Bản án số 73/2023/HNGĐ-PT ngày 20/11/2023 của TAND tỉnh Tiền Giang về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 73/2023/HNGĐ-PT

Tên Bản án: Bản án số 73/2023/HNGĐ-PT ngày 20/11/2023 của TAND tỉnh Tiền Giang về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Tiền Giang
Số hiệu: 73/2023/HNGĐ-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 20/11/2023
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ngày 29/8/2023, bị đơn anh Nguyễn Mạnh K có đơn kháng cáo với nội dung
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH TIỀN GIANG
Bản án số: 73/2023/HNGĐ-PT
Ngày: 20 - 11 - 2023
V/v tranh chấp: “Ly hôn, nuôi con
chung”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Trương Thị Tuyết Linh
Các Thẩm phán: Ông Trần Văn Đạt
Nguyễn Ái Đoan
- Thư phiên tòa: Nguyễn ThThúy Phương - Thư Tòa án nhân
dân tỉnh Tiền Giang.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang
tham gia phiên tòa:
Hà Ngọc Thư Trúc - Kiểm sát viên.
Ngày 20 tháng 11 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 52/2023/TLPT-HNGĐ ngày 25 tháng 10
năm 2023 về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con chung”.
Do Bản án hôn nhân gia đình thẩm số 69/2023/HNGĐ-ST ngày 17
tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang bị kháng
cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 888/2023/QĐ-PT ngày
31 tháng 10 năm 2023 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Xuân Á, sinh năm 1989 (Có mặt).
Địa chỉ: ấp M, xã M, thị xã C, tỉnh Tiền Giang.
Bị đơn: Anh Nguyễn Mạnh K, sinh năm 1989 (Có mặt).
Địa chỉ: ấp M, xã M, thị xã C, tỉnh Tiền Giang.
- Người kháng cáo: Bị đơn anh Nguyễn Mạnh K.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo án sơ thẩm, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Xuân Á trình bày:
2
Chị anh Nguyễn Mạnh K tự nguyện chung sống từ năm 2017, đăng
kết hôn tại Ủy ban nhân dân M, thị xã C, tỉnh Tiền Giang. Từ khi kết hôn,
chị anh K chung sống không hạnh phúc thường xuyên phát sinh mâu thuẩn,
cự cãi do bất đồng quan điểm sống, không thể hòa hợp, ngoài ra còn có mâu
thuẩn giữa chị và mchồng. Từ tháng 02 năm 2022 cho đến nay chkhông còn
chung sống với anh K. Mặc dù, chị và anh K đã nhiều lần hòa giải mong hàn gắn
tình cảm nhưng không thành. Nhận thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân
không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài nên chị yêu cầu được ly hôn
với anh K.
Về con chung: Chanh K 02 con chung tên Nguyễn Thiên T, sinh
ngày 23/01/2020 Nguyễn Phúc L, sinh ngày 04/7/2021, hiện nay 02 cháu
đang sống với chị. Khi ly hôn, chị yêu cầu được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng
02 con chung. do chị yêu cầu nuôi cả 02 con chung do, cháu L dưới 36
tháng tuổi đã sống với chị ngoại tnhỏ cho đến nay. Đối với cháu T
đang được chuẩn đoán mắc bệnh phổ tự kỷ đang được điều trị theo liệu
trình tại Trung tâm R. Chị xác định chị có đủ điều kiện để nuôi cả 02 con cụ thể
như sau:
+ Hiện tại chị nhân viên của Ngân hàng TMCP Á1, thu nhập hàng tháng
của chị trên 20.000.000đồng; thời gian m việc của chị n định từ 07:30 đến
17:00 các ngày từ thứ 2 đến thứ sáu trong tuần (nghỉ cố định 02 ngày thứ 7, chủ
nhật). Hiện tại chị được phân công phụ trách khu vực tỉnh Tiền Giang Long
An nên trong trường hợp có đi công tác vẫn đảm bảo đi về trong ngày để thời
gian trực tiếp chăm sóc và lo lắng cho con về mọi mặt.
+ Chị sự htrợ của mruột trong việc trực tiếp chăm sóc con. Ngoài ra,
chị có người cô ruột ở gần nên đã thuê cô để hỗ trợ chăm sóc các cháu trong thời
gian chị đi làm chưa về kịp.
+ Về bệnh tự kỷ của cháu T ttheo chị do dẫn đến cháu bệnh do t
lúc cháu T 06 tháng tuổi cho đến khi cháu T 02 tuổi chị đã gởi cháu lại cho ông
nội chăm sóc, vợ chồng chị đi làm xa chỉ thăm con vào thứ 7 chủ nhật;
trước đây khi vợ chồng cùng chung sống chị đã trao đổi với anh K đưa con đi
khám nhưng anh K không đồng ý, sau khi vợ chồng ly thân, gia đình bên nội
đưa cháu T đi khám và xác định cháu T bị bệnh tự kỷ nhưng không có động thái
3
điều trị đặc biệt. Sau khi rước cháu T vsống với chị thì chị đã trực tiếp chăm
sóc, dành nhiều thời gian chăm lo cho cháu T đã tìm hiểu, đưa cháu T điều trị
trung tâm R nhằm cải thiện tình trạng bệnh của cháu T.
+ Trong thời gian chị nuôi con vừa qua, chị đều tạo điều kiện cho anh K
trực tiếp chăm c nuôi ỡng các con, không hành vi cản trở anh K thực
hiện việc chăm sóc nuôi dưỡng các con nhưng anh K rất ít khi đến thăm con.
+ Đối với anh K, do anh K làm công việc xây dựng, chỗ giờ giấc làm
việc không ổn định nên không thể dành nhiều thời gian chăm sóc các con như
chị, trong trường hợp giao con cho anh K trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng thì
người trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng các con của chị anh K cha mẹ ruột
của anh K.
Về mức cấp dưỡng nuôi con: Chi phí ăn uống cho cháu T vào khoảng
3.500.000đồng đến 4.000.000đồng và chi phí về điều trị mà chị đã cung cấp cho
Tòa án. Chi p ăn uống cho cháu L vào khoảng 4.000.000đồng đến
5.000.000đồng. Nếu chị được nuôi 02 cháu thì chị yêu cầu anh K cấp dưỡng
nuôi con mỗi tháng 3.500.000đồng/cháu, ch đồng ý cấp dưỡng nuôi con
3.000.000đồng nếu anh K được nuôi cả 02 con; nếu chị anh K mỗi người
được nuôi 01 con chung thì không ai phải cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn anh Nguyễn Mạnh K trình bày: Anh thống nhất lời trình bày của chị
Á về thời gian cưới, đăng kết hôn, cũng như nguyên nhân mâu thuẩn giữa
anh chị Á. Anh và chÁ đã sống ly thân từ tháng 02/2022 cho đến nay. Nay
anh đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị Á.
Về con chung: 02 con chung tên Nguyễn Thiên T, sinh ngày
23/01/2020 Nguyễn Phúc L, sinh ngày 04/7/2021. Khi ly hôn, anh yêu cầu
được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng 02 con chung. Anh nhận thấy nếu anh và
chị Á mỗi người nuôi 01 cháu sẽ tạo điều kiện nuôi con tốt nhất cho anh ch
Á. Nếu trường hợp Tòa án xem xét giao cho anh K chị Á mỗi người nuôi 01
con chung thì anh đề nghị giao cháu Nguyễn Phúc L cho anh trực tiếp chăm sóc
nuôi dưỡng, anh đồng ý để chị Á trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cháu Nguyễn
Thiên T, tuy nhiên chị Á phải tạo điều kiện cho anh được thăm nom, chăm sóc
và giáo dục cháu Nguyễn Thiên T, không viện do ảnh hưởng việc điều trị của
4
cháu T không cho thăm rước cháu T. Anh xác định anh đủ điều kiện để
nuôi con cụ thể:
+ Hiện tại anh làm kỹ thuật công trình tại Công ty TNHH T1, công tác tại
huyện C, tỉnh Long An; lương tháng khoảng 14.000.000đồng; thời gian chyếu
anh lại công trình; mỗi tuần anh về nhà cha mẹ ruột khoảng 02 đến 03 lần.
Nếu được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con chung thì anh sẽ xin về xin việc tại
Thị C hoặc Thành phố M để thời gian trực tiếp chăm sóc cho các con, tuy
nhiên thể mức lương của anh K sẽ giảm bớt, trong thời gian chưa xin được
việc anh sẽ nhờ ông nội của cháu chăm sóc cháu, cuối tuần anh sẽ về thăm,
đồng thời sẽ tạo mọi điều kiện tốt nhất để thăm nom chăm sóc con.
+ Cha mẹ ruột của anh đang cho anh K canh tác 1.000m
2
đất sầu riêng và
3.000m
2
đất ruộng nhưng chưa có làm giấy tờ.
+ Anh có sự hỗ trợ của cha mẹ ruột trong việc trực tiếp chăm sóc con.
+ Về bệnh tự kỷ của cháu T thì theo anh lý do dẫn đến cháu T bệnh là do từ
thiếu sự quan tâm của mẹ trong thời gian chÁ sinh cháu L; trước đây khi vợ
chồng cùng chung sống anh đã trao đổi với chị Á đưa con đi khám nhưng chị Á
không đồng ý, sau khi vợ chồng ly thân, gia đình bên nội đưa cháu đi khám
và xác định cháu bị bệnh tự kỷ nhưng không có động thái điều trị đặc biệt.
+ Ttháng 01/2023 đến nay anh không thăm gặp con là anh nhận thấy
chị Á gia đình của chị Á mặc không hành vi cụ thể cản trở việc chăm
sóc thăm nom con nhưng khi anh gia đình của anh đến rước con tem ruột
của chị Á mcủa chị Á không thái độ niềm nở. Do không gặp được con
nên anh cũng không biết được chị Á nuôi con tốt hay không nhưng tết năm
2023 khi gặp con thì anh nhận thấy cháu T vẫn phát triển bình thường.
+ Anh nhận thấy chị Á không đủ điều kiện để nuôi con hiện tại chị Á đi
làm Thành phố Hồ Chí Minh phải đi công tác xa; chị Á nhà trọ nên môi
trường và không gian cho các cháu chơi bị tù túng.
Về mức cấp dưỡng nuôi con: Chi phí ăn uống (không tính chi phí khác) cho
cháu T vào khoảng 3.500.000đồng đến 4.000.000đồng, cho cháu L vào khoảng
4.000.000đồng đến 5.000.000đồng, hiện nay các cháu chưa đi học nên chưa phát
sinh các chi phí khác. Trong trường hợp chị Á được giao nuôi cả 02 con chung
5
thì anh đồng ý cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đồng/cháu; nếu anh K
chị Á mỗi người nuôi một con chung thì anh K chị Á không ai phải cấp
dưỡng nuôi con; nếu anh K nuôi cả 02 con thì anh K không yêu cầu chị Á cấp
dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung và nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 69/2023/HNGĐ-ST ngày 17 tháng
8 năm 2023 của Toà án nhân dân thị Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang đã áp dụng:
các Điều 5, 28, 35, 39, 271 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, 56, 58,
81, 82, 83, 116 của luật hôn nhân gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về án phí, lệ phí;
Xử: Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị Xuân Á.
1/ Về hôn nhân: Nguyên đơn Nguyễn Thị Xuân Á được ly hôn với bị đơn
Nguyễn Mạnh K.
2/ Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thiên T, sinh ngày 23/01/2020
Nguyễn Phúc L, sinh ngày 04/7/2021 cho chị Nguyễn Thị Xuân Á tiếp tục chăm
sóc nuôi dưỡng.
Anh Nguyễn Mạnh K nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Nguyễn Phúc L
Nguyễn Thiên T mỗi tháng 3.500.000đồng cho mỗi cháu. Thời gian cấp dưỡng
nuôi con từ khi bản án hiệu lực pháp luật cho đến khi mỗi con chung đủ 18
tuổi và có khả năng lao động được.
Kể từ ngày chNguyễn Thị Xuân Á đơn yêu cầu thi hành án, nếu anh
Nguyễn Mạnh K chậm thi hành thì phải chiụ thêm tiền lãi theo mức lãi suất quy
định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự tương ứng với số tiền thời gian
chậm thi hành án.
Anh Nguyễn Mạnh K quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung
không ai được cản trở.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, nghĩa vụ chậm thi hành án quyền
kháng cáo của đương sự.
Ngày 29/8/2023, bị đơn anh Nguyễn Mạnh K đơn kháng cáo với nội
dung: Kháng cáo 1 phần bản án hôn nhân gia đình thẩm số 69/2023/HNGĐ-
ST ngày 17 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân thị Cai Lậy, tỉnh Tiền
Giang. Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết bao gồm:
6
- Về con chung: Anh yêu cầu được quyền trực tiếp chăm sóc nuôi
dưỡng cháu Nguyễn Phúc L.
+ Trường hợp anh được quyền nuôi dưỡng cháu L, chÁ nuôi dưỡng cháu
T, thì anh không cấp dưỡng cháu T, anh không yêu cầu chị Á cấp dưỡng cháu L.
+ Trường hợp chị Á được quyền nuôi dưỡng 02 con. Anh đồng ý cấp
dưỡng mỗi con chung số tiền 1.000.000 đồng/tháng (02 con là 2.000.000 đồng).
Tại phiên tòa phúc thẩm, chị Nguyễn Thị Xuân Á vẫn giữ nguyên yêu cầu
nuôi con yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, anh Nguyễn Mạnh K vẫn giữ nguyên
yêu cầu kháng cáo. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải
quyết vụ án.
Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang: về
việc tuân theo pháp luật: Từ khi thụ lý phúc thẩm cho đến khi xét xử Thẩm phán,
Thư Hội đồng xét xử đã tuân thủ theo đúng quy định của Bộ luật ttụng
dân sự. Người tham gia tố tụng chấp hành đúng nội quy phòng xử án thực
hiện quyền, nghĩa vụ đúng pháp luật; Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét
xử giao 02 con chung tên Nguyễn Thiên T, sinh ngày 23/01/2020 Nguyễn
Phúc L, sinh ngày 04/7/2021 cho chị Á tiếp tục nuôi dưỡng, sửa một phần bản án
thẩm buộc anh K cấp dưỡng nuôi cháu Nguyễn Thiên T mỗi tháng
3.500.000đồng, cấp dưỡng nuôi cháu Nguyễn Phúc L mỗi tháng 2.000.000đồng.
Thời gian thực hiện việc cấp dưỡng tính từ khi án hiệu lực pháp luật đến khi
hai cháu T L đủ 18 tuổi có khả năng lao động.
Qua nghiên cứu toàn bộ các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án được
thẩm tra tại phiên tòa, nội dung yêu cầu kháng cáo của anh Nguyễn Mạnh K, lời
trình bày của các đương sự và kết quả tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm, ý kiến
phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của anh Nguyễn Mạnh K làm trong hạn luật
định và hợp lệ nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về nội dung vụ án: Chị Nguyễn Thị Xuân Á và anh Nguyễn Mạnh K
thống nhất trình bày: A, chị tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2017,
đăng kết hôn tại Ủy ban nhân dân M, thị xã C, tỉnh Tiền Giang. Trong
cuộc sống hôn nhân, anh chị không hạnh phúc thường xuyên mâu thuẫn
do bất đồng quan điểm chị Á mâu thuẫn với mẹ chồng. Vợ chồng sống ly
thân từ tháng 02 năm 2022 cho đến nay. Nay chÁ yêu cầu được ly hôn, anh K
đồng ý.
Về con chung: Chị Á anh K 02 con chung tên Nguyễn Thiên T, sinh
ngày 23/01/2020 Nguyễn Phúc L, sinh ngày 04/7/2021, hiện nay 02 con
chung đang sống với chÁ. Chị Á yêu cầu được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng
7
02 con chung yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 3.500.000đồng
cho một cháu. Anh K yêu cầu được nuôi cháu Nguyễn Phúc L, sinh ngày
04/7/2021, anh K và chị Á không ai phải cấp dưỡng nuôi con. Trường hợp chị Á
nuôi hết 02 con chung thì anh cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đồng cho
một cháu.
[3] Tòa án cấp thẩm xử cho chị Nguyễn Thị Xuân Á được ly n với
anh Nguyễn Mạnh K. Về con giao cho chị Á tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng 02
con chung tên Nguyễn Thiên T, sinh ngày 23/01/2020 Nguyễn Phúc L, sinh
ngày 04/7/2021, buộc anh K cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 3.500.000đồng cho
một cháu.
Anh K không đồng ý với một phần bản án thẩm nên yêu cầu kháng
cáo.
Nhận thấy, về hôn nhân chị Nguyễn Thị Xuân Á yêu cầu được ly hôn, anh
Nguyễn Mạnh K đồng ý nên Tòa án cấp thẩm cho chị Á được ly hôn với anh
K theo Điều 56 Luật Hôn nhân Gia đình, phần này anh K không kháng cáo,
Viện kiểm sát không kháng nghị nên có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn
kháng cáo, kháng nghị.
[4] Xét nội dung kháng cáo và yêu cầu kháng cáo của anh Nguyễn Mạnh K,
Hội đồng xét xử nhận thấy:
[4.1] Đối với yêu cầu của anh K yêu cầu được nuôi cháu L, giao cho chị Á
nuôi cháu T. Hội đồng xét xử nhận thấy, cháu Nguyễn Phúc L, sinh ngày
04/7/2021 tính đến nay cháu chtròn 28 tháng tuổi, theo qui định tại khoản 3
Điều 81 Luật Hôn nhhân và Gia đình “Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ
trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông
nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ thỏa thuận khác phù
hợp với lợi ích của con”. Anh K yêu cầu được nuôi cháu L nhưng không được
sự đồng ý của chị Á anh cũng không chứng minh được chị Á không đủ điều
kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, vì vậy yêu cầu
này của anh K không có căn cứ và không phù hợp.
[4.2] Đối với việc cấp dưỡng nuôi con, anh K cho rằng nếu chị Á nuôi hết
02 con chung anh chỉ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đồng cho một
cháu hiện tại anh đã xin nghỉ việc công ty đã quyết định về việc
cho thôi việc, hiện anh đang xin vào làm việc tại Công ty TNHH H ấp P, xã L,
thị xã C, tỉnh Tiền Giang với mức lương 6.000.000đồng/tháng.
Hội đồng xét xử nhận thấy, theo các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án
thể hiện: anh K mức lương chính hàng tháng 14.000.000đồng (theo giấy
xác nhận lương ngày 20/3/2023 của Công ty TNHH T1) tại bản tự khai ngày
29/3/2023 anh K trình bày cha mẹ anh cho anh canh tác phần đất sầu riêng
diện tích 5.000m
2
tại ấp M, M, thị C phần ruộng diện tích 15.000m
2
tại ấp C, xã P, huyện C thu nhập bình quân là 150.000.000đồng/năm.
8
Xét thấy cháu Nguyễn Thiên T, sinh ngày 23/01/2020 mắc chứng bệnh tự
kỷ và đang được điều trị tại Trung tâm R Quận B, thành phố Hồ Chí Minh với
chi phí điều trị mỗi tháng 6.900.000đồng hiện nay chị Á cũng đã cho cháu
T theo học tại trường mầm non B thuộc quận T, thành Phố Hồ Chí Minh chi phí
cho việc học mỗi tháng hơn 2.300.000đồng, việc Tòa án cấp thẩm buộc anh
K cấp dưỡng nuôi cháu T mỗi tháng 3.500.000đồng không cao so với chi phí
cần thiết trong tháng của cháu. Anh K cho rằng anh đã nghỉ việc ở công ty cũ
hiện nay đang xin làm việc công ty mới với mức lương 6.000.000đồng/tháng
nên không đồng ý cấp dưỡng nuôi cháu T 3.500.000đồng/tháng không phù
hợp, bởi lẽ nuôi con là trách nhiệm chung của cha và mẹ nhằm tạo điều kiện cho
con được phát triển tốt về thể chất lẫn tinh thần. Hơn nữa tại quyết định về việc
cho thôi việc ngày 25/8/2023 thể hiện anh K người xin nghỉ việc việc xin
nghỉ việc của anh K thực hiện sau khi Tòa án cấp sơ thẩm xét xử, việc nghỉ việc
của anh K do anh hoàn toàn chủ động. Anh K cho rằng lương anh hiện tại
6.000.000đồng/tháng nên chỉ đồng ý cấp dưỡng nuôi cháu T mỗi tháng
1.000.000đồng là không phù hợp, Hội đồng xét xử không chấp nhận.
Đối với cháu Nguyễn Phúc Lâm s ngày 04/7/2021, tính đến nay chưa đủ 36
tháng tuổi theo biên bản xác minh ngày 29/5/2023 của Tòa án nhân dân thị
Cai Lậy xác định chi phí nuôi con tại địa phương hiện nay cho một con từ 02 -
05 tuổi khoảng từ 2.000.000đồng đến 2.500.000đồng/ tháng. Như vậy việc Tòa
án cấp thẩm buộc anh K cấp dưỡng nuôi cháu L mỗi tháng 3.500.000đồng
cao so với nhu cầu thực tế của trẻ tại địa phương, vậy mức cấp dưỡng này
cần được xem xét lại buộc anh K cấp dưỡng nuôi cháu L mỗi tháng
2.000.000đồng.
[4.3] Về thời gian thực hiện việc cấp dưỡng: Tòa án cấp thẩm buộc anh
K cấp dưỡng nuôi con khi án có hiệu lực pháp luật chưa phù hợp mà cần phải
buộc anh K thực hiện việc cấp dưỡng nuôi con kể từ ngày tuyên án thẩm là
ngày 17/8/2023, bởi lẽ theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 482 Bluật tố
tụng dân sự năm 2015 như sau: “2. Những bản án, quyết định sau đây của Tòa
án cấp sơ thẩm được thi hành ngay mặc dù có thể bị kháng cáo, khiếu nại, kháng
nghị, kiến nghị:
a) Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả công lao động, nhận người lao
động trở lại làm việc ……”.
[5] Từ những phân tích trên xét thấy yêu cầu kháng cáo của anh K là có căn
cứ một phần, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của anh
K, sửa một phần bản án sơ thẩm.
[6] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ và phù hợp với một
phần nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần đề nghị của đại diện
Viện kiểm sát.
[7] Về án phí: Do sửa một phần bản án sơ thẩm nên anh K không phải chịu
án phí phúc thẩm.
9
Vì các lẽ trên,
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309, điểm a khoản 2 Điều 482 Bộ luật tố
tụng dân sự.
Căn cứ các điều 56, 81, 82, 83 điều 116 Luật Hôn nhân Gia đình;
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường v
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án.
QUYẾT ĐỊNH:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của anh Nguyễn Mạnh K. Sửa
một phần bản án Hôn nhân gia đình thẩm số 69/2023/HNGĐ-ST ngày
17/8/2023 của Tòa án nhân dân thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang.
2. Về hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị Xuân Á được ly hôn với anh Nguyễn
Mạnh K.
3. Về con chung: Giao hai con chung tên Nguyễn Thiên T, sinh ngày
23/01/2020 Nguyễn Phúc L, sinh ngày 04/7/2021 cho chị Nguyễn Thị Xuân
Á trực tiếp nuôi dưỡng. Buộc anh Nguyễn Mạnh K có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi
cháu Nguyễn Thiên T mỗi tháng 3.500.000đồng cấp dưỡng nuôi cháu
Nguyễn Phúc L mỗi tháng 2.000.000đồng. Thời gian thực hiện cấp dưỡng
tính từ ngày tuyên án thẩm (ngày 17/8/2023) đến khi hai cháu T và Lâm
thành n và có khả năng lao động được.
Anh Nguyễn Mạnh K có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được
cản trở.
4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Xuân Á phải chịu 300.000đồng án phí hôn
nhân gia đình sơ thẩm, chị Á đã nộp 300.000đồng tiền tạm ứng án phí theo biên
lai thu số 0018429 ngày 13/3/2023 của Chi cục thi hành án dân sự thị Cai
Lậy, tỉnh Tiền Giang xem như nộp xong án phí.
Anh Nguyễn Mạnh K không phải chịu án phí phúc thẩm. Anh K phải chịu
300.000đồng án phí dân sự sơ thẩm v cấp dưỡng nuôi con, anh K đã nộp
300.000đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu sô018669 ngày 31/8/2023
của Chi cục thi hành án dân sthị Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang xem nnộp
xong án phí.
Kể từ ngày chÁ yêu cầu thi hành án, nếu anh K chậm thi hành đối với
khoản tiền cấp dưỡng thì còn phải chịu thêm khoản lãi tương ứng với số tiền và
thời gian chậm thi hành án, lãi suất phát sinh do chậm thi hành án được xác
định theo khoản 2 điều 357 Bộ luật dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
10
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án
dân sự; thì người được thi nh án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành
án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật
thi hành án dân sự.
Nơi nhn:
- TAND cp cao ti TP.HCM;
- VKSND tnh Tin Giang;
- TAND th xã Cai Lậy, tnh Tin Giang;
- Chi cc THADS th xã Cai Lậy, Tin Giang
- Các đương s;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THM
THẨM PHÁN – CH TỌA PHIÊN TÒA
Trương Thị Tuyết Linh
11
Tải về
Bản án số 73/2023/HNGĐ-PT Bản án số 73/2023/HNGĐ-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất