Bản án số 65/2025/DS-ST ngày 29/04/2025 của TAND huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định về tranh chấp đất đai

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 65/2025/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 65/2025/DS-ST ngày 29/04/2025 của TAND huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định về tranh chấp đất đai
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp đất đai
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Hải Hậu (TAND tỉnh Nam Định)
Số hiệu: 65/2025/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 29/04/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: chấp nhận đơn khởi kiện
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN HẢI HẬU
TỈNH NAM ĐỊNH
Bản án số: 65/2025/DS-ST
Ngày: 29 - 4 - 2025
V/v: Tranh chấp quyền sử dụng đất có nguồn gốc do
do Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HẢI HẬU, TỈNH NAM ĐỊNH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Đính.
Các Hội thẩm nhân dân:
Ông Nguyễn Văn Hóa;
Bà Nguyễn Thị Thuý Mùi.
- Thư phiên tòa: Ông Nguyn Công Thành - Thư Tòa án nhân dân
huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.
- Đaị diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định tham
gia phiên tòa: Ông Lại Minh Khôi - Kiểm sát viên.
Trong ngày 29 tháng 4 năm 2025 tại trụ sa án nhân dân huyện Hải Hậu,
tỉnh Nam Định xét xử thẩm công khai
vụ án thụ số: 119/2024/TLST-DS
ngày 04 tháng 10 năm 2024 về việc “ Tranh chấp quyền sử dụng đất có nguồn gốc
do Nhà nước giao đất thu tiền sử dụng đấttheo Quyết định đưa vụ án ra xét
xử số: 50/2025/QĐXXST-DS ngày 04 tháng 4 năm 2025, giữa:
- Nguyên đơn: Ông Lương Văn C, sinh năm 1972 Nguyn Th T, sinh
năm 1979; đa ch: Xóm 16, Hi M, huyn H, tỉnh Nam Định. mt.
- Bị đơn: Ông Hoàng Văn C1, sinh m 1966; địa ch: Xóm 14, Hi M,
huyn H, tnh Nam Đnh. Vng mt.
- Người có quyn li, nghĩa vụ liên quan: U ban nhân dân Hi M, huyn
H, tỉnh Nam Định.
Người đại din theo pháp lut: Ông Trn Thanh H1 Ch tch UBND xã Hi
M, huyn H, tỉnh Nam Định. Vng mt.
Ngưi làm chng: Ông Nguyn Văn T, sinh năm 1956; địa ch: Xóm 14,
Hi M, huyn H, tỉnh Nam Định. Vng mt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện ngày 30/9/2024 các lời khai trong quá trình tố tụng,
nguyên đơn ông Lương Văn C và bà Nguyễn Thị T trình bày:
2
m 1996, Uban nhân dân (UBND) Hải M trình các cấp thẩm
quyền giao 50 đất ven đường trục xã cho nhân dân làm nhà ở. Ông Hoàng Văn
C1 người đăng nên được UBND tỉnh Nam (nay tỉnh Nam Định) giao
cho sử dụng 140m
2
(loại đất ONT) tại thửa 357, tờ bản đồ số 7 Hải M (nay
thửa 73, tờ bản đồ số 53). Sau khi có quyết định giao đất, ông Hoàng Văn C1 np
được khoảng 5.000.000đ do kinh tế khó khăn nên không nộp tiền tiếp và đã trả lại
đất cho UBND xã. Đến cuối năm 1997, biết được thông tin trên, vợ chồng ông
đã đến UBND Hải M nộp tiền đsử dụng vào lô đất của ông C1. Tổng số tiền
vợ chồng ông đã nộp cho UBND Hải M 11.500.000đ (Mười một triệu
năm trăm nghìn đồng) hóa đơn chứng từ kèm theo. Sau khi nộp tiền ông đã
được UBND Hải M giao đất và đã xây nhà sử dụng ổn định từ đó đến nay.
Hiện ông đã tên trên sổ mục kê, bản đồ địa chính Hải M. điều kiện
kinh tế khó khăn hay đi làm kinh tế xa, không hiểu biết pp luật nên vợ chồng
ông bà chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ). Mặc dù
tên trong smục kê, bản đđịa chính nhưng không hiểu do thửa đất chỉ
có diện tích 120m
2
đất
trong đó (100m
2
đất ONT, 20m
2
đất UB).
Đến thời gian gần, ông bà đnghị UBND Hải M làm thủ tục đề nghị
các cấp thẩm quyền cấp GCNQSDĐ thì được trả lời không thể thực hiện được
do trong quyết định giao đất danh sách các hộ được giao đất năm 1996
chưa chỉnh tên ông vẫn đứng tên ông Hoàng Văn C1. Ông C1 cũng đã
xác nhận với vợ chồng ông và với UBND việc năm 1996 nguyện vọng
đăng sdụng đất nhưng sau không nhu cầu nên vợ chồng ông là người
nộp tiền, nhận đất sử dụng. Tuy nhiên, ông C1 cũng không hợp tác làm giấy tờ
chuyển ttên ông C1 sang tên vợ chồng ông theo shướng dẫn của quan
chuyên môn để vợ chồng ông bà được cấp GCNQSDĐ.
Nay ông đề nghị Tòa án công nhận, ông quyền quản lý, sử dụng
thửa 73, tờ bản đồ 53 diện tích 140m
2
đất ONT xã Hải M.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 15/10/2024, bị đơn ông Hoàng Văn C1 trình
bày:
Năm 1996, ông nguyện vọng đăng để được sdụng 01 lô đất m
nhà của UBND Hải M. Ông được UBND Hải M thông báo đất diện
tích 140m
2
đất, chiều rộng 7m, chiều sâu 20m, với giá khoảng 14.000.000đ, ông
không nh cụ thể, ông nộp được 5.000.000đ, do hoàn cảnh khó khăn thì ông
không nộp nữa trả lại đất cho UBND Hải M nhưng phải mất thời gian sau
ông mới nhận lại được tiền. Đến những năm gần đây vợ chồng ông C, bà T có yêu
cầu ông hợp đồng chuyển nhượng đất với ông C, T ông không nhất t
bản thân ông từ trước đến nay không ký kết hợp đồng gì với ông C, bà T. Đến nay
ông chỉ xác nhận ông C, T quyền quản lý, sử dụng đất trước đây ông đã
đăng ký, ông khẳng định không tranh chấp thửa đất này với ông C, T nên
việc cấp GCNQSDĐ thuộc trách nhiệm của các Cơ quan Nhà nước.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đại diện UBND xã Hải M trình bày:
- Về quá trình sử dụng đất: Năm 1996, theo quyết định số 987/QĐUB ngày
05/7/1996 của UBND tỉnh Nam về việc giao đất để làm nhà cho 50 hộ gia
3
đình. Theo đó, danh sách các hộ đề nghị giao đất làm nhà kèm theo tờ trình số
04/TTUB của UBND Hải M tên hộ ông Hoàng Văn C1 được đề nghị giao
140 m
2
đất tại thửa đất số 357, tờ bản đồ số 7 (bản đồ 299). Tại thời điểm hộ
ông Hoàng Văn C1 không nộp tiền sử dụng đất, hộ ông Lương Văn Cnộp tiền sử
dụng đất và đã sử dụng thửa đất trên cho đến thời điểm hiện nay, thửa đất sử dụng
ổn định không có tranh chấp về ranh giới.
- Về hồ sơ UBND xã Hải M hiện đang quản lý. Trên bản đồ địa chính đo đạc
năm 1998 trên sổ mục lập m 2002, thì thửa đất nêu trên hộ ông
Lương Văn C đang sử dụng thửa đất số 73, tbản đồ số 53, tại xóm 16 Hải
M diện tích 120 m
2
, trong đó, đất tại nông thôn (ONT) 100 m
2
, đất UB
do UBND quản 20 m
2
. Phía đông giáp mương, phía tây gp đường, phía
bắc giáp thửa đất số 170, phía nam giáp thửa đất số 74.
Tại thi điểm đo đạc thành lập bản đồ địa chính năm 1998, các thửa đất nằm
trên đường trục xã (hiện nay đường Trung Hoà) bao gồm các thửa từ thửa 170
đến thửa đất số 83 đều được để lại một phần quỹ đất đất UB nhằm mục đích
phục vụ mở rộng đường giao thông, trong đó thửa đất số 73 hộ ông Lương
Văn C đang sử dụng 20m
2
đất UB. Qua quá trình sử dụng đất và khi cải tạo
nâng cấp mở rộng đường Trung Hòa đã sử dụng khoảng 10 m
2
trong số 20m
2
đất
UB nêu trên để mở rộng đường và làm nh thoát nước, hiện tại còn khoảng 10m
2
nằm sát mép đường Trung Hoà thuộc quỹ đất do UBND quản đmở rộng
đường trong giai đoạn tiếp theo.
Về nội dung vụ án, UBND xã Hải M đề nghị Toà án giải quyết theo quy định
của pháp luật.
Người làm chứng ông Nguyễn Văn T tnh bày: Ông được UBND Hải M
phân công làm công tác tài chính từ năm 1996 đến năm 2016 thì nghỉ hưu theo
chế độ Nhà nước. Năm 1996, UBND Hải M trình các cấp thẩm quyền
giao đất có thu tiền sdụng đất cho 50 hộ gia đình đm nhà ở. Ông Hoàng Văn
C1 người đứng ra đăng được duyệt 01 lô đất, sau khi nộp được một phần
tiền thì khó khăn không khả năng nộp tiền tiếp nên xin trả lại Nhà nước. Do
ông Lương Văn C có anh em họ hàng với ông nên ông đã giới thiệu cho ông C,
T nộp tiền để được sử dụng đất của ông C1. Ông C, T đã nộp tiền thể hiện
qua 03 phiếu thu với số tiền 6.500.000đ, chứ không phải 11.500.000đ như ông C,
T trình bày. Về số tiền phải nộp để được sử dụng đất là bao nhiêu tiền do thời
gian đã lâu ông không nhớ. Việc nộp tiền do UBND Hải M thu và nộp vào
ngân sách Nnước. Đến nay, ssách lưu lại số tiền ông C, T đã nộp không
n nhưng ông khẳng định ông C, T đã nộp đủ tiền thì UBND xã Hải M mới
bàn giao đất trên thực địa cho ông C, T và đã sử dụng ổn định từ đó đến nay.
Tại Văn bản phúc đáp số 3072/CCT-NV ngày 16/12/2024, Chi cục thuế
huyện H cung cấp: Căn cứ vào hồ tài liệu lưu trữ tại Chi cục Thuế huyện H thì
từ năm 1997, 1998, Chi cục thuế chỉ theo dõi tổng số tiền phải nộp, đã nộp của
từng Quyết định giao đất của các xã, thị trấn. Việc thu tiền của từng hộ gia đình
được giao đất do UBND Hải M đứng ra thu nộp vào ngân sách Nhà nước
theo từng Quyết định nên Chi cục Thuế huyện Hải Hậu không danh sách chi
tiết của từng hộ nộp tiền. Trong năm 1998, 1999 Hải M 25 hộ nộp tiền sử
4
dụng đất riêng l thì không tên ai trong các tên nộp thuế Tòa án yêu cầu
cung cấp.
Tại Văn bản phúc đáp s 386/UBND-NNMT ngày 03/4/2025 của Ủy ban
nhân dân huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.
Về công nhận cho ông C, T được quyền sử dụng đất theo quyết định giao
đất hay công nhận theo bản đồ địa chính, sổ mục kê. Tòa án căn cứ vào quy định
tại khoản 6 Điều 135; khoản 4, điều 137 Luật đất đai năm 2024 để công nhận diện
tích cho ông C, bà T theo quy định của pháp luật.
Về diện tích đất UB 20m
2
nằm trong thổ của ông Lương Văn C, Nguyễn
Thị T đề nghị Tòa án tham khảo báo cáo s 25/BC-UBND ngày 13/3/2025 của
UBND xã Hải M gửi Phòng Nông nghiệp Môi trường huyện Hải Hậu.
Về giá tiền ông C, T phải nộp. Quá trình thu thập bảng giá đất lưu tại
UBND Hải M không khớp với số tiền phải nộp. Chi cục thuế huyện Hải Hậu
không tìm được tài liệu để cung cấp nên không xác định được nghĩa vụ tài chính
của ông C, bà T đã nộp là bao nhiêu tiền.
Tại phiên tòa ông Lương Văn C bà Nguyễn Thị T thay đổi yêu cầu khởi
kiện, đề ngh Tòa án công nhận cho ông bà được sử dụng 120m
2
đất loại đất
ONT.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hải Hậu tại phiên tòa phát biểu
quan điểm:
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử Thư phiên tòa đã thực hiện
đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng dân sự quy định. Các đương sđã chấp
hành đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật.
Về nội dung: 158, 160, 161, 163 Bộ luật Dân sự năm 2015; các Điều 135,
137 của Luật Đất đai năm 2024; đề nghị chấp nhận u cu khởi kiện của ông
Lương Văn Cvà Nguyễn Thị T; Ông C, T được quyền sử dụng 120m
2
đất
ONT tại thửa 73, tờ bản đồ số 53 Hải M. Các đương sự phải nộp án phí theo
quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án đã được thẩm tra tại
phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật thẩm quyền giải quyết: Ông Lương Văn C
Nguyễn Thị T khởi kiện tranh chấp về quyền sử dụng đất. Đất tranh chấp địa
chỉ tại Hải M, huyện H, tỉnh Nam Định. Căn cứ khoản 9 Điều 26; điểm a
khoản 1 Điều 35; điểm c khoản 1 Điều 39 của Bluật Tố tụng dân sự thì vụ án
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.
[2] Về thủ tục tố tụng: Ông Hoàng Văn C1 là bị đơn; người đại diện hợp
pháp của UBND Hải M ý kiến xin xét xử vắng mặt. Người làm chứng ông
Nguyễn Văn T vắng mặt tại phiên toà nhưng yêu cầu giải quyết vắng mặt. Do
đó Toà án xét xử vắng mặt các đương sự và người làm chứng là phù hợp quy định
tại khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, khoản 2 Điều 229 Bộ luật Tố tụng dân
5
sự năm 2015.
[3] Về nội dung:
[3.1] Về nguồn gốc hồ sơ địa chính: Căn cứ lời trình bày của các đương
sự các tài liệu trong hồ thì nguồn gốc thửa đất số 73, tờ bản đồ số 53,
diện tích trên sơ đồ 120m
2
trong đó (100m
2
đất ONT, 20m
2
đất UB) tại xóm 16,
xã Hải M, huyện H do được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất qua hình
thức đăng ký. Ông Hoàng Văn C1 người đăng được phê duyệt giao cho
quản lý, sdụng 140m
2
đất ở. Do kinh tế khó khăn, ông C1 trả lại đất cho UBND
xã Hải M thì ông C, bà T người nộp tiền được UBND xã Hải M giao cho sử
dụng ổn định tnăm 1998 đến nay. Tuy nhiên, khi làm hồ cấp GCNQSDĐ thì
phát sinh tranh chấp. Nguyên nhân là do trong quyết định giao đất danh sách
hộ được duyệt giao đất lại đứng tên của ông Hoàng Văn C1. Sổ mục kê, bản đồ
địa chính năm 1998 lại đứng tên ông Lương Văn C. Diện tích đất cũng ssai
lệch từ 140m
2
đất ONT xuống còn 120m
2
đất (trong đó 100m
2
đất ONT, 20m
2
đất UB). Nay ông Lương Văn C Nguyễn Thị T khởi kiện yêu cầu Tòa án
công nhận cho ông C, bà T được quyền sử dụng 140m
2
, nay thay đổi đề nghị giao
120m
2
theo quyết định giao đất danh sách được duyệt. Ông Hoàng Văn C1
không chấp nhận đơn khởi kiện của ông C, T ông C1 cho rằng không
chuyển nhượng đất cho ông C, T nên không đồng ý cùng ông C, T hoàn
thiện hồ sơ cấp GCNQSDĐ.
[3.2] Về quá trình sử dụng đất: Theo lời trình bày của ông Lương Văn C thì
thấy, vợ chồng ông được UBND xã Hải M giao đất từ năm 1998. Sau khi được
giao đất, vợ chồng ông đã xây nhà mái bằng 02 tầng và các công trình khác trên
thổ đất từ đó đến nay. Hiện không tranh chấp với các hliền kề về ranh giới
đất. Trong quá trình giải quyết vụ án ông Hoàng Văn C1 cũng khẳng định trước
đây ông cũng có ý định mua thửa đất này, nhưng sau đó ông đã trả lại cho UBND
xã Hải M nên đến nay ông không có tranh chấp với ông C, bà T về quyền sử dụng
đất. Trách nhiệm cấp GCNQSDĐ thuộc Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
[3.3] Theo kết quả đo vẽ trên thực địa của Công ty TNHH Ân Khánh ngày
11/12/2024 thì vợ chồng ông C, T đang sử dụng tổng diện tích 140m
2
đất, phù
hợp với Quyết định giao đất và danh sách các hộ được duyệt giao đất năm 1996
140m
2
. Tuy nhiên, sổ mục kê, bản đồ địa chính
thiết lập năm 1998 thì diện tích lại
là 120m
2
.
[3.4] Xem xét các tài liệu địa chính do UBND Hải M Chi nhánh Văn
phòng đăng đất đai huyện H cung cấp gồm: Quyết định s987/QĐ-UB ngày
05/7/1996 của UBND tỉnh Nam Hà, nay tỉnh Nam Định giao đất cho 50 hộ
nhân xã Hải M huyện H tlàm nhà ; các tờ trình đề nghị thu hồi và giao đất cho
nhân dân làm nhà ; Biên bản phúc tra hồ xin giao đất; Danh sách các hộ đề
nghị làm nhà ở; Thống kê vị trí thu hồi đất và giao đất; Trích nghị quyết Hội đồng
nhân dân xã Hải M về việc đề nghị thu hồi đất giao đất; Biên bản xét duyệt đề
nghị xin giao đất làm nở; Danh sách các hội được duyệt giao đất; Trích vị trí
giao đất; Mặt bằng giao đất thực địa cho nhân thì chỉ ghi diện tích được giao cho
Hoàng Văn C1 140m
2
nhưng không số liệu đo đạc chi tiết từng cạnh của
thửa đất.
6
[3.5] Về số tiền phải nộp: Nguyên đơn giao nộp cho Tòa án 03 phiếu thu tiền
do UBND xã Hải M thu gồm: Phiếu thu số 47 ngày 16/4/1998 nộp 5.000.000đ,
Phiếu thu số 55 ngày 16/7/1998 nộp 1.000.000đ Phiếu thu số 15 ngày
22/7/1998 nộp 500.000đ. Tổng số tiền đã nộp 6.500.000đ. Ngoài ra, nguyên đơn
còn trình bày nộp thêm 5.000.000đ cho ông Nguyễn Văn T vào ngày 10/4/1998,
được ông T ghi vào tờ lịch giao lại cho nguyên đơn giữ. Tuy nhiên, đến nay ông T
ch thừa nhận nhận số tiền trên nhưng đã nộp vào phiếu thu ngày 16/4/1998.
Căn cứ vào Biên bản định giá đất giao cho nhân dân làm nhà tại Hải M ngày
20/5/1996, số thứ tự 25, tờ bản đồ số 7, thửa 357, diện tích 240m
2
, đơn giá
10.000đ/01m
2
, thành tiền 2.400.000đ; Phương án nh giá trị đất của UBND
Hải M được các quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt, số thtự 20, tờ bản
đồ số 7, thửa 357, diện tích 240m
2
, giá đất 15.000đ/01m
2
. Tổng giá trị đất
3.600.000đ. Theo các văn bản trên thì vợ chồng ông C, T đang nộp nhiều hơn
số tiền trên. Tuy nhiên đến nay, do s sách tài chính trong giai đoạn 1996 đến
1998 thất lạc, chưa tìm thấy nên không căn cứ xác định stiền nguyên đơn
phải nộp là bao nhiêu tiền. Mặt khác, tại Công văn trả lời của Chi cục thuế huyện
Hải Hậu ngày 16/12/2024 thì từ năm 1997, 1998, Chi cục thuế chỉ theo dõi tổng
số tiền phải nộp, đã nộp của từng Quyết định giao đất của các xã, thtrấn. Việc
thu tiền của từng hộ sẽ qua UBND xã, thị trấn thu nên không có số tiền cụ thể của
từng người. Để đảm bảo quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người dân và lẽ công
bằng cần công nhận số tiền 6.500.00nguyên đơn đã nộp cho UBND Hải M
đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính cho Nhà nước là có căn cứ chấp nhận.
[4] Về yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất của nguyên đơn: Tại đơn khởi
kiện, ông Lương Văn Cvà Nguyễn Thị T yêu cầu công nhận thửa đất số 73,
tờ bản đồ 53 gia đình ông đang sử dụng diện tích 140m
2
đất, khác với diện
tích trên sổ mục kê, bản đồ địa chính thiết lập năm 1998 là 120m
2
trong đó (100m
2
đất ONT, 20m
2
đất UB). Xét thấy, tại đồ đo vẽ hiện trạng thửa đất của Công ty
TNHH Ân Khánh ngày 11/12/2024, ông C, T đang sử dụng tính từ mép đường
nhựa đến mương nước đã quy hoạch dài 21,6m, rộng 6,5m tổng diện tích 140m
2
.
Tuy nhiên, tại Công văn số 13/CV-UBND ngày 03/4/2025 của UBND Hải M
Văn bản phúc đáp s386/UBND-NNMT ngày 03/4/2025 của UBND huyện H
trình bày. Tại thời điểm đo đạc bản đồ địa chính năm 1998, khi cấp đất cho các
hộ dân làm nhà ở trên mặt đường trục xã (nay là đường Trung Hòa) từ thửa đất số
70 đến thửa đất số 83 tờ bản đồ số 53 UBND xã để lại một phần quỹ đất nhằm
mục đích phục vụ mở rộng đường giao thông, trong đó thửa đất số 73 tờ bản
đồ số 53 đlại 20m
2
đất UBND quản lý. Qua quá trình sử dụng đất cải tạo
nâng cấp mở rộng đường Trung Hòa, UBND Hải M đã sử dụng khoảng 10m
2
trong số 20m
2
đất UBND xã quản lý nêu trên để mở rộng đường và làm rãnh thoát
nước, hiện tại còn khoảng 10 m
2
nằm sát mép đường Trung Hòa thuộc quỹ đất do
UBND xã quản lý để mở rộng đường trong giai đoạn tiếp theo.
Theo sổ mục kê, bản đồ địa chính năm 1998 thể hiện ông C, T được sử
dụng 120m
2
trong đó (100m
2
đất ONT, 20m
2
đất UB) không phù hợp, có sai sót
trong việc lập bản đồ địa chính, sổ mục cũng như diện tích đất. Căn cứ vào
khoản 6 Điều 135 Luật đất đai năm 2024 quy định Trường hợp có sự chênh lệch
diện tích giữa số liệu đo đạc thực tế với số liệu ghi trên giấy tờ quy định tại Điều
7
137…, không có tranh chấp với những người sử dụng đất liền kề tkhi cấp hoặc
cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với
đất, diện tích đất được c định theo số liệu đo đạc thực tế”. Như vậy, ông C, bà
T đang quản lý, sử dụng đất, không có tranh chấp với các hộ liền kề có chiều rộng
6,5m, chiều dài cạnh phía Bắc là 18,4m, chiều dài cạnh phía Nam là 18,8m, diện
tích 120m
2
; còn nếu công nhận cho ông C, T sdụng 140m
2
thì phía Tây vào
quy hoạch đất mrộng đường, phía Đông vào mương ớc. Do vậy, căn c
công nhận cho ông C, T được sdụng diện tích 120m
2
đất là phù hợp. Về loại
đất do ông C, T được công nhận đã nộp đủ tiền sử dụng đất nên diện tích đất
tăng từ 100m
2
ONT lên 120m
2
ONT, ông C, bà T không phải nộp thêm tiền s
dụng đất phù hợp.
[5] Về chi phí tố tụng: Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ; đo đạc đất và định
giá tài sản tổng cộng 7.868.000 đồng. Ông C, T tự nguyện nộp đã chi
xong nên không xem xét.
[6] Về án phí dân sự thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được
chấp nhận nên về nguyên tắc bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không giá
ngạch. Tuy nhiên, ông Lương Văn C Nguyễn Thị T tự nguyện nộp thay cho
ông Hoàng Văn C1 nên được ghi nhận.
[7] Về quyền kháng cáo: Các đương sự quyền kháng cáo theo quy định
tại Điều 271 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 158, 160, 161, 163 Bộ luật Dân sự năm 2015; các Điều 135,
137 của Luật Đất đai năm 2024; khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, khoản 2
Điều 229 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lương n C Nguyễn Thị T
về việc tranh chấp quyền sử dụng đất nguồn gốc được Nhà nước giao đất
thu tiền sdụng đất đối với ông Hoàng Văn C1 yêu cầu công nhận quyền s
dụng đất.
2. Công nhận ông Lương Văn C Nguyễn Thị T được quyền sử dụng
120m
2
đất (ONT) tại thửa đất số 73, tờ bản đồ số 53 vị trí tại xã Hải M, huyện Hải
Hậu, tỉnh Nam Định được giới hạn bởi các điểm mốc (2,3,4,5,2) trên đồ kèm
theo bản án.
Kiến nghị Cơ quan Nhà nước thẩm quyền điều chỉnh số liệu vdiện tích
đất trong Smục kê, bản đđịa chính thửa đất số 73, tờ bản đồ s53 xã Hải M t
diện tích 100m
2
đất ở (ONT) lên 120m
2
đất ở (ONT), nhưng không phải nộp thêm
tiền sử dụng đất.
3. Nghĩa vụ bàn giao: Do ông C, T đang quản lý, sử dụng đất nên không
phải đề nghị Cơ quan thi hành án n sự về bàn giao tài sản.
4. Về chi phí tố tụng: Ông Lương Văn C và Nguyễn Thị T phải nộp
7.868.000đ (Bảy triệu tám trăm sáu mươi tám nghìn đồng) chi phí tố tụng. Xác
8
nhận ông C, T đã nộp tiền tạm ứng tại Toà án đã thanh toán xong chi ptố
tụng.
5. Án pdân sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Ông Lương Văn C Nguyễn Thị T nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng)
án phí dân sự sơ thẩm. Nhưng được khấu trừ vào số tiền án phí đã nộp tại Biên lai
thu số 0003335 ngày 04/10/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H. Ông
C, bà T đã nộp đủ tiền án phí.
6. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn quyền kháng cáo trong thời hạn 15
ngày k từ ngày tuyên án. Bị đơn người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng
mặt tại phiên tòa quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận
được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền
thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi nh án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a 9 Luật Thi hành án
dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi
hành án dân sự.
Nơi nhận:
- Đương sự;
- TAND tỉnh Nam Định;
- VKSND huyện H;
- Chi cục THADS huyện H;
- UBND xã Hải M;
- Hồ sơ vụ án;
- Lưu văn phòng:
TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TOẠ PHIÊN T
Nguyễn Văn Đính
9
Tải về
Bản án số 65/2025/DS-ST Bản án số 65/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 65/2025/DS-ST Bản án số 65/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất