Bản án số 731/2025/DS-PT ngày 19/09/2025 của TAND tỉnh Đồng Tháp về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 731/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 731/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 731/2025/DS-PT
| Tên Bản án: | Bản án số 731/2025/DS-PT ngày 19/09/2025 của TAND tỉnh Đồng Tháp về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đồng Tháp |
| Số hiệu: | 731/2025/DS-PT |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 19/09/2025 |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | Chia thừa kế QSD đất giữa Lê Thị N và Lê Thị K |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐỒNG THÁP
Bản án số: 731/2025/DS-PT
Ngày: 19/9/2025
“V/v tranh chấp về dân sự
chia thừa kế quyền sử dụng
đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANHNƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP
-Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Ông Nguyễn Phú Thọ
Các Thẩm phán:
Bà Nguyễn Thị Thuý Hằng;
Bà Nguyễn Thị Võ Trinh;
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Mộng Tuyền - Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Đồng Tháp.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp tham gia phiên tòa:
Bà Huỳnh Thị Đạm - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 12 và 19 tháng 09 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân
tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 435/2024/TLPT-DS
ngày 21 tháng 10 năm 2024, về việc “Tranh chấp về dân sự chia thừa kế quyền
sử dụng đất”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 27/2024/DS-ST ngày 12 tháng 7 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp (Nay là Khu vực 12
– Đồng Tháp) bị kháng cáo.
Theo thông báo thời gian mở lại phiên tòa số 386/2025/TB-TA ngày 24
tháng 07 năm 2025 và Quyết định hoãn phiên toà phúc thẩm số 620/2025/QĐ-PT,
ngày 14 tháng 09 năm 2025, giữa:
- Nguyên đơn:
1. Bà Lê Thị K, sinh năm 1959 (có mặt);
2. Bà Lê Thị Đ, sinh năm 1946 (có mặt);
3. Ông Lê Văn K1, sinh năm 1945;
4. Ông Lê Văn O, sinh năm 1951 (có mặt);
5. Bà Lê Thị S, sinh năm 1957;
6. Bà Lê Thị C, sinh năm 1962;
Cùng địa chỉ cư trú: Khóm A, phường A, thành phố H, tỉnh Đồng Tháp.
7. Ông Lý Văn V, sinh năm 1949; (Vắng mặt)
2
8. Ông Đặng Văn H, sinh năm 1955 (Vắng mặt);
Cùng địa chỉ: Ấp P, xã P, huyện H, tỉnh Đồng Tháp.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Lê Văn K1, bà Lê Thị C, bà Lê Thị
S và ông Lý Văn V: Bà Lê Thị K; Địa chỉ: khóm A, phường A, thành phố H, tỉnh
Đồng Tháp;
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Lê Thị K: Luật sư Lê Phi
T, sinh năm 1956 – Văn phòng L3 thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đ; Địa chỉ: Ấp B, xã
P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp;
- Bị đơn:
1. Bà Lê Thị N, sinh năm 1977 (có mặt);
2. Bà Lê Thị B, sinh năm 1974 (có mặt);
Cùng địa chỉ: Khóm A, phường A, thành phố H, tỉnh Đồng Tháp.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Lê Thị N: Bà Lê Thị Bé T1, sinh năm:
1985; Địa chỉ: Số D Lô A, KDC C, khóm H, phường S, tỉnh Đồng Tháp;
Người đại diện theo ủy quyền của bà Lê Thị B: Anh Nguyễn Mai Thanh
T2, sinh năm: 1996; Địa chỉ: Ấp P, xã T, tỉnh Đồng Tháp;
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Lê Thị N và bà Lê Thị B:
Luật sư Lê Thị Vân L – Văn phòng L4, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đ; địa chỉ: Số C,
khóm H, phường S, tỉnh Đồng Tháp;
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Phạm Thị T3 (Vắng mặt không lý do);
2. Anh Lê Văn N1 (Vắng mặt không lý do);
3. Anh Lê Văn N2 (Vắng mặt không lý do);
4. Anh Lê Văn T4 (Vắng mặt không lý do);
5. Bà Lê Thị Ấ, sinh năm 1970 (Vắng mặt có đơn);
Cùng địa chỉ cư trú: Khóm A, phường A, thành phố H, tỉnh Đồng Tháp;
6. Ông Lý Văn T5, sinh năm 1947 (Vắng mặt có đơn);
7. Ông Lý Văn T6, sinh năm 1966 (Vắng mặt có đơn);
Cùng địa chỉ cư trú: Ấp P, xã P, huyện H, tỉnh Đồng Tháp.
8. Bà Lê Thị L1, sinh năm 1963 (Vắng mặt có đơn);
Địa chỉ cư trú: Ấp P, xã P, huyện H, tỉnh Đồng Tháp.
9. Bà Lê Thị H1, sinh năm 1963.
Địa chỉ cư trú: Khóm D, phường A, thành phố H, tỉnh Đồng Tháp.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Lê Thị H1 (tại phiên toà ngày
19/9/2025): Anh Nguyễn Mai Thanh T2, sinh năm: 1996; cư trú tại: Ấp P, xã T,
tỉnh Đồng Tháp (Có mặt);
10. Bà Lê Thị R, sinh năm 1967 (Vắng mặt có đơn);
3
Địa chỉ cư trú: Khóm D, phường A, thành phố H, tỉnh Đồng Tháp.
* Người kháng cáo: Bà Lê Thị N và bà Lê Thị B là bị đơn;
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Trong đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án
cũng như tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn là bà Lê Thị K (Cũng là người
đại diện hợp pháp của ông Lê Văn K1, bà Lê Thị C, bà Lê Thị S và ông Lý Văn
V) trình bày:
Trước đây, bà ngoại tên Nguyễn Thị C1 và ông ngoại tên Lê Văn C2. Trong
thời gian chung sống có với nhau được 04 người con gồm: (1) Lê Văn P, sinh năm
1920 (chết năm 2008); (2) Lê Thị M, sinh năm 1923 (chết năm 2006); (3) Nguyễn
Thị S1, sinh năm 1924 (chết năm 2016); (4) Lê Thị S2, sinh năm 1925 (chết năm
1995). Bà ngoại (Nguyễn Thị C1) được ông bà cho phần đất có chiều ngang 30m
x dài 76m, đất toạ lạc tại ấp A, xã A, huyện H (nay là khóm A, phường A, thành
phố H), tỉnh Đồng Tháp. Khi đo đạc chia đất do cụ ông Nguyễn Văn N3 (ông T7
của các bên đương sự) là người đứng ra đo đạc cắt đất ra cho bà ngoại (Nguyễn
Thị C1). Nói là cho bà ngoại (Nguyễn Thị C1), nhưng thực tế cụ ông Nguyễn Văn
N3 cắt đất ra cho những người con của bà ngoại vì lúc này bà ngoại đã chết.
Khi cụ ông Nguyễn Văn N3 cắt chia phần diện tích đất xong, thì các con
của bà ngoại yêu cầu chia di sản thừa kế của bà ngoại để lại. Lúc này, cụ ông Lê
Văn P là người anh cả trong gia đình có bàn bạc với các em là con cháu càng ngày
càng đông để phần đất này lại để làm đất mộ chung trong tông chi, khi nào em út
con cháu ai chết mang vào chôn khỏi phải nhờ vã đất của người ta và không cho
ai đăng ký quyền sử dụng riêng. Nhận thấy anh mình nói vậy cũng phải, anh chị
em trong gia đình đều thống nhất vì anh chị em trong nhà đều có nơi ở sinh sống
ổn định rồi, một phần cũng nghĩ là để lại gìn giữ phần đất tông chi. Sau đó, ông
Lê Văn O (con bà Nguyễn Thị S1) cùng ông Lê Văn P vào đào đất đắp nền mộ,
ông Lê Văn O thì trồng tre còn ông Lê Văn P thì trồng chuối. Do ông, bà ngoại
đã chết, nhưng không để lại di chúc. Do đó, nguyên đơn yêu cầu chia thừa kế theo
quy định của pháp luật.
Cụ Lê Văn P, sinh năm 1920 (chết năm 2008) có vợ tên Nguyễn Thị T8,
sinh năm 1925 (chết năm 2021) và có các con gồm: Lê Văn M1 (đã chết), Lê Thị
L1, Lê Thị H1, Lê Thị R, Lê Thị Ấ, Lê Thị B, Lê Thị N. Trong đó, Lê Văn M1
có vợ tên Phạm Thị T3 và các con gồm: Lê Văn N1, Lê Văn N2, Lê Văn T4.
Cụ Lê Thị M, sinh năm 1923 (chết năm 2006) có chồng tên Đặng Văn L2
(đã chết) và có 01 người con tên Đặng Văn H.
Cụ Nguyễn Thị S1, sinh năm 1924 (chết năm 2016) có chồng tên Lê Văn
Ở, sinh năm 1914 (đã chết) và có các con gồm: Lê Thị Đ, Lê Văn K1, Lê Văn O,
Lê Thị S, Lê Thị K, Lê Thị C.
Cụ Lê Thị S2, sinh năm 1924 (chết năm 1995) có chồng tên Lý Văn Đ1,
sinh năm 1921 (đã chết) và có các con gồm: Lý Văn T5, Lý Văn V, Lý Văn T6.
4
Đến năm 1994-1995, thì cụ Nguyễn Thị T8 (vợ của cụ Lê Văn P) chặt hết
chuối, cất xây chuồng heo và ở luôn tại chuồng heo, đào ao nuôi cá không báo,
không xin gì cả, đến năm 1997 thì cụ Nguyễn Thị T8 cất nhà ở luôn. Lúc này, chị
em thấy không ổn có gặp cụ Lê Văn P hỏi thì cụ Lê Văn P nói là “chưa có ai chết
tạm thời để cho vợ cụ nuôi heo và nuôi cá, khi nào tông chi cần thì vợ cụ sẽ lắp
trả lại mặt bằng cho tông chi”, cụ Lê Văn P còn nói “do hai vợ chồng bất hoà,
giận nhau nên vợ cụ che tạm hết giận cũng thu sếp lại về nhà lớn ở chứ ai ở trong
đó làm gì”.
Năm 2004-2005, ông Lê Văn O là con của cụ Nguyễn Thị S1, do mẹ tuổi
đã cao, sức yếu không biết chết khi nào, chết không có chỗ để an táng nên ông Lê
Văn O nhiều lần đến gặp cụ Lê Văn P nói về phần đất trên thì cụ Lê Văn P có nói
“gấp gáp gì chừng nào chết sẽ tính” .
Đến cuối năm 2007, thì cụ Lê Văn P chết, vợ con cụ không đem cụ vào
chôn trên phần đất tông chi để chôn mà mang cụ ra phần đất nhà lớn của cụ chôn.
Thấy tình hình không ổn nên cụ Nguyễn Thị S1 cùng chị em có đến gặp cụ
Nguyễn Thị T8 yêu cầu cụ Nguyễn Thị T8 phải phân chia phần đất của tông chi
cho các chị em trong gia đình.
Lúc này, cụ Nguyễn Thị T8 cũng thống nhất chia, khi tiến hành đo đạc chia
có hàng xóm xung quanh chứng kiến và xuống cọc ranh rõ ràng, phần đất được
chia làm 04 phần bằng nhau mỗi người con của bà ngoại hưởng một phần có chiều
ngang 7,5m x dài 76m, gồm: Cụ Lê Văn P (chồng cụ Nguyễn Thị T8), cụ Lê Thị
M, cụ Nguyễn Thị S1 và cụ Lê Thị S2. Khi đo đạc chia xong thì tất cả cùng về
nhà của cụ Nguyễn Thị S1 nghỉ ngơi uống nước thì người cháu tên Lê Văn M1
(con của cụ Nguyễn Thị T8) ra chửi mắng cả họ nói “Tụi bây thằng nào con nào
bước chân vào đất đó tao đâm bỏ mẹ tụi mầy hết”. Do quá bức xúc cả họ tộc đã
uỷ quyền lại cho bà Lê Thị K đến báo chính quyền địa phương, khi đến Ủy ban
nhân dân Ấ1 thì cụ Nguyễn Thị T8 lại nghe lời con trai nói ngược sai sự thật hết
mọi chuyện.
Bà Lê Thị K tiếp tục làm đơn khiếu nại gửi Uỷ ban nhân dân xã, Phòng Tài
nguyên và Môi trường của huyện nhưng đều hoà giải không thành; tiếp đó, bà Lê
Thị K có gửi đến Thanh tra tỉnh, Uỷ ban nhân dân tỉnh thì UBND tỉnh có văn bản
gửi cho Phòng T9 yêu cầu giải quyết vụ việc. Khi về làm việc lại với Phòng T9
có hướng dẫn bà Lê Thị K kiện ra Toà án để được giải quyết vì vụ việc không
thuộc thẩm quyền giải quyết của Phòng T9.
Sau khi được hướng dẫn thì gia đình bà Lê Thị K gặp sự cố, bà Lê Thị K
phải chăm lo cho gia đình nên vụ việc kéo dài cho đến nay, cụ Nguyễn Thị T8 đã
chết và để lại phần đất này cho 02 người con tên bà Lê Thị B và bà Lê Thị N trực
tiếp quản lý, sử dụng.
Đối với yêu cầu phản tố, nguyên đơn thống nhất với một phần yêu cầu,
thống nhất nếu những người được hưởng sẽ có trách nhiệm trả lại cho bà Lê Thị
N, bà Lê Thị B số tiền 58.000.000đồng (năm mươi tám triệu đồng), chia thành 04
5
phần = 14.500.000đồng (mười bốn triệu năm trăm nghìn đồng), mỗi người được
hưởng có trách nhiệm trả 01 phần.
Đối với yêu cầu công nhận toàn bộ quyền sử dụng đất đang tranh chấp cho
cá nhân Lê Thị N đứng tên giấy chứng nhận, nguyên đơn không thống nhất.
* Bà Lê Thị K yêu cầu chia thừa kế quyền sử dụng đất như sau:
Các ông, bà: Lê Thị K, Lê Thị Đ, Lê Văn K1, Lê Văn O, Lê Thị S, Lê Thị
C được hưởng thừa kế quyền sử dụng đất diện tích 440,4m
2
, thuộc một phần thửa
1847, tờ bản đồ số 4 (bản đồ địa chính chính quy năm 2023), đất tọa lạc tại khóm
A, phường A, thành phố H, tỉnh Đồng Tháp; yêu cầu nhận đất, không nhận giá trị
đất, yêu cầu công nhận phần quyền sử dụng đất được chia cho cá nhân bà Lê Thị
K đứng tên giấy chứng nhận.
Ông Lý Văn V được hưởng thừa kế quyền sử dụng đất diện tích 564,1m
2
,
thuộc một phần thửa 1847, tờ bản đồ số 4 (bản đồ địa chính chính quy năm 2023),
đất tọa lạc tại khóm A, phường A, thành phố H, tỉnh Đồng Tháp; yêu cầu nhận
đất, không nhận giá trị đất, yêu cầu công nhận phần quyền sử dụng đất được chia
cho cá nhân ông Lý Văn V đứng tên giấy chứng nhận.
Ông Đặng Văn H được hưởng thừa kế quyền sử dụng đất diện tích 470,9m
2
,
thuộc một phần thửa 1847, tờ bản đồ số 4 (bản đồ địa chính chính quy năm 2023),
đất tọa lạc tại khóm A, phường A, thành phố H, tỉnh Đồng Tháp; yêu cầu nhận
đất, không nhận giá trị đất, yêu cầu công nhận phần quyền sử dụng đất được chia
cho cá nhân ông Đặng Văn H đứng tên giấy chứng nhận.
Bà Lê Thị B và bà Lê Thị N được hưởng thừa kế quyền sử dụng đất diện
tích 795,1m
2
.
- Nguyên đơn là ông Lê Văn O trình bày: Thống nhất lời trình bày và yêu
cầu của bà Lê Thị K. Ngoài ra, không ý kiến, yêu cầu gì thêm.
- Nguyên đơn là bà Lê Thị Đ trình bày: Thống nhất lời trình bày và yêu
cầu của bà Lê Thị K. Ngoài ra, không ý kiến, yêu cầu gì thêm.
- Nguyên đơn là ông Đặng Văn H trình bày: Thống nhất theo lời trình bày
của bà Lê Thị K; yêu cầu bị đơn phải chia thừa kế cho ông Đặng Văn H được
hưởng quyền sử dụng đất diện tích 470,9m
2
, thuộc một phần thửa 1847, tờ bản đồ
số 4 (bản đồ địa chính chính quy năm 2023), đất tọa lạc tại khóm A, phường A,
thành phố H, tỉnh Đồng Tháp; yêu cầu nhận đất, không nhận giá trị đất, yêu cầu
công nhận phần quyền sử dụng đất được chia cho cá nhân ông Đặng Văn H đứng
tên giấy chứng nhận.
*Bị đơn là bà Lê Thị N, bà Lê Thị B trình bày: Năm 1976, bà nội tên
Nguyễn Thị C1 (đã chết), để lại quyền sử dụng đất diện tích 2,5 công đất rẫy, 06
công đất ruộng, thửa đất số 99, tờ bản đồ số 09 cho cha tên Lê Văn P quản lý, sử
dụng và canh tác. Đến năm 1977, ông Nguyễn Văn N3 (còn gọi là ông T7 của các
đương sự) chia phần của bà nội cho cha của bị đơn tiếp tục quản lý, sử dụng phần
đất ở thửa số 117, tờ bản đồ số 23. Năm 1992, các cô tên Lê Thị M, Nguyễn Thị
6
S1, Lê Thị S2 đứng ra chia phần. Ba của bị đơn được chia 2,5 công đất rẫy, còn
các cô mỗi người được chia 02 công đất ruộng. Nhưng hiện nay, các cô lại cho
rằng 2,5 công đất rẫy này không chia cho cha của bị đơn mà để lại là đất hương
quả. Như vậy, cha của bị đơn không có phần đất nào cả. Còn phần đất thuộc thửa
đất số 117, tờ bản đồ số 23 là đất đang tranh chấp hiện nay thì không chia, để cha
của bị đơn tiếp tục canh tác cho đến nay. Năm 2007, bà Lê Thị K khiếu nại đến
Phòng T9 huyện và tỉnh, kéo dài 2 – 3 năm, cuối cùng quyết định bác bỏ đơn
khiếu nại của bà Lê Thị K, gia đình của bị đơn tiếp tục sử dụng. Cha của bị đơn
đã canh tác đất này từ năm 1977 và khi cha của bị đơn chết năm 2007 và giao lại
cho chị em của bị đơn tiếp tục quản lý, sử dụng cho đến nay.
Trên phần đất này, bị đơn có đổ cát, tôn tạo nền với tổng số tiền
58.000.000đồng (năm mươi tám triệu đồng).
Bị đơn thống nhất chỉ tranh chấp quyền sử dụng đất và số tiền đổ cát nền
(sang lắp mặt bằng đất) nêu trên, ngoài ra không tranh chấp tài sản nào khác.
Qua yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bị đơn không thống nhất, vì đây là
đất của gia đình bị đơn.
- Bị đơn có yêu cầu phản tố như sau: Công nhận toàn bộ quyền sử dụng
đất đang tranh chấp diện tích 2.270,5m
2
, thửa đất số 1847, tờ bản đồ số 4 (bản đồ
địa chính chính quy năm 2023), đất tọa lạc tại khóm A, phường A, thành phố H,
tỉnh Đồng Tháp cho cá nhân bà Lê Thị N đứng tên giấy chứng nhận; nếu Tòa án
chia thừa kế cho nguyên đơn thì bị đơn yêu cầu mỗi người được hưởng thừa kế
quyền sử dụng đất diện tích nêu trên có trách nhiệm trả lại cho bị đơn với số tiền
là 14.500.000đồng (Số tiền 58.000.000đồng : 04 phần = 14.500.000đồng).
* Tại bản án dân s sơ thẩm đã tuyên xử:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Các ông, bà: Lê Thị K, Lê Thị Đ, Lê Văn K1, Lê Văn O, Lê Thị S, Lê Thị
C được hưởng thừa kế quyền sử dụng đất diện tích 440,4m
2
(vị trí 1, trong phạm
vi từ mốc 1, 15, 18, 13, 14 và trở về mốc 1), thuộc một phần thửa đất số 1847, tờ
bản đồ số 4 (bản đồ địa chính chính quy năm 2023), đất tọa lạc tại khóm A, phường
A, thành phố H, tỉnh Đồng Tháp.
Ông Lý Văn V được hưởng thừa kế quyền sử dụng đất diện tích 564,1m
2
(vị trí 6, trong phạm vi từ mốc 6, 7, 8, 9, 10 và trở về mốc 6), thuộc một phần thửa
đất số 1847, tờ bản đồ số 4 (bản đồ địa chính chính quy năm 2023), đất tọa lạc tại
khóm A, phường A, thành phố H, tỉnh Đồng Tháp.
Ông Đặng Văn H được hưởng thừa kế quyền sử dụng đất diện tích 470,9m
2
(vị trí 5, trong phạm vi từ mốc 6, 10, 17, 16 và trở về mốc 6), thuộc một phần thửa
đất số 1847, tờ bản đồ số 4 (bản đồ địa chính chính quy năm 2023), đất tọa lạc tại
khóm A, phường A, thành phố H, tỉnh Đồng Tháp.
Bà Lê Thị N được hưởng thừa kế quyền sử dụng đất diện tích 795,1m
2
(vị
trí 2, 3, 4, trong phạm vi từ mốc 15, 2, 3, 4, 5, 16, 17, 11, 12, 18 và trở về mốc
7
15), thuộc một phần thửa đất số 1847, tờ bản đồ số 4 (bản đồ địa chính chính quy
năm 2023), đất tọa lạc tại khóm A, phường A, thành phố H, tỉnh Đồng Tháp.
Buộc bà Lê Thị B và bà Lê Thị N phải liên đới có trách nhiệm trả lại cho
bà Lê Thị K, ông Lý Văn V, ông Đặng Văn H quyền sử dụng đất diện tích nêu
trên.
Bà Lê Thị K, ông Lý Văn V, ông Đặng Văn H, bà Lê Thị N có quyền đến
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác lập thủ tục đăng ký, kê khai để được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn đối với số tiền sang lấp
mặt bằng.
Công nhận sự tự nguyện của các đương sự; bà Lê Thị K, ông Lý Văn V,
ông Đặng Văn H, mỗi người thống nhất trả lại cho bà Lê Thị B và bà Lê Thị N
với số tiền sang lắp mặt bằng là 14.500.000đồng (Mười bốn triệu năm trăm nghìn
đồng).
Ngoài ra bản án còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí, quyền kháng cáo và
thi hành án.
Sau khi xét xử sơ thẩm: Ngày 23 tháng 7 năm 2024, bà Lê Thị N và bà Lê
Thị B là bị đơn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm số: 27/2024/DS-ST, ngày 12
tháng 7 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp
(Nay là Tòa án nhân dân khu vực 12 – Đồng Tháp); Bà N và bà B yêu cầu sửa
bản án sơ thẩm theo hướng: Áp dụng thời hiệu khởi kiện chia thừa kế đối với vụ
án; Công nhận cho các bà N, B được tiếp tục quản lý sử dụng và công nhận cho
bà N, bà B được quyền sử dụng và đăng ký toàn bộ diện tích tích 2.270,5m
2
, thuộc
thửa đất số 1847, tờ bản đồ số 4, đất tọa lạc tại khóm A, phường A, thành phố H,
tỉnh Đồng Tháp.
Tại đơn kháng cáo bổ sung đề ngày 06/12/2024 bà Lê Thị N và bà Lê Thị
B yêu cầu huỷ bản án sơ thẩm.
* Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Bà Lê Thị N và bà Lê Thị B là bị đơn: Giữ nguyên yêu cầu kháng cáo,
đồng thời đề nghị huỷ án sơ thẩm do có vi phạm tố tụng và nội dung;
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày: Do cấp sơ
thẩm vi phạm tố tụng và nội dung nên đề nghị huỷ bản án sơ thẩm.
- Bà K, bà Đ, ông O không đồng ý yêu cầu kháng cáo của bị đơn và yêu
cầu giữ nguyên bản án sơ thẩm;
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà K trình bày: Không đồng
ý yêu cầu kháng cáo của bị đơn và yêu cầu giữ nguyên bản án sơ thẩm;
- Bà Lê Thị H1 yêu cầu: Đề nghị huỷ án sơ thẩm;
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp phát biểu ý kiến:
8
+ Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và các đương sự trong quá trình
giải quyết vụ án đảm bảo chấp hành đúng quy định của pháp luật.
+ Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3, Điều 308 của Bộ
luật tố tụng dân sự; Huỷ bản án sơ thẩm số: 27/2024/DS-ST ngày 12 tháng 7 năm
2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hồng Ngự (Nay là Khu vực 12), tỉnh Đồng
Tháp và giao hồ sơ về Toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, được kiểm tra tại phiên
tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, lời phát biểu của Kiểm sát viên,
Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Xét kháng cáo của bà Lê Thị N và bà Lê Thị B đúng về hình thức, nội
dung được nộp trong hạn luật định nên kháng cáo của bà Lê Thị N và bà Lê Thị
B được Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
Về xét xử vắng mặt: Đối với các đương sự vắng mặt tại phiên toà phúc thẩm
đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt,
không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan, không có yêu cầu độc
lập, không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt
theo quy định tại khoản 3 Điều 296 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Nguồn gốc đất tranh chấp diện tích 2.270,5m
2
thuộc thửa 1847, tờ bản
đồ số 4, tọa lạc tại khóm A, phường A, thành phố H, tỉnh Đồng Tháp là của cụ
Nguyễn Thị C1 (chết năm 1976), khi chết không để lại di chúc. Các con của cụ
Nguyễn Thị C1 gồm có: cụ Lê Văn P, cụ Lê Thị M, cụ Nguyễn Thị S1 và cụ Lê
Thị S2 được hưởng thừa kế quyền sử dụng đất bằng nhau; Tuy nhiên do các cụ đã
chết nên hàng thừa kế thế vị của các cụ được hưởng phần thừa kế này.
Trong quá trình giải quyết vụ án thì bà Lê Thị K, ông Lê Văn O, bà Lê Thị
Đ và ông Đặng Văn H yêu cầu chia thừa kế và nhận di sản bằng quyền sử dụng
đất cụ thể: Bà Lê Thị K diện tích 440,4m
2
, ông Lý Văn V diện tích 564,1m
2
, ông
Đặng Văn H diện tích 470,9m
2
và bà Lê Thị N diện tích 795,1m
2
.
[3] Toà án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của các nguyên đơn và chia thừa
kế như sau:
Hàng thừa kế của cụ Nguyễn Thị S1 gồm các ông, bà: Lê Thị K, Lê Thị Đ,
Lê Văn K1, Lê Văn O, Lê Thị S, Lê Thị C được hưởng thừa kế quyền sử dụng đất
diện tích 440,4m
2
(vị trí 1), thuộc một phần thửa đất số 1847, tờ bản đồ số 4 (bản
đồ địa chính chính quy năm 2023), đất tọa lạc tại khóm A, phường A, thành phố
H, tỉnh Đồng Tháp. Tuy nhiên, các ông, bà: Lê Thị Đ, Lê Văn K1, Lê Văn O, Lê
Thị S, Lê Thị C đều thống nhất giao lại phần đất này cho bà Lê Thị K đứng tên
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Hàng thừa kế của cụ Lê Thị S2 gồm các ông: Lý Văn T5, Lý Văn V, Lý
Văn T6 được hưởng thừa kế quyền sử dụng đất diện tích 564,1m
2
(vị trí 6), thuộc
một phần thửa đất số 1847, tờ bản đồ số 4 (bản đồ địa chính chính quy năm 2023),
9
đất tọa lạc tại khóm A, phường A, thành phố H, tỉnh Đồng Tháp. Tuy nhiên, các
ông: Lý Văn T5, Lý Văn T6 không có ý kiến phản đối với yêu cầu của ông Lý
Văn V. Do đó ông Lý Văn V đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Hàng thừa kế của cụ Lê Thị M gồm có ông Đặng Văn H được hưởng thừa
kế quyền sử dụng đất diện tích 470,9m
2
(vị trí 5), thuộc một phần thửa đất số
1847, tờ bản đồ số 4 (bản đồ địa chính chính quy năm 2023), đất tọa lạc tại khóm
A, phường A, thành phố H, tỉnh Đồng Tháp.
Hàng thừa kế của cụ Lê Văn P gồm các ông, bà: Lê Văn M1 (đã chết), Lê
Thị L1, Lê Thị H1, Lê Thị R, Lê Thị Ấ, Lê Thị B, Lê Thị N; thừa kế thế vị của
ông Lê Văn M1 gồm có vợ tên Phạm Thị T3 và các con Lê Văn N1, Lê Văn N2,
Lê Văn T4 được hưởng thừa kế nhiều hơn quyền sử dụng đất diện tích 795,1m
2
(vị trí 2, 3, 4);
Tuy nhiên, tại thời điểm giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm thì bà Lê Thị H1,
người thừa kế của ông M1 gồm: bà Phạm Thị T3, anh Lê Văn N1, anh Lê Văn
N2, anh Lê Văn T4 không có mặt tại địa phương, không rỏ đang sống ở đâu (Theo
văn bản xác nhận của chính quyền đại phương); Theo các đương sự trình bày
những người này đang sống ở Thái Lan. Nhưng Toà án cấp sơ thẩm vẫn niêm yết
và giải quyết vắng mặt họ là không đúng theo quy định, làm ảnh hưởng nghiêm
trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Tại phiên toà phúc thẩm
bà H1 có mặt không đồng ý theo bản án sơ thẩm tuyên, yêu cầu huỷ bản án sơ
thẩm để bà H1 yêu cầu chia thừa kế.
[4] Toà án cấp sơ thẩm căn cứ tờ thỏa thuận đề ngày 09/5/2020 để cho bà
Lê Thị N được toàn quyền sử dụng và đi đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Tuy nhiên, do ông M1 đã chết nhưng những thừa kế của ông M1 chưa
có ý kiến về việc này và tại phiên toà phúc thẩm bà H1 xác định không ký tên vào
tờ thoả thuận nêu trên. Nên Toà án cấp sơ thẩm giao cho bà N được toàn quyền
sử dụng diện đất thừa kế 795,1m
2
là chưa phù hợp.
[5] Bản án sơ thẩm chia thừa kế bằng hiện vật là quyền sử dụng đất nhưng
chưa xem xét về quy định diện tích tối thiểu khi công nhận quyền sử dụng đất.
Tại phiên toà phúc thẩm bà K xuất văn bản ý kiến của ông H và ông V có nội
dung ông H, ông V đồng ý giao diện tích đất của 02 ông cho bà K để đủ diện tích
tách thửa theo quy định. Tuy nhiên, 02 văn bản này không được chứng thực chữ
ký nên không có căn cứ pháp lý để chứng minh là chữ ký của ông H, ông V; Đồng
thời ông V cũng vắng mặt tại phiên toà nên không có đủ căn cứ xác định ý chí của
ông H, ông V. Ngoài ra, phần thừa kế của bà S2 thì hàng thừa kế gồm ông V, ông
T5, ông T6 nhưng ông T5, ông T6 chưa có ý kiến trong vụ án này. Mặt khác, nếu
ông H và ông V giao đất cho bà K sử dụng thì ai có trách nhiệm trả tiền bơm cát
cho bà N cũng không làm rõ được.
[6] Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy đề nghị của người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bị đơn và yêu cầu kháng cáo của bị đơn
là phù hợp nên chấp nhận.
10
[7] Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy đề nghị của người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà K là chưa phù hợp nên không chấp nhận.
[8] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp là phù
hợp nên chấp nhận.
[9] Từ nhưng phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy cần
phải huỷ bản dân sự sơ thẩm của Toà án nhân dân thành phố Hồng Ngự (Nay là
khu vực 12) để giao hồ sơ vụ án cho cấp sơ thẩm giải quyết lại theo thủ tục chung.
[10] Về án phí phúc thẩm: Bà Lê Thị N và Lê Thị B không phải chịu;
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ điều 26, khoản 1 Điều 38, khoản 3 Điều 148, khoản 3 điều 308 Bộ
luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 48 - Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;
* Tuyên xử:
1. Hủy toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số: 27/2024/DS-STngày 12 tháng 7
năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hồng Ngự (Nay là Khu vực 12 – Đồng
Tháp).
Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân khu vực 12 – Đồng Tháp giải quyết
lại theo thủ tục chung.
2. Án phí dân sự phúc thẩm:
Bà Lê Thị B không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm và được nhận lại
300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số 0011871, ngày
25/7/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp
(Nay là Phòng Thi hành án dân sự khu vực A - Đồng Tháp).
Bà Lê Thị N không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm và được nhận lại
300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số 0011872, ngày
25/7/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp
(Nay là Phòng Thi hành án dân sự khu vực A - Đồng Tháp).
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND Tỉnh;
- TAND Khu vực 12 – Đồng Tháp;
- THADS Tỉnh;
- Phòng TTKT-THA TA Tỉnh;
- Các đương sự;
- Lưu: hồ sơ vụ án (T).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚCTHẨM
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Phú Thọ
11
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Nguyễn Ngọc Thông – Đinh Chí Tâm
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Phú Thọ
12
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 26/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 23/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 22/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 19/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 18/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 18/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 18/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 17/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 16/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 16/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 11/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 10/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 09/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 09/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Bản án số 51/2025/DS-ST ngày 08/09/2025 của TAND TP. Cần Thơ về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Ban hành: 08/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 04/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 03/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 03/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm