Bản án số 77/2025/DS-ST ngày 18/06/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 17 - Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp về chia tài sản chung
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 77/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 77/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 77/2025/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 77/2025/DS-ST ngày 18/06/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 17 - Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp về chia tài sản chung |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về chia tài sản chung |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | Tòa án nhân dân khu vực 17 - Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh |
Số hiệu: | 77/2025/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 18/06/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị Thu Vân khởi kiện bà Võ Ngọc Huệ, bà Nguyễn Thị Tư về việc “Tranh chấp yêu cầu chia tài sản chung” |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ TÂN UYÊN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Đậu Thị Loan.
Các Hội thẩm nhân dân:
Ông Tống Văn Tâm
Bà Võ Thị Hồng Tươi.
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Ngọc Yến, Thư ký Tòa án nhân dân thành
phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tân Uyên tham gia phiên
tòa: Ông Phạm Văn Giáp, Kiểm sát viên.
Vào ngày 16 và ngày 18 tháng 6 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành
phố Tân Uyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 238/2022/TLST-
DS ngày 15 tháng 11 năm 2022 về việc “Tranh chấp chia tài sản chung” theo
Quyếtđưa vụ án ra xét xử số: 77/2025/QĐXXST-DS ngày 16 tháng 5 năm 2025
và Thông báo hoãn phiên tòa số: 11/2025/TB-TA ngày 03 tháng 6 năm 2025, giữa
các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thu V, sinh năm 1966; nơi cư trú: Số A,
đường C, khu phố A, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Hoàng Liên S, sinh năm
1965; thường trú: E14, tổ A, khu phố B, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai,
là người đại diện theo uỷ quyền (Hợp đồng ủy quyền ngày 27/8/2022). Có mặt.
- Bị đơn:
1. Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1959; nơi cư trú: Tổ B, khu phố C, phường T,
thành phố T, tỉnh Bình Dương. Có mặt khi xét xử, vắng mặt khi tuyên án.
Bản án số: 77/2025/DS-ST
Ngày: 18-6-2025
V/v tranh chấp về chia tài sản
chung
2
2. Bà Võ Ngọc H, sinh năm 1957; nơi cư trú: Số C, đường N, tổ F, khu phố
E, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp của bà Võ Thị H1: Ông Nguyễn Hoàng M, sinh
năm 1979; nơi cư trú: Số E, tổ D, khu E, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương,
là người đại diện theo uỷ quyền (Hợp đồng ủy quyền ngày 27/8/2022). Có mặt
khi xét xử, vắng mặt khi tuyên án.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Huỳnh Xuân P, sinh năm 1958; nơi cư trú: Số C, đường N, Tổ F, khu
phố E, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.
2. Ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1962; nơi cư trú: Số nhà A, đường C, khu
phố A, phường B, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.
3. Ông Lê Đức D, sinh năm 1975; nơi cư trú: Tổ D, khu phố C, phường T,
thành phố T, tỉnh Bình Dương. Có mặt.
- Người làm chứng:
1. Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1970; địa chỉ: Tổ B, khu phố C, phường T,
thành phố T, tỉnh Bình Dương. Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.
2. Ông Võ Văn H2, sinh năm 1962; địa chỉ: Tổ D, khu phố C, phường T,
thành phố T, tỉnh Bình Dương. Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo đơn khởi kiện, quá trình tố tụng, người đại diện hợp pháp của nguyên
đơn trình bày:
Năm 2010, bà Nguyễn Thị Thu V cùng bà Nguyễn Thị T và bà Võ Ngọc H
thống nhất đồng sở hữu 17 thửa đất gồm các thửa: 7, 8, 9, 10, 345 tờ bản đồ số 2;
123, 124, 126, 127, 129, 130, 135, 136, 137, 138, 139, 140 tờ bản đồ số số 3 xã
(nay là phường ), huyện (nay là thành phố) Tân Uyên, Bình Dương. Ngày
18/9/2010, bà V, bà H và bà T được UBND huyện T cấp các Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất số BB
555295, BB 555296, BB 555297 số vào sổ cấp GCN: CH00156.
Nguồn gốc của phần đất trên là của ông cố, bà cố ngoại của bà V (Bà V là
con gái ruột của bà Võ Thị Đ) để lại cho ông bà ngoại của bà V. Khi ông, bà chết
không để lại di chúc và khi Nhà nước có chủ trương cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đại trà thì ông Võ Văn T1 (Em ruột bà Đ) đã đi đăng ký và được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ngày 28/4/2009, gia đình thỏa thuận phân
chia di sản thừa kế phần đất nêu trên. Do bà Đ đang định cư ở Hoa Kỳ không đủ
3
điều kiện được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên cho con gái là bà V
đứng tên chung cùng bà Võ Ngọc H, Nguyễn Thị T (bà T là vợ của ông Võ Văn
T1 - ông T1 do sức khoẻ không đảm bảo nên bà T đứng tên, đồng thời ông T1 đã
có văn bản thoả thuận tài sản là tài riêng của bà T). Bà Nguyễn Thị Thu V, bà
Nguyễn Thị T, bà Võ Ngọc H cùng đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất.
Theo biên bản thỏa thuận phân chia tài sản của cha mẹ để lại không lập di
chúc ngày 28/4/2009 thể hiện diện tích đất ruộng trong Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất là 12.944m² cấp cho ông Võ Văn T1. Do các bên chưa xác định được
chiều ngang mặt tiền đường xe chạy là bao nhiêu nên thống nhất cùng chung sở
hữu và sau này khi xác định được chiều ngang sẽ chia làm 3 phần. Ngày
18/9/2010, bà V, bà H, bà T được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với
diện tích đất 12.944m² thuộc các thửa đất số 7, 8, 9, 10, 345 tờ bản đồ số 2; các
thửa đất số 123, 124, 126, 127, 129, 130, 135, 136, 137, 138, 139, 140 tờ bản đồ
số 3 tại phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Năm 2022, bà V có yêu cầu
chia làm 3 phần để tách thành 03 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì các bên
không tìm được tiếng nói chung với nhau.
Do đó, Bà V khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết: Chia tài sản thuộc sở hữu
chung của 3 người gồm bà Nguyễn Thị Thu V, bà Võ Ngọc H, bà Nguyễn Thị T
có tổng diện tích theo kết quả đo đạc thực tế là 12.610,8m
2
thuộc các thửa 7, 8, 9,
10, 345 tờ bản đồ số 2; 123, 124, 126, 127, 129, 130, 135, 136, 137, 138, 139, 140
tờ bản đồ số 3 phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Quá trình giải quyết vụ án, ông Nguyễn Đức D1 có yêu cầu độc lập tranh
chấp đối với phần đất có diện tích 674,3m
2
thuộc thửa đất 139 và 140, tờ bản đồ
số 3. Ông D1 xác định phần đất này là của ông D1 do quá trình cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đã cấp nhầm cho bà Nguyễn Thị Thu V, bà Võ Ngọc H,
bà Nguyễn Thị T. Bà Nguyễn Thị Thu V, bà Võ Ngọc H, bà Nguyễn Thị T đều
xác định thống nhất với yêu cầu độc lập của ông D1 và xác định ông D1 là người
trực tiếp quản lý, sử dụng, canh tác từ trước đến nay.
Bà V yêu cầu chia phần diện tích đo đạc thực tế còn lại là 11.936,5m
2
thuộc
các thửa đất số 7, 8, 9, 10, 345 tờ bản đồ số 2; các thửa đất số 123, 124, 126, 127,
129, 130, 135, 136, 137, 138 tờ bản đồ số 3, chia đều cho 03 người gồm bà Nguyễn
Thị Thu V, bà Nguyễn Thị T và Võ Ngọc H, cụ thể: Bà V yêu cầu được nhận phần
diện tích tạm tính là 3.978,8m² gồm: 76,6m
2
thuộc thửa 07; 616m
2
thuộc thửa 08;
404,7m
2
thuộc thửa 345; 2.881,5m
2
thuộc một phần thửa 10, tờ bản đồ số 02 tại
phường T, thành phố T để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tứ cận
phần đất bà V yêu cầu được chia như sau: Hướng Đông giáp một phần thửa 10,
4
tờ bản đồ số 3 phường T; Hướng Tây giáp mương bà T2; Hướng Nam giáp thửa
đất số 11,17 và 18; Hướng Bắc giáp thửa đấ số 3, 4, 5 và 6.
Phần diện tích còn lại chia cho bà Nguyễn Thị T và bà Võ Ngọc H.
Xác định không yêu cầu chia phần diện tích đất 674,3m
2
gồm 311,3 m
2
thuộc
thửa 139 và 363m
2
thuộc thửa 140 cho bà V. Phần đất này khi Toà án giải quyết
giao cho bà Nguyễn Thị T hoặc và bà Võ Ngọc H khi chia đất, nếu phần đất của
ai giáp với thửa 139 và 363m
2
thuộc thửa 140 thì giao cho người đó.
Nguyên đơn thống nhất kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản
và M1 trích lục địa chính (Có đo đạc) số 92-2023 do Chi nhánh Văn phòng đăng
ký đất đai thành phố T cung cấp ngày 15/5/2023.
- Quá trình tố tụng bị đơn bà Võ Ngọc H và người đại diện hợp pháp của bị
đơn trình bày:
Bị đơn xác định, quyền sử dụng đất thuộc các thửa đất số 7, 8, 9, 10, 345 tờ
bản đồ số 2; các thửa đất số 123, 124, 126, 127, 129, 130, 135, 136, 137, 138, 139,
140 tờ bản đồ số 3 tại phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương, đã được UBND
huyện T cấp các Giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà và tài sản
khác gắn liền với đất số BB 555295, BB 555296, BB 555297 số vào sổ cấp GCN:
CH00156 cho bà Nguyễn Thị Thu V, bà Nguyễn Thị T, bà Võ Ngọc H có nguồn
gốc do ông bà để lại.
Thống nhất tổng diện tích các thửa đất theo kết quả đo đạc thực tế là
12.610,8m2. Trong đó có 674,3m
2
thuộc thửa đất 139 và 140 là của ông Nguyễn
Đức D1, do quá trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp nhầm cho
bà Nguyễn Thị Thu V, bà Võ Ngọc H, bà Nguyễn Thị T. Đồng ý chia phần diện
tích đất còn lại là 11.936,5m
2
chia đều cho 03 người gồm bà Nguyễn Thị Thu V,
bà Nguyễn Thị T và Võ Ngọc H. Do bà T có công gìn giữ đất nên bà H đồng ý
cho bà T 500m
2
đất và đề nghị bà Nguyễn Thị Thu V cũng phải cho bà T 500m
2
đất.
Cụ thể yêu cầu chia như sau: Sau khi trừ phần đất 674,3m
2
thuộc thửa đất
139 và 140 ra thì cắt dọc hết phần đất kéo dài từ phần đất tiếp giáp với ông D1
cho đến phần tiếp giáp với mương bà T2, mỗi người được 3.978,83m
2
. Riêng bà
H sẽ nhận phần đất 674,3m
2
thuộc thửa đất 139 và 140 của ông D1.
Bị đơn bà Võ Ngọc H thống nhất kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ, định
giá tài sản và M1 trích lục địa chính (Có đo đạc) số 92-2023 do Chi nhánh Văn
phòng đăng ký đất đai thành phố T cung cấp ngày 15/5/2023.
- Quá trình tố tụng bị đơn bà Nguyễn Thị T trình bày:
5
Thống nhất với lời trình bày của bị đơn bà Võ Ngọc H. Bà T đồng ý chia ba
đối với phần đất tranh chấp sau khi trừ phần đất của ông D1. Cách thức chia là sẽ
cắt dọc hết phần đất kéo dài từ phần đất tiếp giáp với ông D1 cho đến phần tiếp
giáp với mương bà T2, mỗi người được 3.978,83m
2
, xẻ dọc các thửa đất mỗi
người một phần.
Bị đơn bà Nguyễn Thị T thống nhất kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ, định
giá tài sản và M1 trích lục địa chính (Có đo đạc) số 92-2023 do Chi nhánh Văn
phòng đăng ký đất đai thành phố T cung cấp ngày 15/5/2023.
- Quá trình tố tụng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc
lập ông Lê Đức D trình bày:
Cha mẹ ông là ông Lê Q (sinh năm 1927, chết năm 1991) và bà Đặng Thị B
(sinh năm 1929, chết năm 2020). Năm 1975, cha mẹ ông D khai khẩn được phần
đất ruộng có tổng diện tích khoảng 1.856 m² nay thuộc các thửa đất số 115, 120,
121, 122, 139 và 140 tờ bản đồ số 03 tại phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Mục đích sử dụng của các thửa đất này là trồng lúa và ranh giới giữa các thửa đất
này với các thửa đất liền kề khác được xác định là bở đất (bờ ruộng). Năm 1999,
mẹ của ông D đăng ký đất đai theo diện đại trà, không qua đo đạc thực tế thì được
UBND huyện (nay là thành phố) Tân Uyên cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất với số vào số là 00918 QSDĐ/TU, ngày cấp 23/8/1999, đứng tên người sử
dụng là bà Đặng Thị B đối với các thửa đất số 115, 120, 121 và 122. Do không
được kiểm tra, đo đạc thực tế và không tiến hành xác định mốc giới, ranh giới
thửa đất nên UBND huyện T đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho mẹ
ông D thiếu hai thửa đất số 139 (diện tích khoảng 311,3 m²) và thửa đất số 140
(diện tích khoảng 363 m²). Gia đình ông D không hay biết việc được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất bị thiếu 02 thửa đất này. Cho nên vào năm 2011,
mẹ ông D ký hợp đồng tặng cho ông D quyền sử dụng đất theo giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số 00198 thì ông D được UBND huyện (nay là thành phố) Tân
Uyên cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào số cấp GCN: CH00473, ngày
cấp 08/12/2011 cũng bị thiếu 02 thửa đất số 139 và 140 nêu trên. Bản thân ông D
cũng không phát hiện được việc này cho đến khi Tòa án nhân dân thành phố Tân
Uyên tiến hành đo đạc đất đai trong vụ án “Tranh chấp yêu cầu chia tài sản chung”
giữa nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thu V và các bị đơn bà Nguyễn Thị T và bà Võ
Ngọc H. Lúc này, ông D mới biết thửa đất số 139 và 140 do ông D trực tiếp quản
lý, sử dụng nhưng lại cấp nhầm vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 03
người đồng sở hữu là bà Nguyễn Thị Thu V, bà Nguyễn Thị T và bà Võ Ngọc H
với số bìa lần lược là BB 555297, BB 555296 và BB 555 295, cùng số vào số cấp
GCN là CH00156, cấp cùng ngày 18/9/2010.
Do đó, ông D có yêu cầu độc lập yêu cầu Tòa án giải quyết:
6
+ Buộc bà Nguyễn Thị Thu V, bà Nguyễn Thị T và bà Võ Ngọc H trả lại cho
ông D phần đất có diện tích 674,3 m² thuộc các thửa đất số 139 và 140 tờ bản đồ
số 03 tại phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
+ Kiến nghị với Cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi các Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cấp cho 03 người đồng sử dụng là bà Nguyễn Thị Thu V,
bà Nguyễn Thị T và bà Võ Ngọc H với số bìa lần lược là BB 555297, BB 555296
và BB 555 295, cùng số vào số cấp GCN là CH00156, cùng ngày cấp 18/9/2010.
Quá trình giải quyết vụ án, bà Nguyễn Thị Thu V, bà Nguyễn Thị T và bà
Võ Ngọc H đều xác định phần đất có diện tích 674,3 m² thuộc các thửa đất số 139
và 140 tờ bản đồ số 03 tại phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương là của ông D,
đồng ý với yêu cầu độc lập của ông D. Đồng thời giữa ông D và bà Nguyễn Thị
Thu V, bà Nguyễn Thị T và bà Võ Ngọc H đã tự thoả thuận với nhau về việc giải
quyết phần đất nêu trên. Khi Toà án phân chia các thửa đất còn lại cho các bà,
phần đất của ai tiếp giáp với phần đất ông D thì ông D đồng ý giao 02 thửa đất
nêu trên cho người đó, không yêu cầu bồi hoàn giá trị, không tranh chấp gì đối
với thửa đất trên.
Do đó, ông D rút đơn yêu cầu độc lập.
- Quá trình tố tụng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Huỳnh Xuân
P trình bày: Tài sản tranh chấp có nguồn gốc của cha, mẹ bà H (Vợ ông P) để lại,
là tài sản riêng của bà H. Ông xác định không có liên quan gì, không có yêu cầu
độc lập trong vụ án.
- Quá trình tố tụng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Văn L
trình bày: Tài sản tranh chấp có nguồn gốc của ông, bà của bà V (Vợ ông L) để
lại, là tài sản riêng của bà V, hai vợ chồng đã lập văn bản thoả thuận tài sản riêng
của bà V. Ông xác định không có liên quan gì, không có yêu cầu độc lập trong vụ
án.
- Người làm chứng ông Nguyễn Văn N trình bày: Ông là trưởng khu phố C,
ông biết rõ các thửa đất 7, 8, 9, 10, 345 tờ bản đồ số số 2; 123, 124, 126, 127, 129,
130, 135, 136, 137, 138 tờ bản đồ số 3 phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương
từ trước đến nay do bà T quản lý, canh tác (Trồng lúa), ngoài bà T thì không có
ai canh tác. Còn thửa đất số 139 và 140 tờ bản đồ số 03 tại phường T, thành phố
T, tỉnh Bình Dương là do cha mẹ ông D khai phá và sử dụng từ khoảng năm 1975,
sau đó ông D được cha mẹ cho lại và ông trực tiếp quản lý, sử dụng, canh tác cho
đến nay.
- Người làm chứng ông Võ Văn H2 trình bày: Ông là người sinh sống và
canh tác trên phần đất giáp ranh với các thửa đất tranh chấp. Ông biết rõ các thửa
đất 7, 8, 9, 10, 345 tờ bản đồ số số 2; 123, 124, 126, 127, 129, 130, 135, 136, 137,
7
138 tờ bản đồ số 3 phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương từ trước đến nay do
bà T quản lý, canh tác (Trồng lúa), ngoài bà T thì không có ai canh tác. Còn thửa
đất số 139 và 140 tờ bản đồ số 03 tại phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương là
do cha mẹ ông D khai phá và sử dụng từ khoảng năm 1975, sau đó ông D được
cha mẹ cho lại và ông trực tiếp quản lý, sử dụng, canh tác cho đến nay.
Tại phiên tòa:
- Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu và ý kiến
trình bày trong quá trình giải quyết vụ án. Trường hợp không chia theo ý kiến
trước đây vì lý do không tách thửa được thì nguyên đơn đồng ý với cách chia của
Toà án. Trường hợp ai nhận được nhiều hiện vật hơn thì phải bồi hoàn phần giá
trị chênh lệch cho người được ít hơn. Bà V vẫn yêu cầu được nhận các thửa đất
tiếp giáp với Mương bà T2, phần đất thuộc thửa 139, 140 sẽ giao cho bà H hoặc
bà V khi phần đất được chia tiếp giáp với thửa 139, 140.
- Người đại diện hợp pháp của bà H: Giữ nguyên ý kiến trình bày trong quá
trình giải quyết vụ án. Đồng ý chia 3 phần đối với phần đất tranh chấp cho 3 người
đồng sở hữu là bà Nguyễn Thị Thu V, bà Nguyễn Thị T và bà Võ Ngọc H. Trường
hợp không chia theo ý kiến trước đây bà H trình bày thì Toà án chia theo quy định,
bà H yêu cầu được nhận các thửa đất tiếp giáp với thửa 139, 140. Thay đổi một
phần ý kiến trước đây là bà H không đồng ý trích 500m
2
cho bà T do có công sức
giữ gìn mà yêu cầu chia đều cho ba người. Đối với thửa 139, 140 thì thống nhất
với ý kiến của ông D.
- Bị đơn bà T đồng ý chia đều phần đất tranh chấp cho bà Nguyễn Thị Thu
V, bà Nguyễn Thị T và bà Võ Ngọc H. Bà yêu cầu được nhận phần đất tiếp giáp
với thửa 139, 140. Lý do, bà là người trực tiếp canh tác, quản lý, giữ gìn đất, hơn
nữa phần đất này sẽ được nhận luôn phần diện tích đất của thửa 139, 140 tiếp giáp
với đường đi, sau này bà muốn làm nhà cho con cái ở.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Đức D đồng ý giao phần
đất thuộc thửa 139, 140 cho người được Toà án chia đất tiếp giáp với thửa đất của
ông, ông không có tranh chấp gì trong vụ án. Ông rút toàn bộ yêu cầu độc lập.
- Vị đại diện Viện Kiểmsát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký Tòa
án: Thẩm phán được phân công thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ
các quy định tại Điều 203 của Bộ luật Tố tụng DânTại phiên tòa, Hội đồng xét
xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dânsự
về xét xử sơ thẩm.
8
Về việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án
đến phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng
Dânsự.
Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ
vụ án đã được công bố tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểmsát đề nghị Hội đồng xét
xử:
1. Đình chỉ yêu cầu độc lập của ông Lê Đức D về yêu cầu “Tranh chấp quyền
sử dụng đất” đối với bà Nguyễn Thị Thu V, bà Nguyễn Thị T và bà Võ Ngọc H.
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thu V về
việc “Tranh chấp tài sản chung” đối với bị đơn bà Nguyễn Thị T và bà Võ Ngọc
H.
Chia cho Nguyễn Thị Thu V phần đất có diện tích 4.435,9m² gồm: 76,6m
2
thuộc thửa 07, 616m
2
thuộc thửa 08; 404,7m
2
thuộc thửa 345; 3.338,6m
2
thuộc
thửa 10, tờ bản đồ số 02 tại phường T, thành phố T.
Chia cho bà Võ Ngọc H phần đất có diện tích 3.832,9m
2
gồm: 1993,4m
2
thuộc thửa số 09; 256,4m
2
thửa 130; 578,4m
2
thuộc thửa 129; 500,6m
2
thuộc thửa
127; thuộc tờ bản đồ số 02 và 504,1m
2
thuộc thửa 126 tờ bản đồ số 03 tại phường
T, thành phố T.
Chia cho bà Nguyễn Thị T phần đất có diện tích 4.342m
2
gồm: 1.036,3m
2
thuộc thửa 124; 729,7m
2
thuộc thửa 123; 396,8m
2
thuộc thửa đất 135; 508,6m
2
thuộc thửa 136; 558,6m
2
thuộc thửa 137; 437,7m
2
thuộc thửa 138; 311,3m
2
thuộc
thửa 139 và 363m
2
thuộc thửa 140, tờ bản đồ số 03 tại phường T, thành phố T.
Những yêu cầu, kiến nghị để khắc phục vi phạm về tố tụng: Không.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về việc vắng mặt của các đương sự: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan ông Huỳnh Xuân P, ông Nguyễn Văn L, người làm chứng ông Nguyễn Văn
N và ông Võ Văn H2 đều có văn bản đề nghị giải quyết vắng mặt. Hội đồng xét
xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định tại khoản 1 Điều 227;
khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dânsự.
9
[1.2] Về tư cách tham gia tố tụng: Quá trình thụ lý vụ án, do nhầm lẫn Tòa
án đưa ông Võ Văn T1 (Chồng bà T) vào tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên, tuy nhiên ông T1 đã chết ngày 03/02/2010
(Trước khi thụ lý vụ án). Sau đó, Tòa án đã tiến hành xác minh xác đinh trước khi
nguyên đơn và bị đơn được Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, ông Võ Văn T1 đã làm văn bản thỏa thuận về việc xác
nhận phần đất tranh chấp là tài sản riêng của bà Nguyễn Thị T và được UBND xã
(nay là phường) Thạnh Phước xác nhận ngày 14/10/2009. Do đó, Hội đồng xét xử
không đưa ông Võ Văn T1 cũng như những người thừa kế quyền và nghĩa vụ của
ông T1 tham gia vụ án với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
[1.3] Xét việc rút yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
ông Lê Đức D. Xét thấy, việc rút toàn bộ yêu cầu độc lập của ông Lê Đức D là tự
nguyện nên được Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với phần yêu
cầu này theo khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[2] Về nội dung:
[2.1] Về nguồn gốc đất: Các đương sự thống nhất tài sản tranh chấp là của
ông cố, bà cố ngoại của bà V (bà V là con gái ruột của bà Võ Thị Đ) để lại cho
ông bà ngoại của bà V. Khi ông, bà chết không để lại di chúc và khi Nhà nước có
chủ trương cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đại trà thì ông Võ Văn T1 đã
đi đăng ký và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ngày 28/4/2009, gia
đình thỏa thuận phân chia di sản thừa kế. Do bà Đ đang định cư ở Hoa Kỳ không
đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên cho bà V đứng
tên chung cùng bà Võ Ngọc H, Nguyễn Thị T trên giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Bà Nguyễn Thị Thu V, bà Võ Ngọc H, Nguyễn Thị T đã UBND huyện T cấp
các Giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn
liền với đất số BB 555295, BB 555296, BB 555297 số vào sổ cấp GCN: CH00156
ngày 18/9/2010. Đây là các tình tiết không phải chứng minh theo quy định tại
Điều 92 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[2.2] Về quyền sử dụng đất:
[2.2.1] Về diện tích đất: Tòa án đã tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ và
định giá tài sản đã xác định 17 thửa đất gồm các thửa: 7, 8, 9, 10, 345 tờ bản đồ
số số 2; 123, 124, 126, 127, 129, 130, 135, 136, 137, 138, 139, 140 tờ bản đồ số
3 tại phường T, thành phố T, Bình Dương có diện tích thửa đất thực tế là
12.610,8m², trong đó có 130,8m² thuộc HLATĐB và 360,6m² HLBVM. Theo
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì diện tích thửa đất là 12.944,0m². Tuy
nhiên, sau khi đo vẽ lại hiện trạng và ranh giới sử dụng thì diện tích giảm còn
12.610,8m². Việc diện tích sử dụng giảm nguyên nhân do trước đây khi đăng ký
10
kê khai để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ thực hiện trích lục
bản đồ không thực hiện đo đạc thực tế. Nay đã đo vẽ lại diện tích thì các đương
sự đều đồng ý theo diện tích đo đạc thực tế là 12.610,8m², trong đó có 130,8m²
thuộc HLATĐB và 360,6m² HLBVM vì đây là ranh giới đã sử dụng từ lâu.
[2.2.2] Về tài sản trên đất: Quá trình xem xét, thẩm định tại chỗ xác định là
đất trống, không có công trình xây dựng hay cây trồng có giá trị.
[2.2.3] Về quy hoạch sử dụng đất: Căn cứ nội dung Công văn số
1481/CNTU-KT ngày 17/5/2024 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành
phố T cung cấp thì phần đất tranh chấp diện tích đất 12.610,8m
2
thuộc các thửa 7,
8, 9, 10, 345 tờ bản đồ số 2; 123, 124, 126, 127, 129, 130, 135, 136, 137, 138,
139, 140 tờ bản đồ số 3 tại phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương thể hiện tại
Mảnh trích lục có đo đạc số 92-2023 do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai
thành phố T ban hành ngày 15/5/2023 thì các thửa đất nêu trên quy hoạch sử dụng
đất đến năm 2030 là đất khu vui chơi, giải trí công cộng (DKV), đất sông, ngòi,
kênh rạch, suối (SON) và đất ở đô thị (ODT).
Tại cạnh hướng Đông thửa đất 139, tờ bản đồ số 3 tại phường T tiếp giáp
đường đất. Tuyến đường này đã được cập nhật theo Văn bản số 5114/UBND-SX
ngày 25/11/2019 của UBND thị xã (nay là thành phố) Tân Uyên về việc cập nhật
các tuyến đường, đoạn đường đảm bảo cơ sở pháp lý lên bản đồ địa chính.
[2.3] Đối với phần đất có diện tích 674,3m
2
thuộc thửa đất 139 và 140, tờ
bản đồ số 3. Quá trình tố tụng, ông D có yêu cầu độc lập, yêu cầu nguyên đơn và
bị đơn trả lại 02 thửa đất nêu trên cho ông D vì cho rằng 02 thửa đất trên là của
ông D, bị cấp nhầm cho nguyên đơn và bị đơn. Nguyên đơn và bị đơn đều thừa
nhận 02 thửa đất trên là của ông D. Sau đó, ông D rút yêu cầu độc lập xác định
không tranh chấp, đồng ý giao lại cho bà T hoặc bà H nếu được chia các thửa đất
tiếp giáp với thửa đất 139 và 140 thì sẽ được nhận luôn phần đất này. Mặc dù các
đương sự đều thừa nhận là đất của ông D, tuy nhiên hiện nay giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất vẫn thể hiện là của nguyên đơn và bị đơn. Nên khi chia tài sản
chung cho các đương sự thì sẽ chia phần đất có tổng diện tích 12.610,8m
2
, nhưng
chỉ lấy phần đất có diện tích 11.936,5m
2
thuộc các thửa 7, 8, 9, 10, 345 tờ bản đồ
số số 2; 123, 124, 126, 127, 129, 130, 135, 136, 137, 138, tờ bản đồ số 3 phường
T, thành phố T chia đều cho bà Nguyễn Thị Thu V, bà Võ Ngọc H, Nguyễn Thị
T mỗi người được 3.978,83m
2
. Còn phần đất có diện tích 674,3m
2
thuộc thửa đất
139 và 140, tờ bản đồ số 3 sẽ giao cho người được nhận liền kề. Đây là sự tự
nguyện của các đương sự nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
Theo kết quả định giá thì phần đất tranh chấp trị giá 12.610,8m
2
x 500.000
đồng/m
2
= 6.305.400.000. Tuy nhiên các đương sự chỉ yêu cầu chia phần đất có
11
diện tích 11.936,5m
2
, mỗi người được 3.978,83m
2
để làm căn cứ tính giá trị bồi
hoàn diện tích chênh lệch khi chia, riêng phần diện tích 674,3m
2
giao cho người
nhận phần đất liền kề nên không yêu cầu tính giá trị phần chênh lệch để bồi hoàn
cho những người còn lại. Đây là sự tự nguyện của các đương sự nên Hội đồng xét
xử ghi nhận.
[2.5] Nguyên đơn và bị đơn đều thống nhất chia phần đất tranh chấp làm 3
phần bằng nhau, tuy nhiên giữa bị đơn là bà Nguyễn Thị T và bà Võ Ngọc H
không tự thoả thuận vị trí phần đất của mình được nhận, bà Nguyễn Thị T và bà
Võ Ngọc H đều yêu cầu được nhận các thửa đất tiếp giáp với thửa đất 139 và 140.
Do, không thoả thuận được nên đề nghị chia theo quy định, chia ở đâu sẽ nhận ở
đó. Do đó, Hội đồng xét xử xem xét, cân nhắc để chia các thửa đất cho các đương
sự phù hợp.
Do vị trí, diện tích của mỗi thửa đất khác nhau nên mỗi phần nhận được sẽ
có diện tích khác nhau, để đảm bảo việc thanh toán giá trị chênh lệch, đồng thời
đảm bảo đủ diện tích để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì Hội
đồng xét xử sẽ chia cho các đương sự, mỗi người các thửa đất liền kề với nhau,
nếu người nhận phần diện tích lớn hơn sẽ thanh toán giá trị chênh lệch cho người
còn lại.
[2.5.1] Theo biên bản xác minh của Ủy ban nhân dân phường T, lời khai
người làm chứng, cũng như các đương sự trong vụ án đều xác định bà Nguyễn
Thị T là người trực tiếp quản lý, sử dụng canh tác phần đất tranh chấp từ trước
đến nay. Do bà T là người có công sức quản lý, giữ gìn nên Hội đồng xét xử sẽ
tính % công sức cho bà T khi chia đất. Tuy nhiên, tại phiên toà bà T có ý kiến, xin
được nhận phần đất tiếp giáp với đất ông D, tự nguyện không yêu cầu trích %
công sức. Đây là sự tự nguyện của các đương sự, phù hợp nên Hội đồng xét xử
chấp nhận.
[2.5.2] Chia hiện vật cho các đương sự như sau:
Chia cho bà Nguyễn Thị Thu V phần đất có diện tích 4.435,9m² gồm: 76,6m
2
thuộc thửa 07, 616m
2
thuộc thửa 08; 404,7m
2
thuộc thửa 345; 3.338,6m
2
thuộc
thửa 10, tờ bản đồ số 02 tại phường T, thành phố T.
Chia cho bà Võ Ngọc H phần đất có diện tích 3.832,9m
2
gồm: 1993,4m
2
thuộc thửa số 09; 256,4m
2
thửa 130; 578,4m
2
thuộc thửa 129; 500,6m
2
thuộc thửa
127; thuộc tờ bản đồ số 02 và 504,1m
2
thuộc thửa 126 tờ bản đồ số 03 tại phường
T, thành phố T.
Chia cho bà Nguyễn Thị T phần đất có diện tích 4.342m
2
gồm: 1.036,3m
2
thuộc thửa 124; 729,7m
2
thuộc thửa 123; 396,8m
2
thuộc thửa đất 135; 508,6m
2
12
thuộc thửa 136; 558,6m
2
thuộc thửa 137; 437,7m
2
thuộc thửa 138; 311,3m
2
thuộc
thửa 139 và 363m
2
thuộc thửa 140, tờ bản đồ số 03 tại phường T, thành phố T.
Do phần diện tích đất của bà V có diện tích lớn hơn phần được chia
(3.978,83m
2
), nên bà V có trách nhiệm thanh toán giá trị đất chênh lệch cho T và
bà H, cụ thể; Bà T là 155.550.000 đồng; Bà H là 72.950.000 đồng.
[3] Từ những phân tích trên có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thu V về việc Tranh chấp chia chia tài sản chung đối
với bị đơn bà Võ Ngọc H, bà Nguyễn Thị T.
[5] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp nên
chấp nhận.
[6] Về chi phí tố tụng: Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định
giá tài sản là 10.000.000 đồng. Các đương sự phải chịu theo quy định, bà V đã
nộp tạm ứng số tiền trên, do đó buộc bà H và bà T mỗi người nộp lại 3.333.000
đồng để trả lại cho bà V.
[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ vào Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân
sự, Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Nguyên đơn, bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ
thẩm có giá ngạch tương ứng với phần giá trị tài sản được nhận. Trong đó, bị đơn
được miễn án phí do là người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ:
- Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; Điều 92; Điều 147;
Điều 157; Điều 165; khoản 1 Điều 227; Khoản 1 Điều 228; Điều 244; Điều 266;
Điều 271; Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Điều 209, 219, 357, 468 của Bộ luật Dân sự;
- Điều 166; 167 của Luật đấtđai;
- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thườngvụ
Quốc Hộiđịnh về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ
phí tòa;
Tuyên xử:
1. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan ông Lê Đức D về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất” đối với quyền
13
sử dụng đất thuộc thửa đất số 139 và 140, tờ bản đồ số 3 tại phường T, thành phố
T, tỉnh Bình Dương.
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thu V đối
với bị đơn bà Võ Ngọc H, bà Nguyễn Thị T về việc “Tranh chấp yêu cầu chia tài
sản chung”.
- Phân chia tài sản chung là phần đất có diện tích 12.610,8m
2
thuộc các thửa
7, 8, 9, 10, 345 tờ bản đồ số số 2; 123, 124, 126, 127, 129, 130, 135, 136, 137,
138, 139, 140 tờ bản đồ số 3 phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Được Uỷ
ban nhân dân huyện (Nay là thành phố) Tân Uyên cấp các Giấy Chứng nhận quyền
sử dụng đất quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất số BB 555295, BB
555296, BB 555297 số vào sổ cấp GCN: CH00156 ngày 18/9/2010 cho bà
Nguyễn Thị Thu V, bà Võ Ngọc H, bà Nguyễn Thị T.
- Về hiện vật các đương sự được chia như sau:
+ Bà Nguyễn Thị Thu V được quyền quản lý, sử dụng phần đất có diện tích
4.435,9m² gồm: 76,6m
2
thuộc thửa 07, 616m
2
thuộc thửa 08; 404,7m
2
thuộc thửa
345; 3.338,6m
2
thuộc thửa 10, tờ bản đồ số 02 tại phường T, thành phố T, tỉnh
Bình Dương (Trong đó có 360m
2
thuộc HLBVM).
+ Bà Võ Ngọc H được quyền quản lý, sử dụng phần đất có diện tích
3.832,9m
2
gồm: 1993,4m
2
thuộc thửa số 09; 256,4m
2
thửa 130; 578,4m
2
thuộc
thửa 129; 500,6m
2
thuộc thửa 127; thuộc tờ bản đồ số 02 và 504,1m
2
thuộc thửa
126 tờ bản đồ số 03 tại phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
+ Bà Nguyễn Thị T được quyền quản lý, sử dụng phần đất có diện tích
4.342m
2
gồm: 1.036,3m
2
thuộc thửa 124; 729,7m
2
thuộc thửa 123; 396,8m
2
thuộc
thửa đất 135; 508,6m
2
thuộc thửa 136; 558,6m
2
thuộc thửa 137; 437,7m
2
thuộc
thửa 138; 311,3m
2
thuộc thửa 139 và 363m
2
thuộc thửa 140, tờ bản đồ số 03 tại
phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương (Trong đó có 130.8m
2
thửa 139, 140
thuộc HLATĐB).
(Có sơ đồ bản vẽ kèm theo).
Về nghĩa vụ thanh toán:
Bà Nguyễn Thị Thu V có trách nhiệm thanh toán giá trị đất chênh lệch cho
bà Nguyễn Thị T số tiền 155.550.000 đồng (Một trăm năm mươi lăm triệu năm
trăm năm mươi lăm nghìn đồng); cho bà Võ Ngọc H số tiền 72.950.000 đồng (Bảy
mươi hai triệu chín trăm năm mươi nghìn đồng).
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án (đối với các
khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên
14
phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức
lãi suất quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
Kiến nghị Cơ quan có thẩm quyền quản lý về đất đai thu hồi các Giấy Chứng
nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất số BB
555295, BB 555296, BB 555297 số vào sổ cấp GCN: CH00156 ngày 18/9/2010
do Uỷ ban nhân dân huyện (Nay là thành phố) Tân Uyên cấp cho bà Võ Ngọc H,
Nguyễn Thị Thu V, Nguyễn Thị T để cấp lại theo quyết định của bản án này.
Các đương sự có nghĩa vụ liên hệ Cơ quan có thẩm quyền để đăng ký kê khai
để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo đúng quy định pháp luật.
3. Về chi phí tố tụng: Bà Nguyễn Thị Thu V, bà Võ Ngọc H, bà Nguyễn Thị
T mỗi người phải chịu 3.333.000 đồng (Ba triệu ba trăm ba mươi ba nghìn đồng)
chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản. Bà Nguyễn Thị Thu
V đã nộp 10.000.000 đồng, bà Võ Ngọc H, bà Nguyễn Thị T mỗi người phải nộp
lại 3.333.000 đồng (Ba triệu ba trăm ba mươi ba nghìn đồng) để trả cho bà Nguyễn
Thị Thu V.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Bà Nguyễn Thị Thu V phải chịu số tiền 71.682.450 đồng (Bảy mươi mốt
triệu sáu trăm tám mươi hai nghìn bốn trăm năm mươi đồng), được khấu trừ số
tiền 7.500.000 đồng (Bảy triệu năm trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng
án phí, lệ phí Tòa án số 0006443 ngày 09/11/2022 của Chi cục Thi hành án dân
sự thành phố Tân Uyên. Bà Nguyễn Thị Thu V còn phải nộp số tiền 64.182.245
đồng (Sáu mươi bốn triệu một trăm tám mươi hai nghìn hai trăm bốn mươi lăm
đồng).
Bị đơn bà Võ Ngọc H và bà Nguyễn Thị T được miễn án phí dân sự sơ thẩm.
Trả lại cho ông Lê Đức D số tiền 7.500.000 đồng (Bảy triệu năm trăm nghìn
đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001198 ngày 26/3/2024
và số tiền 600.000 đồng (Sáu trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí,
lệ phí Tòa án số 0005098 ngày 11/3/2025 của Chi cục Thi hành án dân sự thành
phố Tân Uyên.
5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Nếu vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày
kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
15
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật
Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều
30 Luật Thi hành án dân sự./.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Bình Dương;
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- VKSND thành phố Tân Uyên;
- Chi cục THADS thành phố Tân Uyên;
- Các đương sự;
- Lưu VT, HS.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đậu Thị Loan
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 11/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 04/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Bản án số 283/2025/DS-PT ngày 29/05/2025 của TAND tỉnh Đồng Tháp về tranh chấp về chia tài sản chung
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 26/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Bản án số 274/2025/DS-PT ngày 26/05/2025 của TAND tỉnh Đồng Tháp về tranh chấp về chia tài sản chung
Ban hành: 26/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 21/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 20/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 20/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 16/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 15/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 15/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 07/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 05/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 11/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm