Bản án số 66/2025/DS-PT ngày 26/02/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng tín dụng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 66/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 66/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 66/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 66/2025/DS-PT ngày 26/02/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng tín dụng |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng tín dụng |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đắk Lắk |
Số hiệu: | 66/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 26/02/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả nợ do vi phạm hợp đồng tín dụng và yêu cầu xử lý tài sản thế chấp |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Lưu Thị Thu Hường.
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Văn Hồng; Ông Y Phi Kbuôr.
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thanh Trang - Thư ký TAND tỉnh Đắk
Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa: Ông
Trần Văn Lai - Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 02 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 395/2024/TLPT-DS ngày 27/11/2024
về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”. Do bản án dân sự sơ thẩm số 36/2024/DSST
ngày 16/9/2024 của Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 30/2025/QĐXX-PT ngày
23/01/2025 và Quyết định hoãn phiên tòa giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP V.
Địa chỉ: Tầng D, 5 tòa nhà S, P, số A C, phường Y, Quận H, thành phố Hà Nội.
Đại diện hợp pháp theo ủy quyền: bà Nguyễn Thị L - Chuyên viên quan hệ
khách hàng.
Địa chỉ: A N, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.
Bị đơn: Ông Nguyễn Xuân N, bà Nguyễn Thị N1.
Địa chỉ: E H, tổ dân phố C, phường Đ, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Huy H.
Địa chỉ: số D đường H, phường A, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk (có mặt).
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Y Lut A.
Địa chỉ: Buôn E, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.
Đại diện theo ủy quyền: Bà H Triên N2, sinh năm 1993.
Địa chỉ: Buôn E, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
Bản án số: 66/2025/DS-PT
Ngày 26 – 02 – 2025.
V/v: Tranh chấp HĐ tín dụng
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
2. Ông Y KLũa N3, sinh năm 1944.
Địa chỉ: Buôn E, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện và quá trình tố tụng, đại diện của nguyên đơn trình bày:
Ngày 25/7/2022, vợ chồng ông Nguyễn Xuân N, bà Nguyễn Thị N1 ký hợp
đồng tín dụng số 600-21/22/HĐTDNH với Ngân hàng TMCP V với nội dung: Vay
số tiền 1.400.000.000 đồng. Mục đích vay: Bổ sung vốn sản xuất nông nghiệp. Thời
hạn vay 12 tháng. Phương thức trả nợ: Lãi hàng tháng; Lãi suất: 14,5%/năm, lãi suất
quá hạn: 150% lãi suất trong hạn.
Hai bên ký hợp đồng thế chấp số 600-014/22/VAB/HĐTC ngày 15/7/2022, thế
chấp bất động sản thứ nhất là thửa đất số 74, tờ bản đồ số 16, diện tích... theo giấy
chứng nhận QSD đất số CM 604000 ngày 02/10/2018, bất động sản thứ hai là thửa
đất số 75, tờ bản đồ số 16, diện tích... theo giấy chứng nhận QSD đất số CM 655801
ngày 02/10/2018, tất cả các thửa đất đều tọa lạc tại Buôn E, xã E, huyện C, tỉnh Đắk
Lắk.
Quá trình thực hiện vợ chồng ông N, bà N1 thanh toán được 39.014 đồng tiền
lãi. Tính đến ngày 10/10/2023, vợ chồng ông N, bà N1 còn nợ ngân hàng
1.960.874.654 đồng, cụ thể: Nợ gốc 1.400.000.000 đồng, lãi trong hạn 176.445.370
đồng, lãi quá hạn 357.891.781 đồng, lãi phạt chậm trả 26.537.503 đồng. Nay ngân
hàng khởi kiện yêu cầu vợ chồng ông N, bà N1 trả cho ngân hàng số tiền trên. Trường
hợp vợ chồng ông N, bà N1 không trả đủ nợ thì yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử
lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ.
Bị đơn ông Nguyễn Xuân N, bà Nguyễn Thị N1 trình bày:
Bị đơn thừa nhận nội dung khởi kiện của nguyên đơn là đúng, tính đến ngày
10/10/2013 vợ chồng ông Nguyễn Xuân N, bà Nguyễn Thị N1 còn nợ ngân hàng
1.960.874.654 đồng, cụ thể: Nợ gốc 1.400.000.000 đồng và lãi suất như ngân hàng
trình bày. Mới thanh toanh toán được 39.014 đồng.
Tuy nhiên, khoản vay này là ông N, bà N1 vay hộ cho ông Phạm T, bà H1 là
hai người lạ, không biết địa chỉ ở đâu. Hai người này có nhờ ông N, bà N1 đứng tên
hộ tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với hai tài sản thế chấp, rồi nhờ
vay hộ tiền ngân hàng cho ông T. Tài sản thế chấp nói trên thực tế không phải của
ông N, bà N1.
Sau khi vay xong, ông T lấy toàn bộ số tiền 1.400.000.000 đồng, ông T có cho
ông N 20.000.000 đồng tiền thù lao, hiện nay không biết ông Phạm T, bà H1. Vợ
chồng ông Nguyễn Xuân N, bà Nguyễn Thị N1 không có khả năng trả được nợ. Đề
nghị ngân hàng xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ.
Đại diện ủy quyền của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Y Lut A là
bà bà H Triên N2 trình bày:
3
Ông Y L1 không có liên quan gì đến khoản vay ngân hàng của vợ chồng ông
N, bà N1. Năm 1998, ông Y L1 có chuyển nhượng cho ông Y K diện tích đất 4060
m
2
(là thửa 75) với giá 31 chỉ vàng, ông Y Lut A đã nhận đủ số vàng, việc chuyển
nhượng chỉ viết giấy tay với nhau. Ông Y K ở và canh tác, sinh sống trên đất này từ
năm 1998 đến nay, có trồng cây và làm nhà trên đất. Ngoài việc chuyển nhượng cho
ông Y K ông Y L1 không ký chuyển chuyển nhượng cho ông N1 hay bất cứ ai về
diện tích đất này.
Ngoài ra ông Y L1 có ký chuyển nhượng cho ông Phạm T diện tích đất 5220
m
2
với giá 300.000.000 đồng, ông T đã trả cho ông Y L1 230.000.000 đồng, còn lại
70.000.000 đồng đến nay không trả. Việc ông T nợ 70.000.000 đồng không có giấy
tờ gì, chỉ nói miệng với nhau. Ông Y L1 sẽ khởi kiện bằng vụ án khác. Nay ngân
hàng khởi kiện vợ chồng ông N, bà N1 thì ông Y L2 không có ý kiến gì.
Ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Y K:
Ông Y K không có liên quan gì đến khoản vay ngân hàng của vợ chồng ông N,
bà N1. Đối với thửa đất số 75, diện tích 4060 m
2
mà ông N, bà N1 đã thế chấp cho
Ngân hàng thì vào năm 1998 ông Y L1 đã chuyển nhượng cho ông Y K diện tích đất
4060 m
2
với giá 31 chỉ vàng, ông Y K đã trả đủ cho ông Y L1, việc chuyển nhượng
chỉ viết giấy tay với nhau. Ông Y K ở và canh tác, sinh sống từ năm 1998 đến nay
có trồng cây và làm nhà trên đất. Nay ngân hàng khởi kiện vợ chồng ông N, bà N1
và yêu cầu xử lý tài sản thế chấp của ông Y K thì ông không chấp nhận. Bởi lẽ khi
ngân hàng nhận thế chấp tài sản không đi xác minh, thẩm định tài sản nên không
biết được ông Y K đang quản lý sử dụng diện tích đất này trước khi ngân hàng nhận
thế chấp.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 36/2024/DSST ngày 16/9/2024 của Tòa án
nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
1. Chấp nhận đơn khởi kiện của Ngân hàng V về tranh chấp hợp đồng tín dụng.
Vợ chồng ông Nguyễn Xuân N, bà Nguyễn Thị N1 phải trả cho Ngân hàng V số tiền
1.960.874.654 đồng, cụ thể: Nợ gốc 1.400.000.000 đồng, lãi trong hạn 176.445.370
đồng, lãi quá hạn 357.891.781 đồng, lãi phạt chậm trả 26.537.503 đồng (lãi suất tính
đến ngày xét xử 16/9/2024).
2. Chấp nhận một phần đơn khởi kiện của Ngân hàng V về yêu cầu xử lý tài
sản thế chấp đối với tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất số CM 604000 ngày
02/10/2018, thửa đất số 74, tờ bản đồ số 16 giấy chứng nhận đăng ký biến động cho
ông Nguyễn Xuân N, bà Nguyễn Thị N1 ngày 28/6/2022.
Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật vợ chồng ông Nguyễn Xuân N, bà
Nguyễn Thị N1 không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ, thì Ngân hàng V
có quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền xử lý tài sản đảm bảo
là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất đã được Sở Tài nguyên và Môi
4
trường tỉnh Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CM 604000 ngày
02/10/2018, thửa đất số 74, tờ bản đồ số 16 giấy chứng nhận đã đăng ký biến động
cho ông Nguyễn Xuân N, bà Nguyễn Thị N1 ngày 28/6/2022 để bảo đảm nghĩa vụ
trả nợ.
3. Tuyên bố hợp đồng thế chấp đối với tài sản thế chấp là thửa đất số 75, tờ bản
đồ số 16 giấy chứng nhận QSD đất số CM 655801 do Sở Tài nguyên và Môi trường
tỉnh Đ cấp ngày 02/10/2018 là vô hiệu.
Việc giải quyết tranh chấp đất đai giữa ông Y K, ông Y L2, ông Nguyễn Xuân
N, bà Nguyễn Thị N1 với Ngân hàng sẽ giải quyết bằng một vụ án khác khi có yêu
cầu.
Án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 27/9/2024, nguyên đơn và bị đơn kháng cáo một phần bản án. Nguyên
đơn đề nghị cấp phúc thẩm xem xét hủy bản án sơ thẩm, tuy nhiên tại phiên tòa phúc
thẩm thì đại diện của nguyên đơn đề nghị công nhận hiệu lực của hợp đồng thế chấp
đối với tài sản thế chấp là quyền sử dụng thửa đất số 75, tờ bản đồ số 16 để Ngân
hàng xử lý tài sản thu hồi nợ. Bị đơn đề nghị xem xét sửa bản án sơ thẩm theo hướng
công nhận hiệu lực của hợp đồng thế chấp đối với tài sản thế chấp là quyền sử dụng
thửa đất số 75, tờ bản đồ số 16 để Ngân hàng xử lý tài sản thu hồi nợ.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tại phiên tòa:
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và các đương sự đã
thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì Kháng
cáo của nguyên đơn và bị đơn là không có cơ sở xem xét, đề nghị Hội đồng xét xử
giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, kết quả thẩm tra chứng
cứ và kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về nội dung:
Nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận vào ngày 15/7/2022, hai bên có giao kết
hợp đồng tín dụng số 600-21/22/HĐTDNH với nội dung: Bị đơn vay nguyên đơn số
tiền 1.400.000.000 đồng, mục đích vay bổ sung vốn sản xuất nông nghiệp. Thời hạn
vay 12 tháng. Ngày nhận nợ: 15/07/2022. Phương thức Trả nợ: Lãi hàng tháng; Gốc
cuối kỳ. Lãi suất 14,5%/năm, lãi suất quá hạn: 150% lãi suất trong hạn.
Tài sản thế chấp bảo đảm khoản tiền vay trên là Quyền sử dụng thửa đất số 74,
tờ bản đồ số 16 đã được cấp giấy chứng nhận QSD đất số CM 604000 ngày
02/10/2018, và thửa đất số 75, tờ bản đồ số 16 đã được cấp giấy chứng nhận QSD
đất số CM 655801 ngày 02/10/2018, tất cả đều tọa lạc tại Buôn E, xã E, huyện C,
5
tỉnh Đắk Lắk theo hợp đồng thế chấp số 600-014/22/VAB/HĐTC ngày 15/7/2022,
đã được đăng ký thế chấp.
Do quá thời hạn trả nợ nhưng bị đơn chưa trả được số tiền đã vay của nguyên
đơn nên cấp sơ thẩm buộc bị đơn có nghĩa vụ trả cho nguyên đơn số Nợ gốc
1.400.000.000 đồng, lãi trong hạn 176.445.370 đồng, lãi quá hạn 357.891.781 đồng,
lãi phạt chậm trả 26.537.503 đồng, đồng thời tuyên quyền yêu cầu cơ quan Thi hành
án dân sự có thẩm quyền xử lý tài sản đảm bảo là quyền sử dụng đất và tài sản gắn
liền với đất thửa đất số 74, tờ bản đồ số 16 đã được Sở Tài nguyên và Môi trường
tỉnh Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CM 604000 ngày 02/10/2018, xác
nhận đăng ký biến động cho ông Nguyễn Xuân N, bà Nguyễn Thị N1 ngày 28/6/2022
để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ. Nội dung này không bị kháng cáo, kháng nghị đã có
hiệu lực pháp luật.
[2]. Xét kháng cáo của nguyên đơn và bị đơn về nội dung cho rằng cấp sơ thẩm
tuyên hợp đồng thế chấp đối với tài sản thế chấp là thửa đất số 75, tờ bản đồ số 16
giấy chứng nhận QSD đất số CM 655801 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đắk
Lắk cấp ngày 02/10/2018 vô hiệu là không đúng quy định. Hội đồng xét xử xét thấy:
[2.1]. Về nguồn gốc đất: Cả 02 thửa đất số 74 và 75 là của vợ chồng ông Y Lut
A, bà H Kriu N4. Ngày 24/8/1999, hộ ông Y Lut N5 được Ủy ban nhân dân huyện
C cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số P 028827 đối với thửa đất số 74, diện
tích 5220m
2
(gồm 400m
2
đất ở và 4820m
2
đất cà phê) và thửa đất số 75 có diện tích
4060m
2
đất cà phê (BL 109).
Đến ngày 21/9/2018, vợ chồng ông Y L1, bà H K1 ký kết Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất cho ông Phạm T. Theo Hợp đồng thì vợ chồng ông Y L1,
bà H K1 chuyển nhượng cho ông Phạm T thửa đất số 74 và 75 theo Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số P 028827. Hợp đồng được Công chứng tại Văn phòng C (số
công chứng: 001429) – BL 112. Ngày 02/10/2018, ông Phạm T được Sở Tài nguyên
và Môi trường tỉnh Đắk Lắk cấp GCNQSD đất số CM 604000 đối với thửa đất số
74 và số CM 655801 đối với thửa đất số 75. Đến năm 2022, ông Phạm T chuyển
nhượng 02 thửa đất trên cho vợ chồng ông Nguyễn Xuân N, bà Nguyễn Thị N1.
Thửa đất số 74 được cơ quan có thẩm quyền xác nhận đăng ký biến động cho ông
Nguyễn Xuân N, bà Nguyễn Thị N1 vào ngày 28/6/2022, thửa đất số 75 được cơ
quan có thẩm quyền xác nhận đăng ký biến động cho ông Nguyễn Xuân N, bà
Nguyễn Thị N1 vào ngày 01/7/2022 (BL 17, 20).
Khi ký kết hợp đồng tín dụng, ông N, bà N1 và Ngân hàng ký hợp đồng thế
chấp tài sản số 600-014/22/VAB/HĐTC ngày 15/7/2022, tài sản thế chấp là quyền
sử dụng thửa đất số 74 và thửa đất số 75 nêu trên. Hợp đồng thế chấp được công
chứng, có đăng ký thế chấp theo quy định của pháp luật.
6
[2.2] Qua xác minh tài sản thế chấp là thửa đất số 75, tờ bản đồ số 16 đã được
cấp giấy chứng nhận QSD đất số CM 655801 ngày 02/10/2018, xét thấy:
Tài sản trên đất có cây cà phê, 02 gian nhà gỗ hiện do gia đình ông Y K quản
lý, sử dụng. Ông Y K và ông Y L1 xác nhận ông Y L1 đã chuyển nhượng thửa đất
số 75 cho ông Y K từ năm 1988. Ông Y K cung cấp giấy bán đất viết tay, không có
xác nhận của chính quyền địa phương. Theo lời trình bày của những người làm
chứng và kết quả xác minh tại Buôn trưởng Buôn E, xã E, huyện C thì ông Y K đã
quản lý, sử dụng mảnh đất trên, trồng cây lâu năm, dựng nhà trên đất và ở từ năm
1998 cho đến nay.
Quá trình thẩm định tài sản thế chấp của Ngân hàng, tại Báo cáo kết quả định
giá bất động sản (BL 138) và Biên bản kiểm tra hiện trạng bất động sản lập ngày
06/7/2022 (BL133) thể hiện trên đất còn có 02 căn nhà gỗ. Báo cáo kết quả định giá
bất động sản có nêu: tài sản đang cho chủ sở hữu cũ ở để trông coi đất, vườn. Mặc
dù phát hiện đang có người sinh sống trên đất nhận thế chấp nhưng Ngân hàng không
xác minh, làm việc với người đang quản lý, sử dụng đất để xác định đất có tranh
chấp hay không mà vẫn nhận thế chấp là chưa đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
của ông Y K.
Ông Nguyễn Xuân N, bà Nguyễn Thị N1 cũng thừa nhận tài sản thế chấp không
phải là của mình mà chỉ đứng tên hộ cho một người có tên là Nguyễn Thị Thu H1,
không biết địa chỉ ở đâu, để thế chấp vay Ngân hàng. Ông N có được bà H1 dẫn đi
xem đất 01 lần để Ngân hàng thẩm định tài sản thế chấp. Như vậy, việc nhận thế
chấp quyền sử dụng thửa đất số 75, tờ bản đồ số 16 của Ngân hàng là không đảm
bảo dẫn đến vi phạm điều kiện thế chấp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 188 Luật
đất đai năm 2013 (đất không có tranh chấp). Vì vậy, cấp sơ thẩm tuyên hợp đồng thế
chấp đối với thửa đất này vô hiệu là có căn cứ.
[3] Trong vụ án này, ông Y L1 cho rằng đã chuyển nhượng thửa đất số 75 cho
ông Y K từ trước khi ông được cấp GCNQSD đất, không chuyển nhượng cho ai
khác. Tuy nhiên, các đương sự không yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai liên quan
đến các Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Y K với ông Y L1,
ông Y L1 với ông Phạm T và giữa ông Phạm T với vợ chồng ông Nguyễn Xuân N,
bà Nguyễn Thị N1 nên nội dung này sẽ giải quyết bằng một vụ án khác khi có yêu
cầu.
[4] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên người kháng
cáo phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH:
[1] Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự;
7
Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn là Ngân hàng TMCP V và bị đơn
là vợ chồng ông Nguyễn Xuân N, bà Nguyễn Thị N1. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ
thẩm số 36/2024/DSST ngày 16/9/2024 của Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh
Đắk Lắk.
[2] Án phí phúc thẩm: Ngân hàng TMCP V, ông Nguyễn Xuân N, bà Nguyễn
Thị N1 mỗi đương sự phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm, được khấu
trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo các biên lai thu số 0001660
ngày 14/10/2024, số 0001723 và số 0001719 cùng ngày 07/10/2024 tại Chi cục Thi
hành án dân sự thị xã B, tỉnh Đắk Lắk.
[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị
kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
[4] Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND Cấp cao tại Đà Nẵng;
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND thị xã Buôn Hồ;
- Chi cục THADS thị xã B;
- Các đương sự;
- Lưu.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Lưu Thị Thu Hường
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 21/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 16/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 11/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 10/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 10/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 06/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 05/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 04/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 23/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 23/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 22/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 22/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 22/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 22/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 22/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 22/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm