Bản án số 678/2024/HC-PT ngày 02/07/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 678/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 678/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 678/2024/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 678/2024/HC-PT ngày 02/07/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 678/2024/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 02/07/2024 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Ông H yêu cầu Tòa án hủy Quyết định số 3780/QĐ-KPHQ ngày 15/7/2022 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố P về việc buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả đối với ông H. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 678/2024/HC-PT
Ngày: 02-7-2024
“V/v khiếu kiện quyết định
buộc thực hiện biện pháp khắc
phục hậu quả”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Cúc
Các thẩm phán: Ông Dương Tuấn Vinh
Ông Nguyễn Văn Khương
- Thư ký phiên toà: ông Nguyễn Văn Cường – Thư ký Tòa án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: ông Đoàn Văn Vâng – Kiểm sát viên.
Ngày 02 tháng 7 năm 2024 tại điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh và điểm cầu thành phần trụ sở Tòa án nhân
dân tỉnh Kiên Giang đã xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số:
61/2024/TLPT-HC ngày 16 tháng 01 năm 2024, về việc “Khiếu kiện quyết định
buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả”; do Bản án hành chính sơ thẩm số
129/2023/HC-ST ngày 10 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang
bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1863/2024/QĐ-PT ngày 13 tháng
6 năm 2023, giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Ông Phan Viết H, sinh năm 1979. Địa chỉ: Khu phố D,
phường A, thành phố P, tỉnh Kiên Giang.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Dương Đình T, sinh năm 1985. Địa chỉ:
Khu phố D, phường A, thành phố P, tỉnh Kiên Giang (có đơn xin xét xử vắng
mặt).
- Người bị kiện: Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố P. Địa chỉ: Số D,
đường C, phường D, thành phố P, tỉnh Kiên Giang.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Lê Quốc T1 – Phó Chủ tịch Ủy
ban nhân dân thành phố P (có đơn xin xét xử vắng mặt).
2
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện: Ông Nguyễn
Văn H1 – Phó Trưởng phòng Tư pháp Ủy ban nhân dân thành phố P (có mặt).
- Người kháng cáo: người bị kiện Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố P,
tỉnh Kiên Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trong đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ kiện, người khởi kiện
và người đại diện trình bày:
Năm 2021, ông H có chuyển nhượng diện tích đất khoảng 2.000m
2
của ông
Nguyễn Văn Q tại tổ G, khu phố D, phường A, thành phố P, tỉnh Kiên Giang.
Nguồn gốc đất do ông Nguyễn Văn S khai khẩn từ năm 1992. Sau đó chuyển
nhượng cho rất nhiều người và đến năm 2019 thì ông Q1 chuyển nhượng lại khu
đất có diện tích ghi trong giấy chuyển nhượng là 9.060m
2
.
Sau khi chuyển nhượng, ông H tiến hành xây hàng rào và nhà để ở. Ngày
07/7/2021, Ủy ban nhân dân phường A lập Biên bản vi phạm hành chính đối với
ông H do có hành vi chiếm đất nhưng ông H không đồng ý nên không ký biên bản
vì cho rằng ông không có hành vi chiếm đất.
Ngày 06/02/2023, Ủy ban nhân dân phường A mời ông H đến giao Quyết
định số 3780/QĐ-KPHQ do Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố P ký ngày
15/07/2022 buộc ông H khắc phục hậu quả bằng hình thức trả lại hiện trạng ban
đầu của đất trước khi vi phạm và buộc trả lại diện tích đất 703,3m
2
đã chiếm.
Ông H cho rằng việc Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố P xác định ông
có hành vi chiếm đất nông nghiệp do Ủy ban nhân dân phường A quản lý là không
đúng. Vì đất này có nguồn gốc do ông Nguyễn Văn S khai phá sử dụng từ năm
1992. Ông là người nhận chuyển nhượng và hiện đang sử dụng.
Ông H yêu cầu Tòa án hủy Quyết định số 3780/QĐ-KPHQ ngày 15/7/2022
của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố P về việc buộc thực hiện biện pháp khắc
phục hậu quả đối với ông H.
Tại văn bản ngày 24/04/2023 Chủ tịch Ủy ban nhân dân có ý kiến đối với
đơn kiện của ông Phan Viết H như sau:
Diện tích đất ông H bị xử lý vi phạm hành chính trước năm 1993 là đất
trống không ai sử dụng. Ngày 18/6/1998, Ủy ban nhân dân tỉnh K ra Quyết định
số 2163/QĐ-UBND về việc giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho ban Q2 quản lý theo thẩm quyền. Đến năm 2012 giao lại cho Ủy ban nhân
dân thị trấn A (nay là phường A) quản lý theo Quyết định số 2601/QĐ-UBND
ngày 14/12/2012 của Ủy ban nhân dân tỉnh K. Năm 2013, ông Nguyễn Văn C vào
cải tạo để trồng Tràm, Xà cừ trên đất do Nhà nước quản lý. Sau đó ông C chuyển
nhượng bằng giấy tay cho ông Võ Sỹ Đ, ông Đ chuyển nhượng cho ông Q, ông Q
chuyển nhượng cho vợ chồng bà Đỗ Thị G và ông Vũ Ngọc V. Đến ngày
11/5/2020, bà G, ông V chuyển nhượng lại cho ông H.
3
Ngày 28/06/2021, Công chức địa chính – xây dựng phường A phối hợp với
các Cơ quan có liên quan tiến hành đo đạc, kiểm tra thực tế thửa đất diện tích
703,3m
2
do ông H chiếm. Toàn bộ diện tích đất này nằm trong Quyết định số
2601/QĐ-UBND ngày 14/12/2012.
Ngày 07/07/2021 Công chức địa chính phường A lập Biên bản vi phạm
hành chính đối với ông Phan Viết H do có hành vi chiếm đất nông nghiệp tại khu
vực đô thị, diện tích 703,3m
2
do Ủy ban nhân dân phường A quản lý, vi phạm quy
định tại điểm b khoản 2 và khoản 5 Điều 14 Nghị định số 91/2019/NĐ-CP ngày
19/11/2019 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
Biên bản vi phạm hành chính được lập đúng mẫu, đúng thẩm quyền xác định đúng
hành vi vi phạm và các nội dung liên quan.
Việc Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố P ra Quyết định số 3780/QĐ-
KPHQ ngày 15/07/2022 là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 2, Điều 38
Luật xử lý vi phạm hành chính. Về trình tự thủ tục đúng theo quy định tại các
Điều 28, Điều 65, Điều 85 Luật xử lý vi phạm hành chính. Phù hợp theo quy định
tại điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 14 Nghị định 91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019
của Chính phủ.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 129/2023/HC-ST ngày 10 tháng 8 năm
2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang đã tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phan Viết H.
Hủy Quyết định số 3780/QĐ-UBND ngày 15/7/2022 của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân thành phố P về việc buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả đối với
ông Phan Viết H.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các
đương sự theo quy định.
Sau khi xét xử sơ thẩm, người bị kiện Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố
P có đơn kháng cáo đề ngày 11/9/2023 với nội dung kháng cáo toàn bộ bản án sơ
thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng bác yêu cầu
khởi kiện của ông H.
Tại phiên tòa phúc thẩm: đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện và
người bị kiện đều có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện đề nghị Hội đồng
xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của người bị kiện, sửa án sơ thẩm theo hướng
bác yêu cầu khởi kiện của ông H.
Đại diện Viện kiểm sát cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên
tòa phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:
Về tố tụng: Hội đồng xét xử, Thư ký và các đương sự đã tuân thủ, chấp
hành đúng quy định của Luật tố tụng hành chính.
Về nội dung vụ án: phần đất ông H sử dụng có nguồn gốc do chuyển
nhượng lại và nguồn gốc đất được khai hoang từ năm 1992, nay không còn thuộc
4
quy hoạch rừng phòng hộ. Ngoài ra, biên bản vi phạm cũng không thể hiện rõ vị
trí và chỉ thuộc một phần diện tích ông H sử dụng nên việc Ủy ban ban hành quyết
định khắc phục hậu quả là chưa đủ căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp
nhận yêu cầu kháng cáo của người bị kiện, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm, quan điểm của đại
diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Đơn kháng cáo của người bị kiện Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố
P trong hạn luật định và hợp lệ theo Điều 206 luật tố tụng hành chính 2015 nên
được Hội đồng xét xử xem xét giải quyết theo trình tự xét xử phúc thẩm.
[1.2] Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của người khởi
kiện và người bị kiện đều có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt nên căn cứ Điều
225 Luật tố tụng hành chính năm 2015, Hội đồng tiến hành xét xử vắng mặt các
đương sự nêu trên.
[2] Xét yêu cầu kháng cáo của người bị kiện
[2.1] Về nguồn gốc đất
Căn cứ vào Giấy nhượng đất ngày 07/3/2010 giữa ông Nguyễn Văn S và
ông Nguyễn Văn C thể hiện: ông S chuyển nhượng cho ông C một mảnh đất có
diện tích là 9000m
2
tại ấp D, thị trấn A, huyện P, tỉnh Kiên Giang; có hoa màu
trên đất là vườn điều cổ thụ, về nguồn gốc đất do ông Nguyễn Văn S tự khai khẩn
từ năm 1992; việc chuyển nhượng được ông Nguyễn Thanh T2 là Trưởng ban
nhân dân ấp xác nhận cùng ngày với nội dung “việc chuyển nhượng là đúng sự
thật, chuyển cấp trên xem xét, giải quyết”.
Sau đó, ông Nguyễn Văn C chuyển nhượng lại cho ông Võ Sỹ Đ theo Giấy
sang nhượng đất ngày 20/11/2014 có nội dung: diện tích chuyển nhượng là
9.060m
2
, nguồn gốc đất do ông C sang nhượng lại của ông S năm 2010, việc sang
nhượng này cũng được ông Trần Thanh H2 là Trưởng ban nhân dân thị trấn A xác
nhận ngày 21/11/2014 ghi rõ “Giấy sang nhượng đất cùng thành quả trên đất như
nội trong giấy giữa hai bên là đúng”.
Ngày 01/2/2014, ông Võ Sỹ Đ làm Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất cho ông Nguyễn Văn Q diện tích 9060m
2
, nguồn gốc đất do ông Đ mua
của ông C.
Ngày 14/01/2021, ông Nguyễn Văn Q làm Hợp đồng chuyển nhượng cho
ông Phan Viết H 2.000m
2
, việc chuyển nhượng này được ông Trần Văn H3 là
Trưởng khu phố 4 thuộc Ủy ban nhân dân phường T xác nhận.
Người bị kiện xác định diện tích đất của ông H bị xử phạt là do chuyển
nhượng của những người sử dụng trước.
5
Như vậy, có căn cứ xác định toàn bộ diện tích ông H đang sử dụng được
ông S sử dụng từ năm 1992, sau đó chuyển nhượng lại và người sau cùng nhận
chuyển nhượng, sử dụng là ông Phan Viết H.
[2.2] Ngày 18/6/1998, Ủy ban nhân dân tỉnh K ra Quyết định số 2163/QĐ-
UBND về việc giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ban Q2
quản lý theo thẩm quyền nhưng đất vẫn do người dân sử dụng để canh tác.
[2.3] Ngày 11/05/2010, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định
633/QĐ-TTG phê duyệt điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng đảo P, tỉnh Kiên
Giang đến năm 2030 đã điều chỉnh diện tích đất giao cho ban Q2 quản lý theo
Quyết định số 2163/QĐ-UBND ra khỏi quy hoạch rừng phòng hộ. Ngày
14/12/2012, Ủy ban nhân dân tỉnh K đã ra Quyết định 2601/QĐ-UBND thu hồi
diện tích đất 3.487.038.4m
2
tại thị trấn A (nay là phường A) thuộc quyền sử dụng
của Ban Q2, giao cho Ủy ban nhân dân phường A quản lý diện tích đất trên. Trong
đó có diện tích do ông H sử dụng.
[2.4] Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 22 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày
15/5/2014 của Chính phủ quy định: Việc xử lý, cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với hộ gia đình,
cá nhân sử dụng đất có vi phạm pháp luật đất đai trước ngày 01/7/2014. Trường
hợp lấn, chiếm đất và nay đang sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp hoặc
làm nhà ở và không thuộc quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng đặc dụng, rừng
phòng hộ, xây dựng công trình hạ tầng công cộng thì người đang sử dụng đất được
xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất.
[2.5] Ngoài ra, Căn cứ vào bản vẽ do ông Trần Quốc H4 là viên chức Chi
nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố P tại thời điểm Tòa án nhân dân tỉnh
Kiên Giang xem xét, thẩm định tại chỗ thì thực tế ông Phan Viết H đang quản sử
dụng diện tích 1.521,9m
2
là đất trống và có một căn nhà cấp 4 diện tích là 329,6m
2
;
một căn nhà cấp 4 khác có diện tích 248,9m
2
, một nhà xe diện tích 32,3m
2
và một
nhà kho diện tích là 39,6m
2
,
Bản vẽ này cũng phù hợp với Tờ trích đo địa chính số: TĐ/1074-2023 đo
vẽ khu đất của ông Phan Viết H khởi kiện Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố P
do Văn phòng đăng ký đất đai thành phố P được ghi chú: diện tích đất khởi kiện
được giới hạn các điểm số 1, 2, 3, 4, 10, 11, 12, 13, 20 và 15, diện tích là 2163m
2
.
[2.6] Tuy nhiên, tại Biên bản kiểm tra số 136/BB-UBND ngày 28/6/2021
của Ủy ban nhân dân về việc kiểm tra đo đạc hiện trạng thực tế vị trí đất hiện nay
ông H đang sử dụng: “Hiện trạng trên đất: đất trống không có cây trồng, có xây
dựng tường rào, xung quanh theo ranh đất, có kết cấu móng xây đã hoặc có đổ
giằng bê tông cốt thép, tường xây gạch không tô cao 2,5m. Thời điểm xây dựng
tháng 12/2020”, có kèm theo hình vẽ gồm hai cạnh giáp đát ông Nguyễn Văn Q
và một cạnh giáp đất dân.
6
Tại Biên bản vi phạm hành chính về lĩnh vực đất đai số 138/BB-VPHC
ngày 07/7/2021 của Ủy ban nhân dân phường A đã lập biên bản vi phạm hành
chính của ông Phan Văn H5 có vi phạm như sau:
“Vào lúc 8h00 phút ngày 28 tháng 6 năm 2021 tại vị trí đất thuộc tổ C, khu
phố D, phường A, thành phố P đã phát hiện ông Phan Viết H đang thực hiện hành
vi chiếm đất, diện tích 703,3m
2
loại đất nông nghiệp do nhà nước quản lý, đồng
thời ông Phan Viết H đã xây dựng tường rào cao 2,3m xunh quanh đất”.
Như vậy, nội dung Biên bản vi phạm hành chính về lĩnh vực đất đai số
138/BB-VPHC ngày 07/7/2021 không đúng với quá trình sử dụng, diện tích và
hiện trạng đất do ông H đang sử dụng và không xác định vị trí đất vi phạm thuộc
phần diện tích nào mà ông H đang thực tế sử dụng.
[2.7] Từ các nhận định trên có căn cứ xác định phần đất ông H sử dụng nếu
căn cứ vào Quyết định số 2163/QĐ-UBND thì ông H có lấn chiếm nhưng căn cứ
vào điểm c khoản 2 Điều 22 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của
Chính phủ quy định thì phần đất này thuộc trường hợp được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất. Nội dung quyết định khắc phục hậu quả quy định tại khoản 5:
“Buộc ông H khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm và buộc
trả lại đất với diện tích 703,3m
2
đã chiếm tại tổ C, khu phố D phường T, T, tỉnh
kiên G1 theo Biên bản số 136 ngày 28/8/2021 là không phù hợp với quy định của
pháp luật nên Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
ông H, hủy Quyết định số 3780/QĐ-UBND ngày 15/7/2022 của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân thành phố P là có căn cứ, đúng pháp luật.
Người bị kiện kháng cáo nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ
nào khác nên Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của người bị
kiện và giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có
cơ sở.
[3] Quan điểm của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị
kiện là không phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên không được chấp
nhận.
[4] Án phí hành chính phúc thẩm: do yêu cầu kháng cáo không được chấp
nhận nên người bị kiện phải chịu án phí theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính 2015; Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án.
Tuyên xử:
7
1. Không chấp nhận kháng cáo của người bị kiện Chủ tịch Ủy ban nhân dân
thành phố P; giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 129/2023/HC-ST ngày 10
tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang
2. Án phí hành chính phúc thẩm: Ủy ban nhân dân thành phố P phải chịu
300.000 đồng; được trừ vào tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo biên lai
thu tiền số 0003325 ngày 20/7/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kiên Giang.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG
Dương Tuấn Vinh Nguyễn Văn Khương
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thị Cúc
Tải về
Bản án số 678/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 678/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 15/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 15/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 13/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 13/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm