu hồi Giấy chứng nhn quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở
số DB 499429 ngày 08/7/2021 do Sở Tài nguyên và Môi trường tnh B cấp cho
bà Nguyễn Thị Hồng S, đối với nhà đất tại thửa đất số 50 tờ bản đồ số 28, tại
khu phố F, phường P, thành phố P, tnh Bình Thun.
Căn cứ hướng dẫn tại Công văn hướng dẫn số 64/ TANDTC-PC ngày
03/4/2019 của TANDTC thì khi giải quyết tranh chấp về hợp đồng chuyển
quyền sử dụng đất mà hợp đồng đó bị vô hiệu, nhưng người nhn chuyển quyền
đã được cấp giấy chứng nhn quyền sử dụng đất hoặc đã được xác nhn nội
dung biến động thì không đưa cơ quan có thẩm quyền trong việc cấp giấy tham
gia tố tụng và không cần phải tuyên hủy giấy chứng nhn cấp cho người nhn
chuyển nhượng. Khi Tòa án tuyên hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất vô hiệu
thì Văn phòng đăng ký đất đai, cơ quan Tài nguyên và Môi trường căn cứ vào
bản án, quyết định của Tòa án để giải quyết điều chnh biến động, hoặc cấp lại
giấy chứng nhn quyền sử dụng đất phù hợp với kết quả giải quyết của Tòa án.
Do đó, không cần thiết phải hủy Giấy chứng nhn quyền sử dụng đất
quyền sở hữu nhà ở số DB 499429 ngày 08/7/2021 cho bà Nguyễn Thị Hồng S.
Cơ quan có thẩm quyền về đăng ký đất đai sẽ căn cứ bản án của Tòa án để thu
hồi giấy chứng nhn của bà S. Quyền lợi của các đương sự đối với tài sản trên sẽ
16
được giải quyết bằng một vụ án khác nếu có yêu cầu.
[3] Về chi phí tố tụng: Về chi phí giám định chử ký, chử viết, do khởi kiện
của nguyên đơn được chấp nhn, nên bị đơn phải chịu chi phí giám định.
[4] Về án phí:
Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn không phải chịu án phí sơ thẩm, bị
đơn được miễn án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp lut.
Về án phí phúc thẩm: Kháng cáo được chấp nhn, sửa án sơ thẩm, nên các
đương sự có kháng cáo không phải chịu án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điểm b khoản 1 Điều 299, khoản 2 khoản 4 Điều 308, khoản 1
Điều 309, Điều 311 Bộ lut Tố tụng dân sự; Chấp nhn một phần kháng cáo của
bị đơn ông Nguyễn Thế V và người liên quan ông Nguyễn Thế L;
1. Hủy và đình ch đối với phần khởi kiện của ông Nguyễn Thế V về
việc: Tước quyền thừa kế của bà Nguyễn Thị Hồng S đối với nhà và đất tại thửa
đất số 50, tờ bản đồ số 28, tại khu phố F phường P, (số A, đường L) thành phố
P, tnh Bình Thun.
2. Sửa Bản án sơ thẩm số 148/2024/DS-ST ngày 27 tháng 9 năm 2024 của
Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết, tnh Bình Thun.
Căn cứ Điều 131, Điều 133, Điều 136, Điều 394, Điều 461, Điều 463 Bộ
lut Dân sự năm 1995.
Khoản 1, khoản 2 Điều 26; Điều 12, khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án
phí, lệ phí Tòa án;
Tuyên bố Hợp đồng tặng cho nhn nhà ở và chuyển nhượng quyền sử
dụng đất ở (sở hữu tư nhân) ngày 02/8/2002, đối với việc tặng cho nhà và đất tại
thửa đất số 50, tờ bản đồ số 28, tại khu phố F phường P, (số A đường L) thành
phố P, tnh Bình Thun, giữa bên tặng cho là ông Nguyễn Ngọc H4 và bà
Nguyễn Thị L1, bên nhn tặng cho là bà Nguyễn Thị Hồng S là hợp đồng vô
hiệu; Bà Nguyễn Thị Hồng S có trách nhiệm nộp lại Giấy chứng nhn quyền sử
dụng đất quyền sở hữu nhà ở số DB 499429 ngày 08/7/2021 do Sở Tài nguyên
và Môi trường tnh B cấp, khi có yêu cầu, để Cơ quan có thẩm quyền thu hồi,
cấp lại giấy chứng nhn quyền sử dụng đất phù hợp với kết quả giải quyết của
bản án.
Về án phí và các chi phí tố tụng khác:
- Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn Thế V không phải chịu án phí
dân sự sơ thẩm. H5 lại cho ông V số tiền 300.000đ theo biên lai tạm ứng án phí
17
số 0009540 ngày 30/3/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phan
Thiết, tnh Bình Thun. Bà Nguyễn Thị Hồng S được miễn án phí dân sự sơ
thẩm.
- Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Nguyễn Thế V và ông Nguyễn Thế L
không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. H5 lại cho ông V và ông L mỗi người
300.000đ theo biên lai tạm ứng án phí số 0002198 ngày 18/10/2024 và 0002199
ngày 18/10/2024 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phan Thiết, tnh Bình
Thun.
Về chi phí giám định: Bị đơn phải chịu chi phí giám định chữ ký chữ viết
là 9.060.000đ, chi phí này Nguyên đơn đã tạm ứng và chi hết cho quá trình giám
định. Bà Nguyễn Thị Hồng S phải hoàn trả lại cho ông Nguyễn Thế V số tiền
9.060.000đ.
Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp lut (đối với các trường
hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể
từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các
khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong,
bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án
theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ lut dân sự năm 2015, trừ
trường hợp pháp lut có quy định khác.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Lut Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án Dân sự có quyền thỏa thun thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự
nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7
và 9 Lut Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy
định tại điều 30 Lut thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp lut kể từ ngày tuyên án (29/4/2025).
Nơi nhn:
- VKSND tnh B.Thun;
- TAND tp Phan Thiết;
- Chi cục THADS tp Phan Thiết;
- Các đương sự;
- Lưu: hồ sơ, Tổ HCTP
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phạm Thái Bình
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 11/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Bản án số 36/2025/DS-PT ngày 31/07/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản
Ban hành: 31/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 17/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 16/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 15/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 27/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 26/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 25/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 20/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 28/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 26/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 26/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 20/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 20/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 16/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm