Bản án số 345/2025/DS-PT ngày 25/06/2025 của TAND tỉnh Tây Ninh về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 345/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 345/2025/DS-PT ngày 25/06/2025 của TAND tỉnh Tây Ninh về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Tây Ninh
Số hiệu: 345/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 25/06/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Phạm Thúy Kiều tranh chấp hợp đồng uỷ quyền, hợp đồng tặng cho, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, bồi thường thiệt hại Trần Hoàng Phúc. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn bà Phạm Thuý Kiều. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Trần Hoàng Vũ. Chỉnh sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 125/2024/DS-ST ngày 18/11/2024 của Tòa án nhân dân huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An về cách tuyên án.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LONG AN
——————
Bản án số: 345/2025/DS-PT
Ngày 25-6-2025
V/v tranh chấp hợp đồng uỷ quyền,
hợp đồng tặng cho, hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất,
bồi thường thiệt hại
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
———————————————————
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Lê Thị Kim Nga
Các Thẩm phán: Bà Trịnh Thị Phúc
Bà Huỳnh Thị Hồng Vân
- Thư phiên tòa: Trương Thị Tuyến Thư Tòa án nhân dân tỉnh Long
An.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tham gia phiên tòa: Ông
Huỳnh Phạm Khánh – Kiểm sát viên.
Trong các ngày 20 và 25 tháng 6 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Long
An xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số 135/2025/TLPT-DS ngày 23 tháng 4
năm 2025 về việc “tranh chấp hợp đồng uỷ quyền, hợp đồng tặng cho, hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, bồi thường thiệt hại”
Do Bản án dân sự thẩm số 125/2024/DS-ST ngày 18 tháng 11 năm 2024 của
Tòa án nhân dân huyện Thủ Thừa bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xphúc thẩm số 162/2025/QĐ-PT ngày 16
tháng 5 năm 2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Phạm Thúy K, sinh năm 1958. Địa chỉ: Ấp C, xã M, huyện T,
tỉnh Long An.
- Bị đơn: ông Trần Hoàng P (Trần Hoàng V), sinh năm 1983;
Địa chỉ: số A P, Phường A, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Nguyễn Thị Quỳnh H, sinh năm 1980;
địa chỉ: Số A, đường T, Phường A, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh.
(Theo Văn bản ủy quyền ngày 16/11/2020)
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Trần Hoàng V1, sinh năm 1958. Địa chỉ: số A P, Phường A, Quận E,
Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Ông Văn Đ, sinh năm 1966;
2
3. Ông Hữu Q, sinh năm 1995;
4. Bà Lê Thị Thu T, sinh năm 2000;
Cùng địa chỉ: Ấp D, xã M, huyện T, tỉnh Long An.
5. Lê Ngọc Minh C, sinh năm 2008;
Người đại diện hợp pháp theo pháp luật của Ngọc Minh C: ông n Đ,
sinh năm 1966; địa chỉ: Ấp D, xã M, huyện T, tỉnh Long An.
6. Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L (được chuyển đổi thành Sở N).
Địa chỉ: K - Khu T tỉnh Long An, số D Đường S, Phường F, thành phố T, tỉnh
Long An
Người đại diện hợp pháp: ông Võ Minh T1, Giám đốc.
7. Văn phòng C1.
Người đại diện theo pháp luật: ông Nguyễn Xuân Q1 - Trưởng Văn phòng. Địa
chỉ: khu phố C, thị trấn T, huyện T, tỉnh Long An.
- Người kháng cáo:
1. Nguyên đơn bà Phạm Thúy K.
2. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Trần Hoàng V1.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trong đơn khởi kiện ngày 27/7/2020 các văn bản trong quá trình tố tụng tại
Toà án cấp sơ thẩm, nguyên đơn bà Phạm Thúy K trình bày:
Vào ngày 05/02/2018 Phạm Thúy K làm biên nhận tên vay của ông
Trần Hoàng P số tiền 1.000.000.000đồng, lãi suất hai bên thỏa thuận 5%/tháng.
Thực tế, Phạm Thúy K chỉ nhận số tiền 700.000.000 đồng, còn 300.000.000 đồng
Hoàng Thị Tố N nhận. Cùng ngày, Phạm Thúy K và ông Trần Hoàng P ra Văn
phòng C1 làm Hợp đồng ủy quyền cho ông Trần Hoàng P thời hạn 10 năm về quyền
sử dụng đất thuộc thửa 1475 diện tích 3.168m
2
do đứng tên tại Ấp B M, huyện
T, tỉnh Long An mục đích để đảm bảo cho số tiền vay 1.000.000.000đồng. Đây
tài sản riêng của Phạm Thúy K. Phạm Thúy K không nhớ vào thời gian nào
mang trả cho ông Trần Hoàng P số tiền 182.000.000 đồng tiền lãi. Nhưng hai bên
không lập giấy tờ về việc trả lãi. Ông Trần Hoàng P yêu cầu Phạm Thúy K trả
tiền nhiều lần nhưng bà Phạm Thúy K không khả năng trả nên ngày 12/11/2018 bà
Phạm Thúy K viết giấy cam kết giao thửa 1475 cho ông Trần Hoàng P. Thực tế,
Phạm Thúy K chưa giao thửa đất cho ông Trần Hoàng P vẫn đang quản sử
dụng. Theo Bản án số 362/2015/DSPT ngày 04/12/2015, thì bà Phạm Thúy K có nợ
T2 số tiền 565.650.000 nên thửa đất số 1475 bChi cục Thi hành án dân sự huyện
T kê biên để bảo đảm thi hành án. Ông Trần Hoàng P có trả thay cho bà Phạm Thúy K
số tiền 300.000.000 đồng. Sự việc Phạm Thúy K chỉ nhận 700.000.000 đồng,
Hoàng Thị Tố N nhận 300.000.000 đồng, Phạm Thúy K trả lãi được
182.000.000 đồng không có giấy tờ gì chứng minh, N lại bỏ trốn, bà Phạm Thúy K
không tìm được Hoàng Thị Tố N nên không thể cung cấp thông tin của N cho
3
Tòa án được. Tại Tòa án, Phạm Thúy K thừa nhận nợ ông Trần Hoàng P số
tiền vốn 1.300.000.000 đồng
Phạm Thúy K khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:
+ hiệu hợp đồng ủy quyền số công chứng 859 quyển số 01/2018/TP/CC-
SCC/HĐGD đã được Văn phòng C1 chứng nhận ngày 05/02/2018 giữa bà Phạm Thúy
K với ông Trần Hoàng P đối với thửa đất 1475 tờ bản đồ 02, tọa lạc tại xã M, huyện
T, tỉnh Long An.
+ hiệu hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất số công chứng 3868 quyển số
01/2020/TP/CC-SCC/HĐGD đã được Văn phòng C1 chứng nhận ngày 03/7/2020
giữa bà Phạm Thúy K, ông Trần Hoàng P với ông Trần Hoàng V1 đối với thửa đất
1475, tờ bản đồ 02, tọa lạc tại xã M huyện T, tỉnh Long An.
Phạm Thúy K đồng ý trả cho ông Trần Hoàng P số tiền 1.300.000.000đồng
vốn và 200.000.000đồng tiền lãi bồi thường.
Phạm Thúy K đồng ý Tòa án công nhận khu B diện tích 1.000m
2
thuộc
một phần thửa 1475 tứ cận Đông giáp LLàng Ấ; Tây giáp thửa 163 Phạm Thúy
K; Nam giáp thửa 224; Bắc giáp khu dân Ấp B cho ông Lê Văn Đ theo Mảnh trích
đo bản đồ địa chính ngày 04/5/2023 của Công ty TNHH Đ2. Với do vào ngày
19/3/2010 bà trực tiếp chuyển nhượng cho ông Văn Đ, Phạm Thị H1 diện tích
1.000m
2
đất ruộng thuộc một phần thửa 1475 tại Ấp B M, huyện T, tỉnh Long An
với giá 150.000.000đồng. Hai bên làm giấy tay. đã nhận tiền, giao đất cho ông
Đ, H1. Sau khi nhận đất thì bà H1, ông Đ đã xây dựng nhà ở, xây dựng ng trình
vật kiến trúc trên đất. Trước yêu cầu khởi kiện của ông Đ yêu cầu công nhận hiệu lực
của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng 1.000m
2
đất thuộc một phần thửa 1475
thì bà đồng ý.
Phạm Thúy K thống nhất với Mảnh trích đo bản đồ địa chính số 718-2023
của ng ty TNHH Đ2 được Chi nhánh n phòng đăng đất đai tại huyện T
ngày 04/5/2023 và Chứng thư thẩm định giá.
Trong đơn phản tố ngày 11/9/2023 các văn bản trong quá trình tố tụng, bị
đơn ông Trần Hoàng P cùng người đại diện hợp pháp của bị đơn Nguyễn Thị
Quỳnh H trình bày:
Ngày 05/02/2018 ông Trần Hoàng P với bà Phạm Thúy K có ký kết hợp đồng vay
i sản được thể hiện bằng giấy tay giấy nhận tiền là 1.000.000.000đồng, lãi suất do hai
bên tự thương lượng. Phạm Thúy K trực tiếp nhận đủ 1.000.000.000đồng. Ông Trần
Hoàng P không biết bà Hoàng Thị Tố N ai cũng không có giao tiền cho N. Để
đảm bảo cho số tiền vay 1.000.000.000đồng, Phạm Thúy K có thế chấp cho ông
Trần Hoàng P một Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Phạm Thúy K đứng n
đối với thửa đất số 1475 diện tích 3.164,5m
2
toạ lạc tại Ấp B xã M, huyện T, tỉnh Long
An. Số tiền, Phạm Thúy K nhận trực tiếp tiền từ ông Trần Hoàng P. Sau khi nhận
tiền, Phạm Thúy K với ông Trần Hoàng P làm hợp đồng ủy quyền tại Văn phòng
C1, hợp đồng công chứng số 859 quyển số 01/2018/TP/CC-SCC/HĐGD ngày
05/02/2018. Nội dung hợp đồng ủy quyền cho ông Trần Hoàng P được toàn quyền
quyết định c vấn đề liên quan đến thửa đất 1474. Do Phạm Thúy K không trả lãi
hàng tháng như đã thỏa thuận, nên ngày 12/11/2018, ông Trần Hoàng P tiếp tục yêu cầu
4
Phạm Thúy K trả tiền, nhưng Phạm Thúy K không tiền để thanh toán.
Phạm Ty K viết một bản cam kết với nội dung là trường hợp Phạm Thúy K
không trả tiền thì ông Trần Hoàng P được hoàn toàn mua bán sang nhượng, tặng cho
quyền sử dụng đất, Phạm Thúy K không được tranh chấp. Sau khi bản cam kết,
đồng thời ông Trần Hoàng P biết rằng Phạm Thúy K đang thi hành bản án tại Chi
cục Thi hành án dân sự huyện Thủ Thừa. Ông Trần Hoàng P đến gặp bà C là người đại
diện theo ủy quyền của Trần Thị Ngọc T2 là người Phạm Thúy K phải thi
hành án và bà C đã nhận của ông Trần Hoàng P 300.000.000 đồng vào ngày 19/6/2020.
Sau khi Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủ Thừa giải tỏa biên thửa đất thì ông
Trần Hoàng P thực hiện thủ tục tặng cho quyền sử dụng thửa đất cho ông Trần Hoàng
V1. Hiện tại thửa đất 1475 ông Trần Hoàng V1 chỉ đứng tên trên giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, nhưng thực tế bà Phạm Thúy K vẫn đang trực tiếp canh tác sử dụng.
Từc vay đến nay, ông Trần Hoàng P không nhận tiền lãi của K.
Trước yêu cầu khởi kiện của bà K, ông Trần Hoàng P đồng ý:
hiệu hợp đồng ủy quyền số công chứng 859 quyển số 01/2018/TP/CC-
SCC/HĐGD đã được Văn phòng C1 chứng nhận ngày 05/02/2018 giữa bà Phạm Thúy
K với ông Trần Hoàng P đối với thửa đất 1475, tờ bản đồ 02, tọa lạc tại M, huyện
T, tỉnh Long An.
hiệu hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất số công chứng 3868 quyển số
01/2020/TP/CC-SCC/HĐGD đã được Văn phòng C1 chứng nhận ngày 03/7/2020
giữa Phạm Thúy K do ông Trần Hoàng P đại diện với ông Trần Hoàng V1 đối với
thửa đất 1475, tờ bản đồ 02, tọa lạc tại xã M, huyện T, tỉnh Long An.
Ông Trần Hoàng P yêu cầu phản tố, yêu cầu Phạm Thúy K phải trả tiền
vốn vay và tiền lãi tổng cộng 3.070.000.000đồng. Tại phiên tòa thẩm, ông Trần
Hoàng P chỉ yêu cầu Phạm Thúy K phải trả số tiền vốn đã nhận
1.300.000.000đồng và tiền lãi 1.134.500.000đồng. Tổng cộng 2.434.500.000đồng. Cụ
thể, đối với khoản vay 1.000.000.000đồng 300.000.000đồng tiền trả tại Chi cục
Thi hành án dân sự huyện Thủ Thừa thì mức lãi suất trong hạn được tính là 10%/năm,
lãi suất quá hạn được tính 20%/năm, thời điểm tính lãi từ ngày vay đến ngày
14/11/2024. Sở ông Trần Hoàng P u cầu tính lãi do Phạm Thúy K chiếm
dụng stiền 1.300.000.000đồng. Ông Trần Hoàng P cũng thường xuyên yêu cầu
Phạm Thúy K trả tiền nhưng Phạm Thúy K cố ý kéo dài đến nay làm thiệt hại đến
quyền lợi của ông. Ngoài ra, ông Trần Hoàng P còn yêu cầu bà Phạm Thúy K phải trả
thêm khoản tiền thuế thu nhập nhân chuyển nhượng bất động sản
10.126.400đồng, tiền lệ phí trước bạ là 2.561.300đồng.
Ông Trần Hng P không yêu cầu bà Phạm Thúy K tr stiền 623.570.000 đồng.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Trần Hoàng V1 trình bày:
Ông là cha ruột của ông P, ông đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thúy
K và đồng ý với ý kiến của ông Trần Hoàng P hiệu hợp đồng tặng cho quyền sử
dụng đất số công chứng 3868 quyển số 01/2020/TP/CC-SCC/HĐGD đã được Văn
phòng C1 chứng nhận ngày 03/7/2020 giữa Phạm Thúy K do ông Trần Hoàng P
đại diện đối với ông về chuyển nhượng thửa đất số 1475, tờ bản đồ 02, tọa lạc tại
M, huyện T, tỉnh Long An, do ông đang đứng n quyền sử dụng đất. Giấy chứng
5
nhận quyền sử dụng đất hiện tại ông đang giữ, không thế chấp cho tchức nhân
nào, đất hiện do bà Phạm Thúy K đang sử dụng. Ông không có yêu cầu gì trong vụ án.
Trong văn bản ngày 07/6/2021, người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Văn
phòng C1 trình bày:
Ngày 05/02/2018 Phạm Thúy K với ông Trần Hoàng P đến Văn phòng C1
nộp hồ yêu cầu Văn phòng công chứng chứng nhận một hợp đồng ủy quyền. Giấy
tờ các bên nộp gồm giấy CMND của hai người, hai sổ hộ khẩu, 01 giấy xác nhận tình
trạng hôn nhân, 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Phạm Thúy K đứng tên.
Qua kiểm tra các giấy tờ đều hợp lệ, qua tiếp xúc trao đổi, Văn phòng C1 hợp đồng và
các bên đã đọc lại toàn bộ dự thảo, các bên đã hiểu nội dung đồng ý toàn bộ nội
dung hợp đồng. Văn phòng C1 chứng nhận hợp đồng ủy quyền. Ngày 03/7/2020 ông
P, ông V1 đến Văn phòng C1 ký hợp đồng tặng cho thuộc thửa 1475 diện tích
3.164,50m
2
tại Ấp B M, huyện T. Do đó Văn phòng Công chứng chứng nhận hai
hợp đồng nêu trên là phù hợp với qui định của pháp luật
Trong đơn khởi kiện độc lập ngày 25/6/2021, đơn bổ sung yêu cầu ngày
04/5/2023, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Lê Văn Đ trình bày:
Vào ngày 19/3/2010 âm lịch ông với vợ Phạm Thị H1 có mua của bà Phạm
Thúy K 1.000m
2
đất lúa thuộc một phần thửa 1475 diện tích 3.168m
2
tờ bản đồ số 02
do Phạm Thúy K đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại Ấp B M,
huyện T, tỉnh Long An với giá 150.000.000 đồng. Phạm Thúy K đã giao đất cho
vợ chồng ông. Vợ chồng ông mới đổ đất xây dựng nhà để ở, xây dựng chuồng heo
trồng các loại cây ăn trái khoảng 500m
2
, diện tích còn lại trồng hoa màu. Vào năm
2016 H1 chết các con còn nhỏ nên hiện tại ông đã không còn sống đó nữa.
Ông với H1 với nhau 3 người con chung tên Hữu Q, Thị Thu T,
Ngọc Minh C. Ông yêu cầu Tòa án công nhận khu B có diện tích 1.000m
2
cho ông M
trích đo bản đđịa chính số 718-2023 của Công ty TNHH Đ2 được Chi nhánh Văn
phòng đăng đất đai tại huyện T ngày 04/5/2023, Phạm Thúy K phải làm thủ
tục chuyển quyền sang tên cho ông.
Ông Đ thống nhất với Mảnh trích đo bản đồ địa chính số 718-2023 của Công ty
TNHH Đ2 được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện T ký ngày 04/5/2023
và Chứng thư thẩm định giá.
Vụ án được Toà án cấp thẩm tiến hành kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công
khai chứng cứ và hoà giải nhưng các đương sự không thoả thuận được với nhau.
Tại Bản án dân sự thẩm số 125/2024/DS-ST ngày 18/11/2024 Quyết định
số 01/2025/QĐ-SCBSBA ngày 09/01/2025 sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm của Tòa
án nhân dân huyện Thủ Thừa đã căn cứ khoản 9 Điều 26, các Điều 35, 39, 147, 266,
271 Điều 273 Bộ luật Tố tụng n sự năm 2015; Điều 117, 124, 218, 213, 274,
286, 500, 501, 502, 503, 466, 468 Bộ luật Dân sự; Điều 171 của Luật Đất đai, Điều 26
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, Điều 26 Luật Thi hành án dân sự.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Phạm Thúy K đối với ông Trần Hoàng P
về việc tranh chấp vô hiệu hợp đồng ủy quyền, hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất.
6
hiệu hợp đồng ủy quyền số công chứng 859 quyển số 01/2018/TP/CC-
SCC/HĐGD đã được Văn phòng C1 chứng nhận ngày 05/02/2018 giữa bà Phạm Thúy
K với ông Trần Hoàng P đối với thửa đất 1475, tờ bản đồ 02, tọa lạc tại M, huyện
T, tỉnh Long An.
hiệu hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất số công chứng 3868 quyển số
01/2020/TP/CC-SCC/HĐGD đã được Văn phòng C1 chứng nhận ngày 03/7/2020
giữa bà Phạm Thúy K, ông Trần Hoàng P với ông Trần Hoàng V1 đối với thửa đất
1475, tờ bản đồ 02, tọa lạc tại xã M, huyện T, tỉnh Long An.
2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Trần Hoàng P:
Buộc Phạm Thúy K phải hoàn trả cho ông Trần Hoàng P số tiền
2.434.500.000 đồng, trong đó 1.300.000.000 đồng vốn và tiền lãi 1.134.500.000 đồng.
Không chấp nhận yêu cầu của ông Trần Hoàng P về việc yêu cầu Phạm Thúy
K phải trsố tiền thuế thu nhập nhân chuyển nhượng bất động sản 10.126.400
đồng, tiền lệ phí trước bạ 2.561.300 đồng.
Đình chỉ một phần yêu cầu phản tố của ông Trần Hoàng P về việc yêu cầu
Phạm Thúy K trả số tiền 623.570.000 đồng.
3. Công nhận hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa
Phạm Thúy K với ông Lê Văn Đ theo giấy mua bán ngày 19/3/2010.
Công nhận khu B diện tích 1.000m
2
thuộc một phần thừa 1475 tứ cận
Đông giáp lộ làng ấp 2; Tây giáp thửa 163 Phạm Thúy K; Nam giáp thửa 224 H; Bắc
giáp khu dân ấp B cho ông Văn Đ. Theo trích đo bản đồ địa chính số 718 của
Công ty TNHH Đ2 được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai ký ngày 04/5/2023.
3. Các đương sự quyền nghĩa vụ liên hệ quan nhà nước thẩm quyền
để lập thủ tục khai, đăng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, điều chỉnh
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được cấp phù hợp với kết quả giải quyết của
Toà án, Văn phòng Đ3, quan T3 nguyên - Môi trường căn cứ vào bản án quyết
định của Tòa án để giải quyết điều chỉnh biến động hoặc cấp lại Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho phù hợp với kết quả giải quyết của Tòa án.
4. Về lệ phí tố tụng: Lệ phí cho việc đo đạc, chứng thư thẩm định giá là
28.000.000 đồng. Ông Trần Hoàng P đã nộp xong. Bà Phạm Thúy K phải chịu
28.000.000 đồng và phải hoàn trả cho ông P.
Từ ngày đơn yêu cầu của người được thi hành án cho đến khi thi hành án
xong khoản tiền trên, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu thêm khoản tiền
lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ
luật Dân sự tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
5. Về án phí dân sự thẩm: Phạm Thúy K phải chịu án phí dân sự thẩm
nhưng được miễn án phí dân sự sơ thẩm do trên 60 tuổi.
Ông Trần Hoàng P phải chịu 1.234.000 đồng án phí dân sự thẩm nhưng được
khấu trừ số tiền 34.061.000 đồng, còn lại 32.827.000 hoàn trả cho ông Trần Hoàng P
theo biên lai thu số 0006657 ngày 06/11/2023; Hoàn trả cho ông Văn Đ số tiền
300.000 đồng theo biên lai thu số 0007919 ngày 24/6/2021 tại Chi cục Thi nh án
dân sự huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An.
7
Ngoài ra bản án thẩm còn tuyên về quyền nghĩa vụ thi hành án, quyền
kháng cáo của các đương sự.
Sau khi xét xử thẩm, ngày 29/11/2024, nguyên đơn bà Phạm Thúy K làm đơn
kháng cáo không đồng ý trả số tiền lãi 1.134.500.000đồng cho ông Trần Hoàng P,
ông Trần Hoàng P đã chiếm giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã sang tên cho
người khác từ ngày 03/8/2020 cho đến nay, Phạm Thúy K chỉ đồng ý trả cho ông
Trần Hoàng P 1.300.000.000đồng.
Ngày 25/11/2024, người quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Trần Hoàng V1
làm đơn kháng cáo không đồng ý với quyết định của bản án thẩm, đề nghị Toà án
cấp phúc thẩm sửa bản án thẩm bác u cầu độc lập của ông Nguyễn Văn Đ1
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Đ1 bà Phạm Thúy K vi
phạm quy định về nội dung và hình thức.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các đương sự không thoả thuận được với nhau, nguyên
đơn Phạm Thúy K không rút đơn khởi kiện đơn kháng cáo, trình bày cho rằng,
Phạm Thúy K vay của ông Trần Hoàng P 1.000.000.000đồng với lãi suất
5%/tháng, nhưng chỉ nhận thực tế số tiền 700.000.000đồng, đã trả lãi
182.000.000đồng, nên bà Phạm Thúy K chỉ đồng ý trả tiền lãi từ ngày 05/02/2018 đến
ngày 03/7/2020 ngày ông Trần Hoàng P lập hợp đồng tặng cho quyền sử dụng
đất cho ông V1, không đồng ý tính lãi đến ngày Toà án xét xử sơ thẩm.
Bị đơn ông Trần Hoàng P do bà Nguyễn Thị Quỳnh H đại diện không đồng ý với
yêu cầu kháng cáo của K, trình y cho rằng, ông Trần Hoàng P cho Phạm
Thúy K vay 1.000.000.000đồng vào ngày 05/02/2018 với lãi suất thoả thuận miệng
5%/tháng, chưa nhận bất cứ khoản tiền lãi nào từ bà Phạm Thúy K nên không đồng ý
với yêu cầu kháng cáo của bà K.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Trần Hoàng V1 không rút đơn kháng
cáo, không đồng ý công nhận hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất giữa bà Phạm Thúy K H1 trình bày cho rằng, việc chuyển nhượng quyền sử
dụng đất giữa H1 Phạm Thúy K không được thể hiện hợp đồng chuyển
nhượng, việc công nhận hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng giữa Phạm Thúy K
bà H1 làm ảnh hưởng đến quá trình thu hồi số nợ mà bà Phạm Thúy K đang nợ,
số tiền 1.000.000.000đồng ông Trần Hoàng P cho Phạm Thúy K vay thực chất
số tiền của ông V1, do ông Trần Hoàng P con của ông V1 thực tế ông Trần
Hoàng P chưa nhận bất cứ khoản tiền lãi nào từ bà K.
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An phát biểu ý kiến của Viện
kiểm sát về việc chấp hành pháp luật trong giai đoạn xét xử phúc thẩm cho rằng: Toà
án cấp phúc thẩm và các đương sự chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân
sự, kháng cáo của nguyên đơn bà Phạm Thúy K, của người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan ông Trần Hoàng V1 trong thời hạn luật định, hợp lệ nên được xem xét theo trình
tự phúc thẩm.
Xét yêu cầu kháng cáo của ông Trần Hoàng V1, của bà Phạm Thúy K thấy rằng:
Vào năm 2010 H1 nhận chuyển nhượng của Phạm Thúy K 1.000m
2
đất
thuộc một phần thửa 1475. Vợ chồng H1 ông Đ1 đã xây dựng nhà ở, xây dựng
chuồng heo trồng cây, hiện trạng đất được thể hiện trong Biên bản thẩm định tại
8
chỗ ngày 24/01/2022 của Tòa án cấp thẩm. Mặc dù việc chuyển nhượng giữa
Phạm Thúy K với H1 chỉ làm bằng giấy tay không tuân thủ điều kiện về mặt
hình thức nhưng thực tế Phạm Thúy K đã nhận đủ số tiền 150.000.000 đồng
đã giao đất cho vợ chồng H1, ông Đ1. Vchồng bà H1, ông Đ1 đã xây dựng nhà
và công trình, vật kiến trúc trên đất. Bà Phạm Thúy K đồng ý theo yêu cầu của ông
Văn Đ công nhận khu B diện tích 1.000m
2
theo Mảnh trích đo bản đồ địa chính số
718-2023 của Công ty TNHH Đ2 được Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai tại
huyện T ký ngày 04/5/2023, đồng ý làm thủ tục chuyển quyền cho ông Đ.
Trong quá trình giải quyết vụ án, ông Trần Hoàng P và bà Phạm Thúy K đồng ý
hiệu Hợp đồng ủy quyền số công chứng 859 quyển số 01/2018/TP/CC-
SCC/HĐGD đã được Văn phòng C1 chứng nhận ngày 05/02/2018 giữa bà Phạm Thúy
K với ông Trần Hoàng P đối với thửa đất 1475, tờ bản đồ 02, tọa lạc tại M, huyện
T, tỉnh Long An hiệu Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất số công chứng
3868 quyển số 01/2020/TP/CC-SCC/HĐGD đã được Văn phòng C1 chứng nhận ngày
03/7/2020 giữa Phạm Thúy K do ông Trần Hoàng P đại diện với ông V1 đối với
thửa đất 1475, tờ bản đồ 02, tọa lạc tại xã M, huyện T, tỉnh Long An.
Phạm Thúy K đồng ý trả cho ông Trần Hoàng P số tiền 1.300.000.000 đồng
tiền vốn nhưng không đồng ý trả tiền 1.134.500.000 đồng chỉ đồng ý trả lãi
200.000.000 đồng. Xét thấy việc ông Trần Hoàng P yêu cầu bà Phạm Thúy K phải bồi
thường số tiền lãi 1.134.500.000 đồng được tính theo mức lãi 20%/năm phù hợp
với quy định của pháp luật.
Từ những căn cứ nêu trên, kháng cáo của ông Trần Hoàng V1, bà Phạm Thúy K
không có cơ sở chấp nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật
Tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của Phạm Thúy K ông V1, giữ
nguyên bản án dân sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Kháng cáo của nguyên đơn Phạm Thúy K, của người quyền lợi nghĩa
vụ liên quan ông Trần Hoàng V1 làm đúng theo quy định tại Điều 272 được gửi
đến Tòa án trong thời hạn quy định tại Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự nên được
chấp nhận để xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về sự tham gia tố tụng của các đương sự: những người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan Sở Nông nghiệp Môi trường tỉnh Long An, Văn phòng C1 vắng mặt,
yêu cầu xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự, Toà án xét xử
vắng mặt những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan này.
[3] Nguyên đơn Phạm Thúy K khởi kiện yêu cầu tuyên bố các giao dịch dân
sự liên quan đến quyền sử dụng thửa đất số 1475 tờ bản đồ số 2 gồm hợp đồng uỷ
quyền giữa Phạm Thúy K với ông Trần Hoàng P hợp đồng tặng cho quyền sử
dụng đất giữa Phạm Thúy K do ông Trần Hoàng P làm đại diện với ông Trần
Hoàng V1 hiệu. Bị đơn ông Trần Hoàng P đồng ý với yêu cầu của Phạm
Thúy K nhưng u cầu phản tố, u cầu bà Phạm Thúy K trtiền vốn vay cùng
tiền lãi tổng cộng là 3.070.758.200đồng, cùng với khoản tiền thuế thu nhập cá nhân là
10.126.400đồng, tiền lệ phí trước bạ 2.561.300đổng. Tại phiên toà thẩm, ông Trần
Hoàng P chỉ yêu cầu Phạm Thúy K trả số tiền 1.300.000.000đồng cùng
1.134.500.000đồng tiền lãi, tổng cộng 2.434.500.000đồng, rút yêu cầu đối với số
9
tiền lãi 623.570.000đồng; người quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Văn Đ
yêu cầu độc lập yêu cầu công nhận hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng 1.000m
2
đất thuộc một phần thửa 1475 tờ bản đồ số 2. Toà án cấp thẩm chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của bà K, vô hiệu hợp đồng uỷ quyền giữa Phạm Thúy K
với ông Trần Hoàng P hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa bà Phạm Thúy K
do ông Trần Hoàng P làm đại diện với ông Trần Hoàng V1, các đương sự không
kháng cáo phần này. Toà án cấp sơ thẩm đồng thời chấp nhận yêu cầu phản tố của ông
P, yêu cầu độc lập của ông Đ, buộc Phạm Thúy K trả cho ông Trần Hoàng P số
tiền 2.434.500.000đồng, trong đó gồm 1.300.000.000đồng tiền vốn vay
1.134.500đồng tiền lãi, công nhận hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất giữa Phạm Thúy K ông Đ. Phạm Thúy K kháng cáo không đồng ý
trả tiền lãi cho ông P, ông V1 thì kháng cáo không đồng ý công nhận hiệu lực của hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Phạm Thúy K và ông Đ.
[4] Xét yêu cầu của bà Phạm Thúy K không đồng ý trả tiền lãi cho ông Trần
Hoàng P thấy rằng:
[4.1] n cứ vào giấy tay nhận tiền ngày 05/02/2018 t Phạm Thúy K
nhận của ông Trần Hoàng P số tiền vay 1.000.000.000đồng, Phạm Thúy K cho
rằng mặc n nhận số tiền 1.000.000.000đồng nhưng thực tế chỉ nhận của ông
Trần Hoàng P 700.000.000đồng, trình bày của Phạm Thúy K không được ông Trần
Hoàng P thừa nhận cũng không chứng cứ chứng minh. Về mức lãi suất vay,
mặc trong giấy tay không thể hiện mức lãi suất vay nhưng cả bà Phạm Thúy K
ông Trần Hoàng P đều trình bày thống nhất, lãi suất thoả thuận vay 5%/tháng.
Phạm Thúy K cho rằng Phạm Thúy K đã trả cho ông Trần Hoàng P
182.000.000đồng tiền lãi nhưng cũng không cung cấp được chứng cứ đã trả khoản
tiền lãi này cho ông Trần Hoàng P nên không chấp nhận trình bày của Phạm Thúy
K về số tiền lãi đã trả. Phạm Thúy K chỉ đồng ý trả tiền lãi vay cho ông Trần
Hoàng P từ thời điểm nhận tiền vay ngày 05/02/2018 đến ngày 03/7/2020 ngày
ông Trần Hoàng P lập hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất cho ông V1, tuy nhiên
cho đến nay Phạm Thúy K vẫn chưa trả tiền cho ông Trần Hoàng P các bên
không thoả thuận ngừng việc trả lãi đến thời điểm ngày 03/7/2020 như bà Phạm Thúy
K trình bày.
[4.2] Do mức lãi suất các bên thoả thuận vượt quá mức lãi suất được quy định tại
khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự nên ông Trần Hoàng P yêu cầu bà Phạm Thúy K trả
tiền lãi bằng 20%/năm phù hợp. Từ ngày vay ngày 05/02/2018 đến ngày xét xử
thẩm ngày 18/11/2024 là 6 năm 9 tháng 13 ngày, lãi suất được tính như sau:
1.000.000.000 đồng x 6 năm 9 tháng 13 ngày x 20%/năm = 1.357.222.222đồng,
vậy ông Trần Hoàng P yêu cầu Phạm Thúy K trả số tiền lãi 1.134.500.000đồng
có cơ sở.
[5] Xét yêu cầu kháng cáo của ông V1 yêu cầu vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa bà Phạm Thúy Kông Đ thấy rằng:
[5.1] Về quyền khởi kiện yêu cầu công nhận hiệu lực của hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Phạm Thúy K và bà Phạm Thúy H2 thấy rằng: ông
Đ chồng của H2, H2 chết vào ngày 07/12/2016, các thừa kế của H2 gồm
chồng của H2 ông Văn Đ các con của H2 Hữu Q, Thị Thu T
Ngọc Minh C, các con của H2 ông Đ Hữu Q, Thị Thu T đã thành
10
niên văn bản đồng ý cho ông Đ đứng ra khởi kiện, còn Ngọc Minh C chưa
thành niên, do ông Đ đại diện, vì vậy ông Đ quyền khởi kiện yêu cầu công nhận
hiệu lực hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà H2bà K.
[5.2] Xét hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 19/3/2010 giữa bà
Phạm Thúy K bà Phạm Thúy H2 chỉ bằng giấy tay, không đảm bảo điều kiện về
hình thức theo quy định tại khoản 2 Điều 122, Điều 689 Bluật Dân sự năm 2005,
Điều 35, Điều 37 của Luật Công chứng năm 2006. Tuy nhiên các bên đã thực hiện
xong hợp đồng, H2 ông Đ đã trả đủ tiền nhận đất sử dụng, xây dựng nhà
tường rào bao quanh khuôn viên riêng, vậy Toà án cấp thẩm đã công nhận
hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa H2 K, cho
quyền ông Đ khai cấp quyền sử dụng đất đúng quy định tại Điều 129, Điều 502
và Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015 và Án lệ số 55/2022/AL.
[6] Từ những nhận định trên không căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng cáo của
Phạm Thúy K ông Trần Hoàng V1. Tuy nhiên để đảm bảo công tác thi hành án
cần chỉnh sửa bản án sơ thẩm về cách tuyên án.
[7] Về nghĩa vụ chậm thi hành án: Toà án cấp thẩm tuyên về nghĩa vụ chậm
thi hành án trong quyết định của bản án sơ thẩm chưa đúng quy định tại điểm a khoản
1 Điều 13 của Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng
Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật
về lãi, lãi suất. Tuy nhiên, tại phiên toà phúc thẩm, H đại diện cho nguyên đơn
ông V1 đồng ý với quyết định vlãi suất nên giữ nguyên bản án thẩm về lãi suất
chậm trả.
[8] Tại phiên toà, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Long An đnghị Hội
đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Phạm Thúy K ông V1
có cơ sở và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.
[9] Các khoản khác của bản án thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu
lực theo quy định của pháp luật.
[10] Về án pphúc thẩm: bên kháng cáo Phạm Thúy K ông Trần Hoàng
V1 không được chấp nhận phải chịu án phí theo Điều 29 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Tuy nhiên,
Phạm Thúy K và ông V1 người cao tuổi, đơn xin miễn án phí nên xem xét
cho bà Phạm Thúy K và ông V1 được miễn án phí.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn bà Phạm Thúy K.
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của người quyền lợi nghĩa vụ liên quan
ông Trần Hoàng V1.
Chỉnh sửa Bản án dân sự thẩm số 125/2024/DS-ST ngày 18/11/2024 của Tòa
án nhân dân huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An về cách tuyên án.
11
Căn cứ các Điều 26, 37, 39, 147, 148, 296 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 117,
124, 218, 213, 274, 286, 500, 501, 502, 503, 466, 468 Bộ luật Dân sự; Điều 171 của
Luật Đất đai, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm
2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Điều 26 Luật Thi hành án dân sự.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Phạm Thúy K đối với ông Trần Hoàng P
về việc tranh chấp vô hiệu hợp đồng ủy quyền, hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất.
hiệu hợp đồng ủy quyền số công chứng 859 quyển số 01/2018/TP/CC-
SCC/HĐGD đã được Văn phòng C1 chứng nhận ngày 05/02/2018 giữa bà Phạm Thúy
K với ông Trần Hoàng P đối với thửa đất 1475, tờ bản đồ 02, tọa lạc tại Ấp B M,
huyện T, tỉnh Long An.
hiệu hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất số công chứng 3868 quyển số
01/2020/TP/CC-SCC/HĐGD đã được Văn phòng C1 chứng nhận ngày 03/7/2020
giữa Phạm Thúy K do ông Trần Hoàng P đại diện với ông Trần Hoàng V1 đối với
thửa đất 1475, tờ bản đồ 02, tọa lạc tại xã M, huyện T, tỉnh Long An.
2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Trần Hoàng P:
Buộc Phạm Thúy K phải hoàn trả cho ông Trần Hoàng P số tiền
2.434.500.000đồng, trong đó 1.300.000.000đồng vốn và 1.134.500.000 đồng lãi.
Không chấp nhận yêu cầu của ông Trần Hoàng P về việc yêu cầu Phạm Thúy
K phải trsố tiền thuế thu nhập nhân chuyển nhượng bất động sản 10.126.400
đồng, tiền lệ phí trước bạ 2.561.300 đồng.
Đình chỉ một phần yêu cầu phản tố của ông Trần Hoàng P về việc yêu cầu
Phạm Thúy K trả số tiền 623.570.000 đồng.
3. Công nhận hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa
Phạm Thúy K với bà Phạm Thúy H2 theo giấy tay ngày 19/3/2010.
Công nhận khu B diện tích 1.000m
2
thuộc một phần thửa 1475 tứ cận
Đông giáp lộ làng Ấ; Tây giáp thửa 163; Nam giáp thửa 224; Bắc giáp khu dân cư Ấp
B M cho ông Lê Văn Đ theo Mảnh trích đo bản đồ địa chính số 718-2023 của Công ty
TNHH Đ2 được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai ký ngày 04/5/2023.
4. Về quyền đăng ký cấp quyền sử dụng đất thu hồi, huỷ bỏ giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất:
Ông Trần Hoàng V1 có nghĩa vụ giao bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số CX 337104 ngày 03 tháng 8 năm 2020, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số CS 04880 do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh L cấp quyền sử dụng
thửa đất số 1475 tờ bản đồ số 2 để ông V1 đứng tên, cho quan nhà nước thẩm
quyền để thu hồi, huỷ bỏ theo quyết định của bản án.
Ông Văn Đ có quyền liên hệ với quan nhà nước thẩm quyền khai
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với 1.000m
2
thuộc một phần thửa 1475 tờ bản
đồ 02.
Phạm Thúy K được đăng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với
phần diện tích đất còn lại tại thửa 1475 tờ bản đồ số 02. theo Mảnh trích đo bản đồ địa
12
chính số 718-2023 của Công ty TNHH Đ2 được Chi nhánh Văn phòng đăng đất
đai ngày 04/5/2023 thì Phạm Thúy K đăng kê khai phần diện tích đất tại vị
trí khu A.
5. Về chi phí tố tụng: Phạm Thúy K phải chịu 28.000.000 đồng chi phí đo
đạc, định giá xem xét thẩm định tại chỗ. Stiền này ông Trần Hoàng P đã nộp tạm
ứng, bà Phạm Thúy K phải nộp lại 28.000.000 đồng để hoàn trả cho ông P.
6. Về nghĩa vụ chậm thi nh án: Kể tngày đơn yêu cầu của ngưi được thi
nh án cho đến khi thi nh án xong khoản tiền tn, hàng tháng n phải thi nh án
còn phải chịu tm khoản tiền tin lãi của số tiền còn phải thinh theo mc lãi suất quy
định tại khoản 2 Điu 468 Bluật n s tươngng với thời gian ca thi nh án.
7. Về án phí:
Miễn án phí cho bà Phạm Thúy K và ông Trần Hoàng V1.
Ông Trần Hoàng P phải chịu 1.234.000 đồng án phí dân sự thẩm nhưng được
trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 34.061.000 đồng theo biên lai thu số 0006657
ngày 06/11/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủ Thừa. H3 lại cho ông
Trần Hoàng P số tiền 32.827.000 còn thừa.
Hoàn trả cho ông Văn Đ số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo
biên lai thu số 0007919 ngày 24/6/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủ
Thừa, tỉnh Long An
8. Về quyền nghĩa vụ thi hành án: Trong trường hợp bản án được thi hành
theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự,
người phải thi hành án dân sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi
hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều
6, 7 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định
tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
9. Về hiệu lực của bản án: Bản án phúc thẩm hiệu lực pháp luật kể từ ngày
tuyên án.
Nơi nhận:
- TANDCC tại TP.HCM;
- VKSND tỉnh Long An;
- TAND huyện Thủ Thừa;
- Chi cục THADS huyện Thủ Thừa;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ, án văn.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Thị Kim Nga
Tải về
Bản án số 345/2025/DS-PT Bản án số 345/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 345/2025/DS-PT Bản án số 345/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất