Bản án số 65/2025/DS-ST ngày 29/04/2025 của TAND huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định về tranh chấp đất đai
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 65/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 65/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 65/2025/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 65/2025/DS-ST ngày 29/04/2025 của TAND huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định về tranh chấp đất đai |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Hải Hậu (TAND tỉnh Nam Định) |
Số hiệu: | 65/2025/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 29/04/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | chấp nhận đơn khởi kiện |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN HẢI HẬU
TỈNH NAM ĐỊNH
Bản án số: 65/2025/DS-ST
Ngày: 29 - 4 - 2025
V/v: Tranh chấp quyền sử dụng đất có nguồn gốc do
do Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HẢI HẬU, TỈNH NAM ĐỊNH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Đính.
Các Hội thẩm nhân dân:
Ông Nguyễn Văn Hóa;
Bà Nguyễn Thị Thuý Mùi.
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Công Thành - Thư ký Tòa án nhân dân
huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.
- Đaị diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định tham
gia phiên tòa: Ông Lại Minh Khôi - Kiểm sát viên.
Trong ngày 29 tháng 4 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hải Hậu,
tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai
vụ án thụ lý số: 119/2024/TLST-DS
ngày 04 tháng 10 năm 2024 về việc “ Tranh chấp quyền sử dụng đất có nguồn gốc
do Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét
xử số: 50/2025/QĐXXST-DS ngày 04 tháng 4 năm 2025, giữa:
- Nguyên đơn: Ông Lương Văn C, sinh năm 1972 và bà Nguyễn Thị T, sinh
năm 1979; địa chỉ: Xóm 16, xã Hải M, huyện H, tỉnh Nam Định. Có mặt.
- Bị đơn: Ông Hoàng Văn C1, sinh năm 1966; địa chỉ: Xóm 14, xã Hải M,
huyện H, tỉnh Nam Định. Vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Uỷ ban nhân dân xã Hải M, huyện
H, tỉnh Nam Định.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Thanh H1 – Chủ tịch UBND xã Hải
M, huyện H, tỉnh Nam Định. Vắng mặt.
Người làm chứng: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1956; địa chỉ: Xóm 14, xã
Hải M, huyện H, tỉnh Nam Định. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện ngày 30/9/2024 và các lời khai trong quá trình tố tụng,
nguyên đơn ông Lương Văn C và bà Nguyễn Thị T trình bày:
2
Năm 1996, Uỷ ban nhân dân (UBND) xã Hải M có trình các cấp có thẩm
quyền giao 50 lô đất ven đường trục xã cho nhân dân làm nhà ở. Ông Hoàng Văn
C1 là người đăng ký nên được UBND tỉnh Nam Hà (nay là tỉnh Nam Định) giao
cho sử dụng 140m
2
(loại đất ONT) tại thửa 357, tờ bản đồ số 7 xã Hải M (nay là
thửa 73, tờ bản đồ số 53). Sau khi có quyết định giao đất, ông Hoàng Văn C1 nộp
được khoảng 5.000.000đ do kinh tế khó khăn nên không nộp tiền tiếp và đã trả lại
đất cho UBND xã. Đến cuối năm 1997, biết được thông tin trên, vợ chồng ông bà
đã đến UBND xã Hải M nộp tiền để sử dụng vào lô đất của ông C1. Tổng số tiền
vợ chồng ông bà đã nộp cho UBND xã Hải M là 11.500.000đ (Mười một triệu
năm trăm nghìn đồng) có hóa đơn chứng từ kèm theo. Sau khi nộp tiền ông bà đã
được UBND xã Hải M giao đất và đã xây nhà sử dụng ổn định từ đó đến nay.
Hiện ông bà đã có tên trên sổ mục kê, bản đồ địa chính xã Hải M. Vì điều kiện
kinh tế khó khăn hay đi làm kinh tế ở xa, không hiểu biết pháp luật nên vợ chồng
ông bà chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ). Mặc dù
có tên trong sổ mục kê, bản đồ địa chính nhưng không hiểu lý do gì thửa đất chỉ
có diện tích 120m
2
đất
trong đó (100m
2
đất ONT, 20m
2
đất UB).
Đến thời gian gần, ông bà có đề nghị UBND xã Hải M làm thủ tục đề nghị
các cấp có thẩm quyền cấp GCNQSDĐ thì được trả lời không thể thực hiện được
là do trong quyết định giao đất và danh sách các hộ được giao đất ở năm 1996
chưa chỉnh lý tên ông bà mà vẫn đứng tên ông Hoàng Văn C1. Ông C1 cũng đã
xác nhận với vợ chồng ông bà và với UBND xã việc năm 1996 có nguyện vọng
đăng ký sử dụng đất nhưng sau không có nhu cầu nên vợ chồng ông bà là người
nộp tiền, nhận đất sử dụng. Tuy nhiên, ông C1 cũng không hợp tác làm giấy tờ
chuyển từ tên ông C1 sang tên vợ chồng ông bà theo sự hướng dẫn của cơ quan
chuyên môn để vợ chồng ông bà được cấp GCNQSDĐ.
Nay ông bà đề nghị Tòa án công nhận, ông bà có quyền quản lý, sử dụng
thửa 73, tờ bản đồ 53 diện tích 140m
2
đất ONT xã Hải M.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 15/10/2024, bị đơn ông Hoàng Văn C1 trình
bày:
Năm 1996, ông có nguyện vọng và đăng ký để được sử dụng 01 lô đất làm
nhà ở của UBND xã Hải M. Ông được UBND xã Hải M thông báo lô đất có diện
tích 140m
2
đất, chiều rộng 7m, chiều sâu 20m, với giá khoảng 14.000.000đ, ông
không nhớ cụ thể, ông nộp được 5.000.000đ, do hoàn cảnh khó khăn thì ông
không nộp nữa và trả lại đất cho UBND xã Hải M nhưng phải mất thời gian sau
ông mới nhận lại được tiền. Đến những năm gần đây vợ chồng ông C, bà T có yêu
cầu ông ký hợp đồng chuyển nhượng đất với ông C, bà T ông không nhất trí vì
bản thân ông từ trước đến nay không ký kết hợp đồng gì với ông C, bà T. Đến nay
ông chỉ xác nhận ông C, bà T có quyền quản lý, sử dụng lô đất trước đây ông đã
đăng ký, ông khẳng định không có tranh chấp thửa đất này với ông C, bà T nên
việc cấp GCNQSDĐ thuộc trách nhiệm của các Cơ quan Nhà nước.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đại diện UBND xã Hải M trình bày:
- Về quá trình sử dụng đất: Năm 1996, theo quyết định số 987/QĐUB ngày
05/7/1996 của UBND tỉnh Nam Hà về việc giao đất để làm nhà ở cho 50 hộ gia
3
đình. Theo đó, danh sách các hộ đề nghị giao đất làm nhà ở kèm theo tờ trình số
04/TTUB của UBND xã Hải M có tên hộ ông Hoàng Văn C1 được đề nghị giao
140 m
2
đất ở tại thửa đất số 357, tờ bản đồ số 7 (bản đồ 299). Tại thời điểm hộ
ông Hoàng Văn C1 không nộp tiền sử dụng đất, hộ ông Lương Văn Cnộp tiền sử
dụng đất và đã sử dụng thửa đất trên cho đến thời điểm hiện nay, thửa đất sử dụng
ổn định không có tranh chấp về ranh giới.
- Về hồ sơ UBND xã Hải M hiện đang quản lý. Trên bản đồ địa chính đo đạc
năm 1998 và trên sổ mục kê lập năm 2002, thì thửa đất nêu trên mà hộ ông bà
Lương Văn C đang sử dụng là thửa đất số 73, tờ bản đồ số 53, tại xóm 16 xã Hải
M có diện tích là 120 m
2
, trong đó, đất ở tại nông thôn (ONT) là 100 m
2
, đất UB
do UBND xã quản lý là 20 m
2
. Phía đông giáp mương, phía tây giáp đường, phía
bắc giáp thửa đất số 170, phía nam giáp thửa đất số 74.
Tại thời điểm đo đạc thành lập bản đồ địa chính năm 1998, các thửa đất nằm
trên đường trục xã (hiện nay là đường Trung Hoà) bao gồm các thửa từ thửa 170
đến thửa đất số 83 đều được để lại một phần quỹ đất là đất UB nhằm mục đích
phục vụ mở rộng đường giao thông, trong đó có thửa đất số 73 mà hộ ông Lương
Văn C đang sử dụng có 20m
2
đất UB. Qua quá trình sử dụng đất và khi cải tạo
nâng cấp mở rộng đường Trung Hòa đã sử dụng khoảng 10 m
2
trong số 20m
2
đất
UB nêu trên để mở rộng đường và làm rãnh thoát nước, hiện tại còn khoảng 10m
2
nằm sát mép đường Trung Hoà thuộc quỹ đất do UBND xã quản lý để mở rộng
đường trong giai đoạn tiếp theo.
Về nội dung vụ án, UBND xã Hải M đề nghị Toà án giải quyết theo quy định
của pháp luật.
Người làm chứng ông Nguyễn Văn T trình bày: Ông được UBND xã Hải M
phân công làm công tác tài chính xã từ năm 1996 đến năm 2016 thì nghỉ hưu theo
chế độ Nhà nước. Năm 1996, UBND xã Hải M có trình các cấp có thẩm quyền
giao đất có thu tiền sử dụng đất cho 50 hộ gia đình để làm nhà ở. Ông Hoàng Văn
C1 là người đứng ra đăng ký và được duyệt 01 lô đất, sau khi nộp được một phần
tiền thì khó khăn không có khả năng nộp tiền tiếp nên xin trả lại Nhà nước. Do
ông Lương Văn C có anh em họ hàng với ông nên ông đã giới thiệu cho ông C, bà
T nộp tiền để được sử dụng lô đất của ông C1. Ông C, bà T đã nộp tiền thể hiện
qua 03 phiếu thu với số tiền 6.500.000đ, chứ không phải 11.500.000đ như ông C,
bà T trình bày. Về số tiền phải nộp để được sử dụng đất là bao nhiêu tiền do thời
gian đã lâu ông không nhớ. Việc nộp tiền do UBND xã Hải M thu và nộp vào
ngân sách Nhà nước. Đến nay, sổ sách lưu lại số tiền ông C, bà T đã nộp không
còn nhưng ông khẳng định ông C, bà T đã nộp đủ tiền thì UBND xã Hải M mới
bàn giao đất trên thực địa cho ông C, bà T và đã sử dụng ổn định từ đó đến nay.
Tại Văn bản phúc đáp số 3072/CCT-NV ngày 16/12/2024, Chi cục thuế
huyện H cung cấp: Căn cứ vào hồ sơ tài liệu lưu trữ tại Chi cục Thuế huyện H thì
từ năm 1997, 1998, Chi cục thuế chỉ theo dõi tổng số tiền phải nộp, đã nộp của
từng Quyết định giao đất của các xã, thị trấn. Việc thu tiền của từng hộ gia đình
được giao đất do UBND xã Hải M đứng ra thu và nộp vào ngân sách Nhà nước
theo từng Quyết định nên Chi cục Thuế huyện Hải Hậu không có danh sách chi
tiết của từng hộ nộp tiền. Trong năm 1998, 1999 xã Hải M có 25 hộ nộp tiền sử

4
dụng đất riêng lẻ thì không có tên ai trong các tên nộp thuế mà Tòa án yêu cầu
cung cấp.
Tại Văn bản phúc đáp số 386/UBND-NNMT ngày 03/4/2025 của Ủy ban
nhân dân huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.
Về công nhận cho ông C, bà T được quyền sử dụng đất theo quyết định giao
đất hay công nhận theo bản đồ địa chính, sổ mục kê. Tòa án căn cứ vào quy định
tại khoản 6 Điều 135; khoản 4, điều 137 Luật đất đai năm 2024 để công nhận diện
tích cho ông C, bà T theo quy định của pháp luật.
Về diện tích đất UB 20m
2
nằm trong thổ của ông Lương Văn C, bà Nguyễn
Thị T đề nghị Tòa án tham khảo báo cáo số 25/BC-UBND ngày 13/3/2025 của
UBND xã Hải M gửi Phòng Nông nghiệp – Môi trường huyện Hải Hậu.
Về giá tiền ông C, bà T phải nộp. Quá trình thu thập bảng giá đất lưu tại
UBND xã Hải M không khớp với số tiền phải nộp. Chi cục thuế huyện Hải Hậu
không tìm được tài liệu để cung cấp nên không xác định được nghĩa vụ tài chính
của ông C, bà T đã nộp là bao nhiêu tiền.
Tại phiên tòa ông Lương Văn C và bà Nguyễn Thị T thay đổi yêu cầu khởi
kiện, đề nghị Tòa án công nhận cho ông bà được sử dụng 120m
2
đất loại đất
ONT.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hải Hậu tại phiên tòa phát biểu
quan điểm:
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện
đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng dân sự quy định. Các đương sự đã chấp
hành đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật.
Về nội dung: 158, 160, 161, 163 Bộ luật Dân sự năm 2015; các Điều 135,
137 của Luật Đất đai năm 2024; đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông
Lương Văn Cvà bà Nguyễn Thị T; Ông C, bà T được quyền sử dụng 120m
2
đất
ONT tại thửa 73, tờ bản đồ số 53 xã Hải M. Các đương sự phải nộp án phí theo
quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại
phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Ông Lương Văn C và bà
Nguyễn Thị T khởi kiện tranh chấp về quyền sử dụng đất. Đất tranh chấp có địa
chỉ tại xã Hải M, huyện H, tỉnh Nam Định. Căn cứ khoản 9 Điều 26; điểm a
khoản 1 Điều 35; điểm c khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.
[2] Về thủ tục tố tụng: Ông Hoàng Văn C1 là bị đơn; người đại diện hợp
pháp của UBND xã Hải M có ý kiến xin xét xử vắng mặt. Người làm chứng ông
Nguyễn Văn T vắng mặt tại phiên toà nhưng có yêu cầu giải quyết vắng mặt. Do
đó Toà án xét xử vắng mặt các đương sự và người làm chứng là phù hợp quy định
tại khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, khoản 2 Điều 229 Bộ luật Tố tụng dân
5
sự năm 2015.
[3] Về nội dung:
[3.1] Về nguồn gốc và hồ sơ địa chính: Căn cứ lời trình bày của các đương
sự và các tài liệu có trong hồ sơ thì nguồn gốc thửa đất số 73, tờ bản đồ số 53,
diện tích trên sơ đồ là 120m
2
trong đó (100m
2
đất ONT, 20m
2
đất UB) tại xóm 16,
xã Hải M, huyện H là do được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất qua hình
thức đăng ký. Ông Hoàng Văn C1 là người đăng ký và được phê duyệt giao cho
quản lý, sử dụng 140m
2
đất ở. Do kinh tế khó khăn, ông C1 trả lại đất cho UBND
xã Hải M thì ông C, bà T là người nộp tiền và được UBND xã Hải M giao cho sử
dụng ổn định từ năm 1998 đến nay. Tuy nhiên, khi làm hồ sơ cấp GCNQSDĐ thì
phát sinh tranh chấp. Nguyên nhân là do trong quyết định giao đất và danh sách
hộ được duyệt giao đất ở lại đứng tên của ông Hoàng Văn C1. Sổ mục kê, bản đồ
địa chính năm 1998 lại đứng tên ông Lương Văn C. Diện tích đất cũng có sự sai
lệch từ 140m
2
đất ONT xuống còn 120m
2
đất (trong đó có 100m
2
đất ONT, 20m
2
đất UB). Nay ông Lương Văn C và bà Nguyễn Thị T khởi kiện yêu cầu Tòa án
công nhận cho ông C, bà T được quyền sử dụng 140m
2
, nay thay đổi đề nghị giao
120m
2
theo quyết định giao đất và danh sách được duyệt. Ông Hoàng Văn C1
không chấp nhận đơn khởi kiện của ông C, bà T vì ông C1 cho rằng không
chuyển nhượng đất cho ông C, bà T nên không đồng ý cùng ông C, bà T hoàn
thiện hồ sơ cấp GCNQSDĐ.
[3.2] Về quá trình sử dụng đất: Theo lời trình bày của ông Lương Văn C thì
thấy, vợ chồng ông bà được UBND xã Hải M giao đất từ năm 1998. Sau khi được
giao đất, vợ chồng ông đã xây nhà mái bằng 02 tầng và các công trình khác trên
thổ đất từ đó đến nay. Hiện không có tranh chấp với các hộ liền kề về ranh giới
đất. Trong quá trình giải quyết vụ án ông Hoàng Văn C1 cũng khẳng định trước
đây ông cũng có ý định mua thửa đất này, nhưng sau đó ông đã trả lại cho UBND
xã Hải M nên đến nay ông không có tranh chấp với ông C, bà T về quyền sử dụng
đất. Trách nhiệm cấp GCNQSDĐ thuộc Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
[3.3] Theo kết quả đo vẽ trên thực địa của Công ty TNHH Ân Khánh ngày
11/12/2024 thì vợ chồng ông C, bà T đang sử dụng tổng diện tích 140m
2
đất, phù
hợp với Quyết định giao đất và danh sách các hộ được duyệt giao đất năm 1996 là
140m
2
. Tuy nhiên, sổ mục kê, bản đồ địa chính
thiết lập năm 1998 thì diện tích lại
là 120m
2
.
[3.4] Xem xét các tài liệu địa chính do UBND xã Hải M và Chi nhánh Văn
phòng đăng ký đất đai huyện H cung cấp gồm: Quyết định số 987/QĐ-UB ngày
05/7/1996 của UBND tỉnh Nam Hà, nay là tỉnh Nam Định giao đất cho 50 hộ
nhân xã Hải M huyện H tự làm nhà ở; các tờ trình đề nghị thu hồi và giao đất cho
nhân dân làm nhà ở; Biên bản phúc tra hồ sơ xin giao đất; Danh sách các hộ đề
nghị làm nhà ở; Thống kê vị trí thu hồi đất và giao đất; Trích nghị quyết Hội đồng
nhân dân xã Hải M về việc đề nghị thu hồi đất và giao đất; Biên bản xét duyệt đề
nghị xin giao đất làm nhà ở; Danh sách các hội được duyệt giao đất; Trích vị trí
giao đất; Mặt bằng giao đất thực địa cho nhân thì chỉ ghi diện tích được giao cho
Hoàng Văn C1 là 140m
2
nhưng không có số liệu đo đạc chi tiết từng cạnh của
thửa đất.

6
[3.5] Về số tiền phải nộp: Nguyên đơn giao nộp cho Tòa án 03 phiếu thu tiền
do UBND xã Hải M thu gồm: Phiếu thu số 47 ngày 16/4/1998 nộp 5.000.000đ,
Phiếu thu số 55 ngày 16/7/1998 nộp 1.000.000đ và Phiếu thu số 15 ngày
22/7/1998 nộp 500.000đ. Tổng số tiền đã nộp 6.500.000đ. Ngoài ra, nguyên đơn
còn trình bày nộp thêm 5.000.000đ cho ông Nguyễn Văn T vào ngày 10/4/1998,
được ông T ghi vào tờ lịch giao lại cho nguyên đơn giữ. Tuy nhiên, đến nay ông T
chỉ thừa nhận có nhận số tiền trên nhưng đã nộp vào phiếu thu ngày 16/4/1998.
Căn cứ vào Biên bản định giá đất giao cho nhân dân làm nhà ở tại xã Hải M ngày
20/5/1996, số thứ tự 25, tờ bản đồ số 7, thửa 357, diện tích 240m
2
, đơn giá
10.000đ/01m
2
, thành tiền 2.400.000đ; Phương án tính giá trị đất của UBND xã
Hải M được các Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt, số thứ tự 20, tờ bản
đồ số 7, thửa 357, diện tích 240m
2
, giá đất 15.000đ/01m
2
. Tổng giá trị đất
3.600.000đ. Theo các văn bản trên thì vợ chồng ông C, bà T đang nộp nhiều hơn
số tiền trên. Tuy nhiên đến nay, do sổ sách tài chính trong giai đoạn 1996 đến
1998 thất lạc, chưa tìm thấy nên không có căn cứ xác định số tiền nguyên đơn
phải nộp là bao nhiêu tiền. Mặt khác, tại Công văn trả lời của Chi cục thuế huyện
Hải Hậu ngày 16/12/2024 thì từ năm 1997, 1998, Chi cục thuế chỉ theo dõi tổng
số tiền phải nộp, đã nộp của từng Quyết định giao đất của các xã, thị trấn. Việc
thu tiền của từng hộ sẽ qua UBND xã, thị trấn thu nên không có số tiền cụ thể của
từng người. Để đảm bảo quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người dân và lẽ công
bằng cần công nhận số tiền 6.500.000đ nguyên đơn đã nộp cho UBND xã Hải M
đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính cho Nhà nước là có căn cứ chấp nhận.
[4] Về yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất của nguyên đơn: Tại đơn khởi
kiện, ông Lương Văn Cvà bà Nguyễn Thị T có yêu cầu công nhận thửa đất số 73,
tờ bản đồ 53 gia đình ông bà đang sử dụng có diện tích 140m
2
đất, khác với diện
tích trên sổ mục kê, bản đồ địa chính thiết lập năm 1998 là 120m
2
trong đó (100m
2
đất ONT, 20m
2
đất UB). Xét thấy, tại sơ đồ đo vẽ hiện trạng thửa đất của Công ty
TNHH Ân Khánh ngày 11/12/2024, ông C, bà T đang sử dụng tính từ mép đường
nhựa đến mương nước đã quy hoạch dài 21,6m, rộng 6,5m tổng diện tích 140m
2
.
Tuy nhiên, tại Công văn số 13/CV-UBND ngày 03/4/2025 của UBND xã Hải M
và Văn bản phúc đáp số 386/UBND-NNMT ngày 03/4/2025 của UBND huyện H
có trình bày. Tại thời điểm đo đạc bản đồ địa chính năm 1998, khi cấp đất cho các
hộ dân làm nhà ở trên mặt đường trục xã (nay là đường Trung Hòa) từ thửa đất số
70 đến thửa đất số 83 tờ bản đồ số 53 UBND xã có để lại một phần quỹ đất nhằm
mục đích phục vụ mở rộng đường giao thông, trong đó có thửa đất số 73 tờ bản
đồ số 53 để lại 20m
2
đất UBND xã quản lý. Qua quá trình sử dụng đất cải tạo
nâng cấp mở rộng đường Trung Hòa, UBND xã Hải M đã sử dụng khoảng 10m
2
trong số 20m
2
đất UBND xã quản lý nêu trên để mở rộng đường và làm rãnh thoát
nước, hiện tại còn khoảng 10 m
2
nằm sát mép đường Trung Hòa thuộc quỹ đất do
UBND xã quản lý để mở rộng đường trong giai đoạn tiếp theo.
Theo sổ mục kê, bản đồ địa chính năm 1998 thể hiện ông C, bà T được sử
dụng 120m
2
trong đó (100m
2
đất ONT, 20m
2
đất UB) là không phù hợp, có sai sót
trong việc lập bản đồ địa chính, sổ mục kê cũng như diện tích đất. Căn cứ vào
khoản 6 Điều 135 Luật đất đai năm 2024 quy định “ Trường hợp có sự chênh lệch
diện tích giữa số liệu đo đạc thực tế với số liệu ghi trên giấy tờ quy định tại Điều

7
137…, không có tranh chấp với những người sử dụng đất liền kề thì khi cấp hoặc
cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với
đất, diện tích đất được xác định theo số liệu đo đạc thực tế”. Như vậy, ông C, bà
T đang quản lý, sử dụng đất, không có tranh chấp với các hộ liền kề có chiều rộng
6,5m, chiều dài cạnh phía Bắc là 18,4m, chiều dài cạnh phía Nam là 18,8m, diện
tích 120m
2
; còn nếu công nhận cho ông C, bà T sử dụng 140m
2
thì phía Tây vào
quy hoạch đất mở rộng đường, phía Đông vào mương nước. Do vậy, có căn cứ
công nhận cho ông C, bà T được sử dụng diện tích 120m
2
đất là phù hợp. Về loại
đất do ông C, bà T được công nhận đã nộp đủ tiền sử dụng đất nên diện tích đất
tăng từ 100m
2
ONT lên 120m
2
ONT, ông C, bà T không phải nộp thêm tiền sử
dụng đất là phù hợp.
[5] Về chi phí tố tụng: Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ; đo đạc đất và định
giá tài sản tổng cộng là 7.868.000 đồng. Ông C, bà T tự nguyện nộp và đã chi
xong nên không xem xét.
[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được
chấp nhận nên về nguyên tắc bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không có giá
ngạch. Tuy nhiên, ông Lương Văn C và bà Nguyễn Thị T tự nguyện nộp thay cho
ông Hoàng Văn C1 nên được ghi nhận.
[7] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định
tại Điều 271 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 158, 160, 161, 163 Bộ luật Dân sự năm 2015; các Điều 135,
137 của Luật Đất đai năm 2024; khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, khoản 2
Điều 229 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lương Văn C và bà Nguyễn Thị T
về việc tranh chấp quyền sử dụng đất có nguồn gốc được Nhà nước giao đất có
thu tiền sử dụng đất đối với ông Hoàng Văn C1 và yêu cầu công nhận quyền sử
dụng đất.
2. Công nhận ông Lương Văn C và bà Nguyễn Thị T được quyền sử dụng
120m
2
đất (ONT) tại thửa đất số 73, tờ bản đồ số 53 vị trí tại xã Hải M, huyện Hải
Hậu, tỉnh Nam Định được giới hạn bởi các điểm mốc (2,3,4,5,2) trên sơ đồ kèm
theo bản án.
Kiến nghị Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền điều chỉnh số liệu về diện tích
đất trong Sổ mục kê, bản đồ địa chính thửa đất số 73, tờ bản đồ số 53 xã Hải M từ
diện tích 100m
2
đất ở (ONT) lên 120m
2
đất ở (ONT), nhưng không phải nộp thêm
tiền sử dụng đất.
3. Nghĩa vụ bàn giao: Do ông C, bà T đang quản lý, sử dụng đất nên không
phải đề nghị Cơ quan thi hành án dân sự về bàn giao tài sản.
4. Về chi phí tố tụng: Ông Lương Văn C và bà Nguyễn Thị T phải nộp
7.868.000đ (Bảy triệu tám trăm sáu mươi tám nghìn đồng) chi phí tố tụng. Xác
8
nhận ông C, bà T đã nộp tiền tạm ứng tại Toà án và đã thanh toán xong chi phí tố
tụng.
5. Án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Ông Lương Văn C và bà Nguyễn Thị T nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng)
án phí dân sự sơ thẩm. Nhưng được khấu trừ vào số tiền án phí đã nộp tại Biên lai
thu số 0003335 ngày 04/10/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H. Ông
C, bà T đã nộp đủ tiền án phí.
6. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15
ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng
mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận
được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án
dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi
hành án dân sự.
Nơi nhận:
- Đương sự;
- TAND tỉnh Nam Định;
- VKSND huyện H;
- Chi cục THADS huyện H;
- UBND xã Hải M;
- Hồ sơ vụ án;
- Lưu văn phòng:
TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
Nguyễn Văn Đính
9
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 07/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 01/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 28/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 25/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 21/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 17/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 10/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 30/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 27/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 26/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 25/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 25/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 23/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 20/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 19/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 18/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 17/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 16/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 13/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 12/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm