Bản án số 70/2025/HNGĐ-ST ngày 24/04/2025 của TAND TX. Dĩ An, tỉnh Bình Dương về tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 70/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 70/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 70/2025/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 70/2025/HNGĐ-ST ngày 24/04/2025 của TAND TX. Dĩ An, tỉnh Bình Dương về tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TX. Dĩ An (TAND tỉnh Bình Dương) |
Số hiệu: | 70/2025/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 24/04/2025 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Đỗ Thị Thu T - Kim Ngọc P |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ DĨ AN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số:70/2025/HNGĐ-ST
Ngày:24-04-2025
V/v tranh chấp về thay đổi người
trực tiếp nuôi con sau ly hôn
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Trần Thị Hà
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Bà Nguyễn Thị Bửu Huệ;
2. Ông Tô Văn Nhung.
- Thư ký phiên tòa: Ông Phạm Anh Ly – Thư ký Tòa án nhân dân thành
phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương
tham gia phiên tòa: Ông Lê Thanh Tùng - Kiểm sát viên.
Ngày 24 tháng 04 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An,
tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và Gia đình thụ lý số
599/2024/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 12 năm 2024 về việc “Tranh chấp về thay
đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử
số 63/2025/QĐXXST-HNGĐ ngày 27/03/2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: bà Đỗ Thị Thu T, sinh năm: 1989; địa chỉ thường trú: số E
khu phố Đ, phường B, thành phố T, tỉnh Bình Dương, nơi cư trú hiện nay: phòng
C0609 chung cư B, số B A đường P, khu phố T, phường D, thành phố D, tỉnh
Bình Dương; có mặt.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Lưu Xuân
L, sinh năm 1988 của Công ty L1 – Chi nhánh số 2, thuộc đoàn luật sư tỉnh Bình
Dương, có mặt.
- Bị đơn: ông Kim Ngọc P, sinh năm: 1985; địa chỉ thường trú: số D đường
Ố, khu phố T, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương, nơi cư trú hiện nay:
364/69/26 đường T, phường P, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 19/11/2024; lời khai trong quá trình tố tụng và tại
phiên tòa nguyên đơn bà Đỗ Thị Thu T trình bày:
2
Bà Đỗ Thị Thu T và ông Kim Ngọc P đăng ký kết hôn tại UBND xã M,
huyện C, tỉnh Bình Phước vào ngày 16/11/2009, đến ngày 03/11/2015 thì bà T và
ông P thuận tình ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa
thuận của các đương sự số 442/2015/QĐST-HNGĐ của Tòa án nhân dân thành
phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Nội dung quyết định con chung là cháu Kim Ngọc
Tấn P1, sinh ngày 11/8/2013 do bà Đỗ Thị Thu T trực tiếp nuôi dưỡng và ông
Kim Ngọc P thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 3.000.000 đồng.
Vào năm 2016, bà T đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài nên con chung
Kim Ngọc Tấn P1, sinh ngày 11/8/2013 được bà T và ông P thống nhất giao lại
cho ông P trực tiếp nuôi dưỡng còn bà T thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con
mỗi tháng 3.000.000 đồng cho đến khi cong chung đủ 18 tuổi theo Quyết định
công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số: 286/2016/QĐST-HNGĐ ngày
25/05/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương.
Hiện nay, bà T đã hết thời hạn hợp đồng xuất khẩu lao động ở nước ngoài
đang làm việc tại Việt Nam và đang cư trú tại phòng C06.09 chung cư B, số B A
đường P, khu phố T, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương. Vào khoảng tháng
11/2024 thì bà T phát hiện cháu Kim Ngọc Tấn P1 không phải đang học lớp 6 như
ông P nói với bà mà cháu P1 ở lại lớp 5, nhận thấy việc cháu P1 ở với ông P cháu
học hành sa sút phải ở lại lớp, ngoài ra ông P còn cho cháu tham gia Hội thánh
của Đức chúa T1.
Vì vậy, để bảo vệ quyền lợi của cháu bà T yêu cầu Tòa án nhân dân thành
phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương giải quyết thay đổi người trực tiếp nuôi con giao
cháu Kim Ngọc Tấn P1, sinh ngày 11/08/2013 cho bà Đỗ Thị Thu T trực tiếp
nuôi dưỡng và yêu cầu ông Kim Ngọc P phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi
cháu Kim Tấn Ngọc P2 mỗi tháng 3.000.000 đồng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi.
Lời khai trong qua trình tố tụng và tại phiên tòa bị đơn ông Kim Ngọc P
trình bày:
Thời điểm hai vợ chồng ly hôn thì bà Đỗ Thị Thu T đã được Tòa án nhân
dân thị xã Dĩ An (nay là thành phố D) giao cho quyền trực tiếp nuôi con chung
nhưng bà T không trực tiếp nuôi dưỡng con mà chọn đi xuất khẩu lao động khi
con mới 2 tuổi. Do ông không muốn con phải lớn lên trong hoàn cảnh phải xa cả
cha lẫn mẹ nên đã yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương
thay đổi người trực tiếp nuôi con để ông được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Kim
Ngọc Tấn P1, sinh ngày 11/08/2013. Trong thời gian bà T đi lao động ở nước
ngoài cháu P1 ở với ông từ đó đến này. Mười năm qua ông không lấy vợ mà ở
vậy nuôi con. Sau khi bà T hết thời hạn lao động ở nước ngoài và về lại Việt Nam
thì cuối tuần ông vẫn cho con về thăm mẹ và ông bà ngoại mỗi khi bà T có yêu
cầu. Cháu Kim Ngọc Tấn P1 cũng có sử dụng điện thoại nên mẹ con vẫn thường
xuyên liên lạc với nhau. Mỗi lần bà T muốn gặp con nhưng ngại chạy xe vào quận
T, thành phố Hồ Chí Minh để đón cháu P1 và yêu cầu ông chở cháu đến đường
Phạm Văn Đ cho bà T dể đón thì ông đều thực hiện theo yêu cầu của bà T.
3
Lần gần đây nhất vào tháng 11/2024, thì cuối tuần bà T đến đón cháu P1 về
chơi như thường lệ, đáng lẽ ra bà T phải chở cháu về lại quận T để sáng thứ 2
cháu đi học nhưng bà T không chở cháu về, cháu phải nghĩ học 2 ngày là thứ 2 và
thứ 3 do bà T không chở cháu về cho cháu đi học, ông đã chụp màn hình tin nhắn
của cô giáo chủ nhiệm của cháu P1 yêu cầu ông cho cháu P1 đi học vì là năm học
cuối cấp nên bài vở nhiều nhưng bà T không đồng ý mà tự dẫn cháu ra công an
phường T rồi công an phường D để yêu cầu công an phường giải quyết cho bà T
về việc được trực tiếp nuôi dưỡng cháu P1. Ông đã yêu cầu bà T cứ để ông cho
cháu về lại nhà để đi học rồi bà T thực hiện việc nộp đơn yêu cầu Tòa án có thẩm
quyền giải quyết về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau nhưng bà T kiên
quyết không chịu phải tới lúc các anh công an phường D giải thích thì bà T mới
chịu để ông chở cháu P1 về để sáng hôm sau đi học.
T2 mà ông cho cháu P1 đang theo học là trường tư thục Trường tiểu học,
Trung học cơ sở, Trung học phổ thông T. Đây là trường T3 xuyên suốt cho tới lúc
tốt nghiệp trung học phổ thông nên rất thuận tiện cho cháu P1 theo học. Mặc dù,
ông và bà T ly hôn đã lâu nhưng ông vẫn chưa xây dựng gia đình mới mà vẫn ở
vậy nuôi cháu P1 từ lúc cháu 02 tuổi đến này.
Trước yêu cầu của bà T ông đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An tôn
trọng ý chí của cháu P1, nếu cháu đồng ý về ở với mẹ ông sẽ đồng ý giao cháu P1
cho bà T nhưng nếu cháu P1 yêu cầu được ở với ông thì đề nghị Hội đồng xét xử
tôn trọng ý chí của cháu và ông cũng chỉ trực tiếp nuôi dưỡng cháu đến khi cháu
đủ 18 tuổi, nếu sau 18 tuổi cháu đồng ý về ở với mẹ thì ông sẽ cho cháu về ở với
bà T.
Đối với lời khai của bà T về việc ông và cháu P1 có tham gia Hội thánh của
Đức chúa T1 thì ông thừa nhận là có. Ông cho cháu P1 đi đọc kinh và học cách
rèn luyện bản thân của người Do Thái, không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật
nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.
Tại bản tự khai ngày 12/02/2025, lời khai trong quá trình tố tụng cháu Kim
Ngọc Tấn P1 trình bày:
Hiện tại cháu P1 đang học Trường tiểu học, Trung học cơ sở, Trung học
phổ thông T. Từ khi ba mẹ không sống chung tới nay, thì cháu ở với ba (ông Kim
Ngọc P) và được ba chăm sóc rất tốt. Nay nguyện vọng của cháu P1 là vẫn được
tiếp tục sinh sống cùng ba (ông Kim Ngọc P).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn ông Lưu Xuân L
trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà T. Do hiện nay bà
T có điều kiện chăm sóc cháu P1 hơn ông P. Mặc dù lời trình bày của cháu P1 là
được ở với bố nhưng đó chỉ lời khai của một đứa trẻ, từ trước tới giờ cháu ở với
bố và hiện nay cháu vẫn đang ở với ông P thì lời khai của cháu P1 về việc muốn
ở với ông P là không khách quan. Ngoài ra, ông P còn tham gia “Hội thánh của
Đ1 Chúa Trời Mẹ” và lôi kéo cháu P1 tham gia hội, hội này bị pháp luật cấm hoạt
động và việc ông P lôi kéo cháu P1 tham hội đã làm cho cháu học hành sa sút nên
4
dẫn đến việc cháu bị ở lại lớp 5. Do đó, yêu cầu của bà T là có căn cứ đề nghị Hội
đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khỏi kiện của nguyên đơn.
- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa: Quá trình tố tụng,
Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành
và tuân theo pháp luật đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Đỗ Thị Thu T và
tranh luận của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn là không có
căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận.
Sau khi nghiên cứu tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, lời trình bày của các đương
sự và ý kiến của Kiểm sát viên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: bà Đỗ Thị Thu T khởi
kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con. Nguyên
đơn đang cư trú tại: đường P, khu phố T, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương
còn bị đơn đang cư trú tại: 3 đường T, phường P, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh,
nguyên đơn và bị đơn có văn bản lựa chọn tòa án nơi cư trú của nguyên đơn giải
quyết. Do đó, quan hệ pháp luật được xác định là “tranh chấp về thay đổi người
trực tiếp nuôi con sau ly hôn” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân
thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương theo quy định tại Điều 84 Luật Hôn nhân và
Gia đình và khoản 3 Điều 28, điểm b khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung vụ án: Tại quyết định công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự số:286/2016/QĐST – HNGĐ ngày 25/5/2016 của Tòa án nhân dân thị
xã Thuận An (nay là thành phố T) tỉnh Bình Dương ông Kim Ngọc P được trực
tiếp nuôi dưỡng cháu Kim Ngọc Tấn P1, sinh ngày 11/8/2013, bà Đỗ Thị Thu T
cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 3.000.000 đồng, thực hiện từ tháng 5/2016 đến khi
cháu P1 đủ 18 tuổi. Nay bà T khởi kiện yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp
nuôi con đối với ông P, vì bà T cho rằng ông P nuôi cháu P1 không tốt nên cháu
P1 không được lên lớp 6 đúng với độ tuổi của cháu mà phải học lại 2 lần lớp 5 và
việc ông P tham gia Hội thánh đức chúa trời và cho cháu P1 tham gia cùng đã ảnh
hưởng đến việc học tập của cháu P1.
[3] Xét yêu cầu khởi kiện của bà T, Hội đồng xét xử thấy rằng: Mặc dù việc
cháu P1 phải ở lại lớp và học 2 lần lớp 5 là có thật nhưng từ khi thay đổi người
trực tiếp nuôi con theo Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự
số:286/2016/QĐST – HNGĐ ngày 25/5/2016 của Tòa án nhân dân thị xã Thuận
An (nay là thành phố T) tỉnh Bình Dương đến nay, ông P là người trực tiếp chăm
sóc, nuôi dưỡng con từ lúc cháu P1 mới 2 tuổi, có thu nhập ổn định và luôn tạo
điều kiện thuận lợi cho chị T thăm nom con chung. Tại phiên tòa bà T cũng thừa
nhận việc mâu thuẩn xảy ra giữa ông P và bà T không phải do ông P hạn chế
quyền thăm nom con của bà T mà do ông P không thành thật về việc cháu P1 bị
ở lại lớp 5. Ngoài ra, bà T cũng thừa nhận trước khi xảy ra sự việc bà phát hiện
cháu P1 bị ở lại lớp 5 và bà dẫn cháu P1 ra công an phường T và công an phường
5
D để yêu cầu công an phường giải quyết cho bà được quyền nuôi con thì mỗi lần
bà yêu cầu được đón con về nhà chơi thì vẫn được ông P đồng ý. Cả ông P và bà
T đều thừa nhận mức học phí mà cháu P1 đang theo học ở trường hiện nay là
6.000.000 đồng/tháng và sau khi giao con lại cho ông P nuôi để đi xuất khẩu lao
động thì bà T thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 3.000.000 đồng.
Tuy nhiên, do trong thời kỳ hôn nhân ông P làm ăn thua lỗ nên có nợ của bố mẹ
bà T số tiền 150.000.000 đồng. Sau khi bà T giao lại con chung cho ông P trực
tiếp nuôi dưỡng, bà T đã trừ dần số tiền 150.000.000 đồng mà ông P nợ của bố
mẹ bà T vào số tiền cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 3.000.000 đồng mà bà phải
thực hiện. Nên trong mấy năm bà T không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con
thì ông P vẫn nuôi cháu P1 lớn lên và cho cháu được học hành. Việc cháu ở lại
lớp một phần cũng là do khả năng tiếp thu bài của cháu. Mặc khác, tại bản tự khai
ngày 12/02/2025 cháu Kim Ngọc Tấn P1 trình bày nguyện vọng là muốn sống với
ba, không muốn thay đổi môi trường sống vì cháu đã quen cuộc sống với ông P.
Hơn nữa, bà T cũng không có tài liệu chứng cứ, chứng minh được việc ông P
không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con
không tốt, không đảm bảo được sự phát triển bình thường về mọi mặt của con.
Suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án ông P không đồng ý với yêu cầu của bà T.
[4] Đối với việc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn
cho rằng việc bị đơn ông Kim Ngọc P tham gia “Hội thánh của Đ1 Chúa Trời Mẹ”
là tổ chức tín ngưỡng, tôn giáo bị pháp luật Việt Nam cấm hoạt động nên không
đủ điều kiện để nuôi dưỡng cháu P1. Vấn đề trên, Hội đồng xét xử thấy rằng: “Hội
thánh của Đ1 Chúa Trời Mẹ” là tổ chức tôn giáo không được chấp thuận đăng ký
hoạt động tôn giáo tập trung dưới mọi hình thức. Trường hợp ông P tham gia và
có hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội sẽ do cơ quan
có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật. Nguyên đơn cũng như người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn không xuất trình được chứng
cứ để chứng minh việc ông P tham gia “Hội thánh của Đ1 Chúa Trời Mẹ” là không
còn đủ điều kiện giáo dục con nên ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của nguyên đơn là không có căn cứ chấp nhận.
[5] Từ những nhận định trên cho thấy việc bà T và tranh luận của người bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi
con sau khi ly hôn đối với cháu Kim Ngọc Tấn P1, sinh ngày 11/8/2013 là không
căn cứ. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An tham gia
phiên tòa là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu theo quy định của pháp
luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 28, điểm b khoản 1 Điều 39, 147, 227, 271 và
273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ vào các Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014.
6
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án
phí và lệ phí Tòa án; Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Đỗ Thị Thu T về
việc yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con đối với cháu Kim Ngọc Tấn P1,
sinh ngày 11/8/2013 .
2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Đỗ Thị Thu T phải chịu 300.000 đồng tiền
án phí dân sự sơ thẩm được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai
thu tiền tạm ứng án phí số: 0001994 ngày 03/12/2024 của Chi cục thi hành án dân
sự thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
3. Nguyên đơn, bị đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án
trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự ./.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Bình Dương (01);
- VKSND thành phố Dĩ An (01);
- CCTHA DS thành phố Dĩ An (01);
- Các đương sự (02);
- Lưu: văn thư, hồ sơ vụ án (02).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Thị Hà
7
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 16/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 02/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 24/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 12/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 03/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 17/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm