Bản án số 63/2025/DS-PT ngày 16/09/2025 của TAND tỉnh Lạng Sơn về tranh chấp hợp đồng trao đổi tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 63/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 63/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 63/2025/DS-PT
| Tên Bản án: | Bản án số 63/2025/DS-PT ngày 16/09/2025 của TAND tỉnh Lạng Sơn về tranh chấp hợp đồng trao đổi tài sản |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng trao đổi tài sản |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Lạng Sơn |
| Số hiệu: | 63/2025/DS-PT |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 16/09/2025 |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa giữa nguyên đơn Háu Du T và bị đơn Trịnh Mỹ L |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LẠNG SƠN
Bản án số: 63/2025/DS-PT
Ngày 16-9-2025
V/v tranh chấp hợp đồng mua
bán hàng hóa
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LẠNG SƠN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Lương Thị Nguyệt
Các Thẩm phán: Bà Nguyễn Thị Hoa;
Ông Vi Đức Trí.
- Thư ký phiên tòa: Bà Dương Lan Phương - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Lạng Sơn.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn tham gia phiên toà: Bà
Hoàng Thị Ngân - Kiểm sát viên.
Ngày 16 tháng 9 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 24/2025/TLPT-DS ngày 19 tháng 8 năm
2025, v việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2025/DS-ST ngày 11 tháng 7 năm 2025
của Tòa án nhân dân khu vực 1 - Lạng Sơn bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa
vụ án ra xét xử phúc thẩm số 49/2025/QĐ-PT ngày 27 tháng 8 năm 2025 của Tòa
án nhân dân tỉnh Lạng Sơn, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Háu Du T, sinh năm 1989; Căn cước công dân số
079089006***, do Cục QLHC v TTXH cấp ngày 08-5-2021; địa chỉ: Số
374/62/2 A, phường B, thành phố H, có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Nguyễn Anh T – Luật
sư Công ty Luật TNHH P; địa chỉ: Số 38, đường L, phường Đ, tỉnh Lạng Sơn, có
mặt.
- Bị đơn: Bà Trịnh Mỹ L, sinh năm 1971; Căn cước công dân số
02017001***, do Cục QLHC v TTXH cấp ngày 16-4-2021; địa chỉ: Số 131A
đường L, phường T, tỉnh Lạng Sơn, có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Bà Hoàng Thị Kim K
- Luật sư Văn phòng Luật sư T, đoàn Luật sư tỉnh Lạng Sơn; địa chỉ: Số 11, Đường
Đ, khu Đô Thị P 4, tỉnh Lạng Sơn, có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
2
1. Ông Trần Minh V; địa chỉ: Xóm S, thôn H, xã H, tỉnh Gia Lai, vắng mặt.
2. Bà Huỳnh Thị Bích T. Địa chỉ: Số 374/62/2 A, phường B, thành phố H,
vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Huỳnh Thị Bích T: Ông Nguyễn Anh
T – Luật sư Công ty Luật TNHH P. Địa chỉ: Số 38, đường L, phường Đ, tỉnh Lạng
Sơn, có mặt.
- Người kháng cáo: Bà Trịnh Mỹ L, là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo Bản án sơ thẩm và tài liệu có trong hồ sơ, nội dung vụ án được tóm
tắt như sau:
Nguyên đơn ông Háu Du T do người đại diện theo ủy quyền của ông
Háu Du T là ông Nguyễn Anh T trình bày:
Ông Háu Du T quen bà Trịnh Mỹ L cư trú tại số 131A, L, phường T, thành
phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn qua một cò xe tên L, tại ngã ba A, huyện C, tỉnh
Tin Giang, khoảng gần cuối tháng 10 năm 2019. Bà Trịnh Mỹ L giới thiệu với
ông Háu Du T bà tên là Lan làm v trái cây, chuyên xuất hàng trái cây sang Trung
Quốc. Do bà Trịnh Mỹ L giới thiệu với ông Háu Du T tên là Lan và có giới thiệu
thêm là “làm luật ở các cửa khẩu Lạng Sơn”, nên ông Háu Du T vẫn gọi là Lan
và lưu số điện thoại trong danh bạ điện thoại là “Lam Luat Chi lan”. Ông Háu Du
T cũng chào hàng là xoài keo vàng các loại 1, 2, 3 với bà Trịnh Mỹ L.
Theo thỏa thuận giữa ông Háu Du T và bà Trịnh Mỹ L, thì ông Háu Du T
có trách nhiệm đóng hàng gửi cho bà Trịnh Mỹ L. Theo thỏa thuận ông Háu Du
T đã đóng khoảng 5, 6 công hàng cho bà Trịnh Mỹ L, gửi vào các ngày
03/01/2021; 04/01/2021; 07/01/2021; 08/01/2021; 09/01/2021; 13/01/2021;
20/01/2021 và ngày 21/01/2021. Khi gửi hàng ông Háu Du T có trao đổi ghi âm
qua Zalo, bà Trịnh Mỹ L đồng ý khi nào nhận được hàng thì bà Trịnh Mỹ L phải
trả tin cho ông Háu Du T. Ông Háu Du T có ghi hóa đơn (Vựa trái cây D. L.) nội
dung gồm số kg, số tin mà bà Trịnh Mỹ L phải thanh toán, sau đó chụp ảnh, gửi
cho bà Trịnh Mỹ L. Sau khi ông Háu Du T chụp và gửi hàng thì bà Trịnh Mỹ L
thanh toán tin cho ông Háu Du T. Bà Trịnh Mỹ L sử dụng tài khoản số
19035823631*** tại ngân hàng Techcombank chủ tài khoản là Phạm Quốc A để
chuyển tin đến tài khoản số 060149096*** của ông Háu Du T mở tại Ngân hàng
Sacombank chi nhánh A, phường 9, quận 11, thành phố H. Nội dung chuyển tin
được bà Trịnh Mỹ L ghi là Lan, “Lan ls” và “Lan lang son”. Ông Háu Du T mặc
nhiên cho rằng tài khoản đó là của bà Trịnh Mỹ L (vì ngoài số tài khoản này bà
Trịnh Mỹ L không giao dịch với ông Háu Du T bằng số tài khoản nào khác). Số
tin mà bà Trịnh Mỹ L phải thanh toán cho ông Háu Du T theo thỏa thuận là
2.140.730.000 đồng. Tổng số tin bà Trịnh Mỹ L đã trả là 1.100.000.000 đồng.
Nay bà Trịnh Mỹ L còn nợ ông Háu Du T số tin 1.040.730.000 đồng tin hàng
chưa thanh toán.
3
Tại khởi kiện nguyên đơn ông Háu Du T yêu cầu Tòa án giải quyết:
1. Buộc bà Trịnh Mỹ L phải trả cho ông Háu Du T số tin hàng còn nợ tổng
là 1.040.730.000 đồng.
2. Buộc bà Trịnh Mỹ L phải trả cho ông Háu Du T tin lãi của khoản tin
nợ nêu trên, với lãi suất theo quy định của pháp luật là 10%/năm, tính lãi kể từ
ngày chậm trả là ngày 15/4/2021 tạm tính đến ngày 21/3/2025 tổng số tin lãi là
306.000.000 đồng.
Tổng số tin nợ gốc là 1.040.730.000 đồng và tin lãi là 306.000.000 đồng
ông T yêu cầu bà Trịnh Mỹ L phải trả tin gốc và lãi là 1.346.730.000 đồng (Bằng
chữ: Một tỷ, ba trăm bốn sáu triệu, bẩy trăm, ba mươi ngàn đồng).
3. Yêu cầu bà Trịnh Mỹ L phải tiếp tục có trách nhiệm trả tiếp tin lãi cho
ông T từ sau ngày 21/3/2025 cho đến khi thanh toán xong toàn bộ số nợ.
Tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn do người đại diện theo ủy quyn của
nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện, cụ thể: Yêu cầu buộc bà Trịnh Mỹ L phải
thanh toán tin mua bán quả xoài keo vàng còn nợ cho ông Háu Du T là
790.560.000 đồng và rút yêu cầu bà Trịnh Mỹ L phải thanh toán 250.170.000
đồng cùng lãi suất chậm trả từ ngày vi phạm không thanh toán tin hàng là ngày
15/4/2021 đến ngày xét xử sơ thẩm trên tổng số tin 1.040.730.000 đồng là
429.129.000 đồng.
Bị đơn bà Trịnh Mỹ L trình bày: Trong tháng 01/2021, bà Trịnh Mỹ L
có được mua xoài quả với ông Háu Du T qua mạng Zalo để đem sang Trung Quốc
bán, việc mua bán bà Trịnh Mỹ L nhớ là chỉ 03 lần, vì trong thời Covid có rất
nhiu người gửi xoài ra để cho bà Trịnh Mỹ L bán, nếu không bán nhanh thì xoài
sẽ hư hỏng hết. Lúc ông Háu Du T chuyển xoài ra thì bà Trịnh Mỹ L có nói là bây
giờ giá cả không được giá và hàng thì không để được lâu nên ông Háu Du T nhất
trí thì bán rẻ cũng bán.
Ông Háu Du T chuyển cho bà Trịnh Mỹ L lần đầu 700 rổ quả xoài tương
ứng 30kg/01 rổ; lần thứ 02, lần 03 không nhớ là bao nhiêu rổ, do trong 01 xe công
ten nơ có hàng (quả xoài) của rất nhiu chủ hàng cùng chuyển cho bà Trịnh Mỹ
L để đem bán sang Trung Quốc.
Khi ông Háu Du T chuyển xoài lên cho bà Trịnh Mỹ L thường là trong 01
xe công ten nơ có cả hàng của chủ hàng khác, nhưng hàng của ông Háu Du T
nhiu hơn các chủ hàng khác.
Khi hàng của ông Háu Du T chuyển lên là bà Trịnh Mỹ L ra nhận hàng
qua xe ô tô công ten nơ và bà Trịnh Mỹ L làm thủ tục chuyển qua Trung Quốc để
chủ mua hàng kiểm hàng và xác nhận đủ hàng khớp với thông báo của ông Háu
Du T chuyển hàng lên cho bà Trịnh Mỹ L, vì bà Trịnh Mỹ L là người trực tiếp
làm việc với người mua xoài bên Trung Quốc, nhưng cũng chỉ qua mạng Zalo để
kiểm hàng do thời điểm đó bị dịch covid19 nên không ra thực địa kiểm hàng được.
Nhưng hàng của ông Háu Du T chuyển lên qua kiểm hàng đu đủ hàng theo bà
Trịnh Mỹ L yêu cầu ông Háu Du T chuyển hàng lên.

4
Việc mua, bán xoài với ông Háu Du T chỉ có 03 lần, bà Trịnh Mỹ L chỉ
có tài liệu là chuyển tin vào tài khoản qua ngân hàng Techcombank là do bà
Trịnh Mỹ L mở tài khoản ở đó, ngoài ra bà Trịnh Mỹ L không chuyển tin qua
ngân hàng nào khác cho ông Háu Du T và cũng chỉ chuyển cho ông Háu Du T 03
lần.
Hiện nay bà Trịnh Mỹ L không nợ tin của ông Háu Du T, trước bà Trịnh
Mỹ L có hứa với ông Háu Du T là khi nào bà Trịnh Mỹ L bán được hàng là quả
xoài của người khác mà có lãi thì bà Trịnh Mỹ L sẽ chuyển cho ông Háu Du T ít
tin cho ông Háu Du T đỡ bị thua lỗ.
Nay ông Háu Du T khởi kiện yêu cầu bà Trịnh Mỹ L thanh toán số nợ gốc
1.040.730.000 đồng và lãi là 306.000.000 đồng, tổng cộng 1.346.730.000 đồng là
không đúng, hiện tại bà Trịnh Mỹ L không có nợ tin gì của ông Háu Du T, do
vậy bà Trịnh Mỹ L không chấp nhận thanh toán toàn bộ số tin trên cho ông Háu
Du T. Ngoài ra việc mua bán xoài giữa ông Háu Du T với bà Trịnh Mỹ L không
có liên quan đến ông Trần Minh V, do mua bán xoài là bà Trịnh Mỹ L tự mua bán
với ông Háu Du T.
Tại phiên tòa sơ thẩm bà Trịnh Mỹ L thừa nhận các cuộc gọi video trên
điện thoại qua mạng zalo là đúng việc bà Trịnh Mỹ L đã giao dịch mua bán xoài
với ông Háu Du T và thừa nhận số lượng, chất lượng quả xoài keo vàng ông Háu
Du T chuyển cho bà Trịnh Mỹ L là đúng như thỏa thuận trên mạng zalo, riêng chỉ
tranh chấp v giá xoài nên bà không nhất trí với giá xoài mà ông Háu Du T đã
thông báo trên zalo cho bà và không nhất trí trả tin cho ông Háu Du T.
Người có quyn lợi nghĩa vụ liên quan anh Trần Minh V: Không có ý kiến
trình bày.
Ông Nguyễn Anh T là người đại diện theo ủy quyn của người có quyn
lợi nghĩa vụ liên quan bà Huỳnh Thị Bích T trình bày: Bà Huỳnh Thị Bích T nhất
trí với yêu cầu và ý kiến của ông Háu Du T.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2025/DS-ST ngày 11 tháng 7 năm 2025
của Tòa án nhân dân khu vực 1- Lạng Sơn đã căn cứ vào khoản 3 Điu 26; Điu
35; điểm a khoản 1 Điu 39 và các Điu 235; 264; 266; 271; 273; 217; 218; 244
của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điu 385; 386; 430; 431; 432; 433; 434; 435; 436;
440; 357; 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 2 Điu 26 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội v
mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Háu Du T buộc bà
Trịnh Mỹ L phải thanh toán tin mua bán hàng hóa là quả xoài keo vàng, cụ thể:
Buộc bà Trịnh Mỹ L phải thanh toán cho ông Háu Du T số tin mua bán
quả xoài keo vàng còn nợ là 790.560.000 đồng (bẩy trăm chín mươi triệu năm
trăm sáu mươi nghìn đồng).

5
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và có đơn yêu cầu thi hành án của
người được thi hành án, nếu bà Trịnh Mỹ L không thi hành xong khoản tin nợ
mua, bán quả xoài keo vàng nêu trên thì còn phải chịu khoản lãi đối với số tin
còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điu 357, Điu 468 của Bộ
luật Dân sự năm 2015.
2. Đình chỉ giải quyết, xét xử đối với yêu cầu khởi kiện của ông Háu Du
T v số tin mua bán xoài là 250.170.000 đồng và số tin lãi suất chậm trả trên số
tin khởi kiện 1.040.730.000 đồng tính từ ngày 15/4/2021 đến ngày xét xử sơ
thẩm ngày 11/7/2025 là 429.129.000 đồng. Đương sự có quyn khởi kiện lại theo
quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
3. V án phí:
- Buộc bà Trịnh Mỹ L phải chịu 35.622.400 đồng (ba mươi lăm triệu sáu
trăm hai mươi hai nghìn bốn trăm đồng) tin án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch
để nộp ngân sách Nhà nước.
- Hoàn trả cho ông Háu Du T số tin tạm ứng án phí 25.593.000 đồng (hai
mươi lăm triệu năm trăm chín mươi ba nghìn đồng) đã nộp tại Chi cục Thi hành
án dân sự thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn (nay là Phòng thi hành án Dân sự
khu vực 1 - Lạng Sơn) tại biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000525
ngày 16/12/2024.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên v quyn kháng cáo của các đương sự
theo quy định.
Trong thời hạn luật định, bị đơn bà Trịnh Mỹ L có đơn kháng cáo yêu cầu
Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2025/DS-ST
ngày 11 tháng 7 năm 2025 của Tòa án nhân dân khu vực 1 - Lạng Sơn, bác toàn
bộ yêu cầu khởi kiện của ông Háu Du T vì không có căn cứ.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị đơn bà Trịnh Mỹ L và người bảo vệ quyn và lợi ích hợp pháp của bị
đơn: Giữ nguyên nội dung kháng cáo, đ nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bị đơn đã thanh toán đầy đủ cho nguyên đơn,
bị đơn không còn nợ gì nguyên đơn.
Nguyên đơn và người đại diện theo ủy quyn của nguyên đơn ông Nguyễn
Anh T: Giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, đ nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận
kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Người có quyn lợi nghĩa vụ liên quan bà Huỳnh Thị Bích T, do người
đại diện theo ủy quyn là ông Nguyễn Anh T trình bày: Nhất trí với kiến của
nguyên đơn ông Háu Du T.
Ý kiến phát biểu quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm. Việc
tuân theo pháp luật của Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa; Hội đồng xét xử và Thư ký
phiên tòa đã thực hiện đúng quy định pháp luật. Việc tuân theo pháp luật của nguyên
đơn, bị đơn, người có quyn lợi, nghĩa vụ liên quan tại phiên tòa phúc thẩm thực hiện

6
đúng quy định pháp luật.
V việc giải quyết kháng cáo: Kháng cáo của bị đơn trong thời hạn luật định,
căn cứ Điu 273, 274 Bộ luật tố tụng dân sự kháng cáo là hợp lệ.
Xét kháng cáo của bị đơn bà Trịnh Mỹ L đ nghị cấp phúc bác toàn bộ yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn.
V nội dung: Đ nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điu 308 của Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015; không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Trịnh Mỹ
L; giữ nguyên bản án sơ thẩm số 02/2025/DS-ST ngày 11-7-2025 của Tòa án nhân
dân khu vực 1- Lạng Sơn.
V án phí: Bị đơn phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định khoản
1 Điu 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội quy định v mức thu, miễn giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng
án phí và lệ phí Tòa án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:[
[1] V thủ tục tố tụng: Phiên tòa được triệu tập lần thứ nhất, người có quyn
lợi nghĩa vụ liên quan bà Huỳnh Thị Bích T vắng mặt nhưng người đại diện theo
ủy quyn có mặt; người có quyn lợi nghĩa vụ liên quan ông Trần Minh V vắng
mặt, có đơn đ nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ Điu 296 Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo quy định.
[2] Xét kháng cáo của bị đơn bà Trịnh Mỹ L, đ nghị bác toàn bộ yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn ông Háu Du T, bị đơn cho rằng: Bản án dân sự sơ thẩm
số 02/2025/DS-ST ngày 11 tháng 7 năm 2025 của Tòa án nhân dân khu vực 1 -
Lạng Sơn xử buộc bà phải thanh toán cho ông Háu Du T số tin mua bán quả xoài
keo vàng còn nợ 790.560.000 đồng là hoàn toàn không có căn cứ pháp luật, gây
thiệt hại đến quyn và lợi ích hợp pháp của bà. Tổng số hàng (xoài keo vàng) ông
Háu Du T chuyển cho bà để bán sang Trung Quốc là 110 tấn x 10.000đ/1kg =
1.100.000.000đ (một tỷ một trăm triệu đồng); kể từ đó hai bên chốt với nhau v
tin hàng bà đã trả đủ, không còn nợ tin ông Háu Du T. Việc giảm giá tin hàng
là do giá cả bấp bênh bởi dịch bệnh Covid-19, đó là lý do khách quan, nhiu người
kinh doanh xoài keo vàng cũng phải giảm giá theo thị trường không ổn định bà
đ nghị triệu tập bà Mai Thị G, bà Trịnh Thanh T, bà La Hải D để làm chứng cho
bà. Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng:
[3] Căn cứ tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi tại phiên
toà, xác định: Có việc giao dịch giữa nguyên đơn và bị đơn v việc mua bán hàng
hóa là xoài keo vàng. Hai bên thỏa thuận, giao dịch mua bán hình thức bằng
miệng, phương thức trao đổi mua bán hàng hóa giao dịch qua điện thoại. Ông Háu
Du T thu mua quả xoài keo vàng trong Min Nam và chụp ảnh zalo, quay video
gửi cho bà Trịnh Mỹ L, bà Trịnh Mỹ L nhất trí mua và thống nhất v số lượng,
giá cả thì ông Háu Du T chuyển xoài keo vàng ra cho bà Trịnh Mỹ L bằng xe ô tô
công ten nơ và bà Trịnh Mỹ L có trách nhiệm trả tin thuê xe ô tô (tin cước xe)
7
cho lái xe ô tô. Cụ thể, việc mua bán từ ngày 03-01-2021 đến ngày 21-01-2021,
như sau:
[4] Ngày 03/1/2021, nguyên đơn gửi cho bị đơn số lượng 4.170kg, thành
tin 101.130.000 đồng. Thể hiện giá xoài trên hóa đơn xuất hàng keo vàng
(BL280), gồm: loại 1 giá 29.000đ/kg x2.190kg; lá 19.000đ/kg x1.410kg; chợ
19.000đ/kg x 570kg.
[5] Ngày 04/01/2021 nguyên đơn gửi cho bị đơn 3.450kg, thành tin
84.630.000 đồng. Thể hiện giá xoài trên hóa đơn xuất hàng keo vàng (BL282):
loại 1 giá 29.000đ/kg x1.260kg; loại I,5 giá 28.000đ/kg x 720kg; lá 19.000đ/kg x
210kg; loại 2 giá 19.000đ/kg x 1.260kg.
[6] Ngày 7/01/2021 nguyên đơn gửi cho bị đơn: Đơn hàng thứ nhất số lượng
16.440 kg, thành tin 439.020.000 đồng + đơn hàng thứ hai số lượng 20.310 kg,
thành tin 352.800.000 đồng; tổng số tin là 791.820.000 đồng.
[6.1] Thể hiện giá xoài trên hóa đơn xuất hàng keo vàng ghi ngày
06/01/2021 (BL284): VIP giá 29.500đ/kg x 690kg; to giá 29.500đ/kg x 510kg;
loại 1 giá 29.500đ/kg x 9.510kg; loại I,5 giá 28.500đ/kg x 1.260kg; lá giá
19.500đ/kg x 2.850kg; loại 2 giá 19.500đ/kg x 1.620kg.
[6.2] Thể hiện giá xoài trên hóa đơn xuất hàng keo vàng ngày 07/01/2021
(BL286): VIP giá 29.500đ/kg x 330kg; to giá 29.000đ/kg x 360kg; loại 1 giá
29.000đ/kg x 3.240kg; loại I,5 giá 28.500đ/kg x 2.160kg; lá giá 19.000đ/kg x
4.890kg; loại 2 giá 19.000đ/kg x 4.440kg.
[7] Ngày 8/01/2021 nguyên đơn gửi cho bị đơn: Đơn hàng thứ nhất số lượng
17.760 kg, thành tin 510.645.000 đồng + đơn hàng thứ hai số lượng 15.570 kg,
thành tin 350.805.000 đồng và 60kg, thành tin 1.590.000đồng; tổng số tin là
863.404.000 đồng.
[7.1] Thể hiện giá xoài trên hóa đơn xuất hàng keo vàng ngày 08/01/2021
(BL288): to giá 29.000đ/kg x 1.740kg; loại 1 giá 29.000đ/kg x 6.330kg; loại I,5
giá 28.500đ/kg x 8.790kg; loại 2 giá 19.000đ/kg x 210kg; lá giá 19.000đ/kg x
690kg.
[7.2] Thể hiện giá xoài trên hóa đơn xuất hàng keo vàng ngày 08/01/2021
(BL290): to giá 26.500đ/kg x 810kg; loại 1 giá 26.500đ/kg x 8.580kg; lá
16.500đ/kg x 3.390kg; loại I,5 giá 16.500đ/kg x 2.790kg.
[7.3] Thể hiện giá xoài trên hóa đơn xuất hàng keo vàng ngày 08/01/2021
(BL294): to giá 26.500đ/kg x 30kg; loại I,5 giá 26.500đ/kg x 30kg.
[8] Ngày 13/01/2021 nguyên đơn gửi cho bị đơn 5.160kg, thành tin
95.670.000 đồng. Thể hiện giá xoài trên hóa đơn xuất hàng keo vàng ngày
13/01/2021 (BL296): loại 1 giá 20.000đ/kg x 2.040kg; loại I,5 giá 19.000đ/kg x
1.980kg; lá 15.000đ/kg x 1.110kg; to giá 20.000đ/kg x 30kg;
8
[9] Ngày 20/01/2021 nguyên đơn gửi cho bị đơn: Đơn hàng thứ nhất số
lượng 2.730 kg, thành tin 45.915.000 đồng + đơn hàng thứ hai số lượng 3.030
kg, thành tin 49.935.000 đồng; tổng số tin là 95.850.000 đồng.
[9.1] Thể hiện giá xoài trên hóa đơn xuất hàng keo vàng ngày 20/01/2021
(BL298): loại 1 giá 19.000đ/kg x 450kg; loại I,5 giá 18.000đ/kg x 1.230kg; loại 2
giá 14.500đ/kg x 1.050kg.
[9.2] Thể hiện giá xoài trên hóa đơn xuất hàng keo vàng ngày 20/01/2021
(BL300): loại 1 giá 19.000đ/kg x 540kg; loại I,5 giá 18.000đ/kg x 1.020kg; loại 2
giá 14.500đ/kg x 1.470kg.
[10] Ngày 21/01/2021 nguyên đơn gửi cho bị đơn 3.780kg, thành tin
61.035.000 đồng. Thể hiện giá xoài trên hóa đơn xuất hàng keo vàng ngày
21/01/2021 (BL302): loại 1 giá 19.000đ/kg x 1.200kg; loại I,5 giá 15.500đ/kg x
1.080kg; lá giá 14.000đ/kg x 510kg; loại 2 giá 14.500đ/kg x 990kg.
[11] Mỗi đợt nguyên đơn gửi hàng vận chuyển xoài ra cho bị đơn, nguyên
đơn có gửi kèm phong bì: Ghi biển số xe, số điện thoại lái xe, số tin cước vận
chuyển và chụp lại gửi cho bị đơn. Tổng số lượng hàng nguyên đơn gửi cho bị
đơn 101.190kg, thành tin 2.290.920.000 đồng. Số tin bị đơn đã thanh toán bằng
hình thức chuyển khoản cho nguyên đơn tổng số là 1.100.000.000 đồng; ngày
09/2/2021 nguyên đơn có giảm giá trên tổng số tin, giữa giá cũ và giá mới cho
bị đơn (BL124) với số tin 150.360.000 đồng; tính toán cộng sổ, giảm trừ cho bị
đơn. Theo sổ sách nguyên đơn tự ghi chép tính đến ngày 15/4/2021 bị đơn còn nợ
nguyên đơn số tin 790.560.000 đồng và ngày 20/4/2021 nguyên đơn có chụp số
tin còn nợ gửi cho bị đơn, tại phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa hôm nay, bị đơn đã
thừa nhận đã biết việc nguyên đơn chụp và gửi hình ảnh giấy chốt nợ số tin
790.560.000 đồng qua zalo bị đơn. Hai bên vẫn liên lạc, trao đổi trên điện thoại
đến ngày 24/10/2021 thì nguyên đơn không liên lạc được với bị đơn nữa. Nguyên
đơn yêu cầu bị đơn thanh toán số tin còn nợ, bị đơn không thanh toán và không
thể liên lạc được, do đó ngày 23/2/2023 nguyên đơn đã đến nhà bị đơn yêu cầu
trả nợ nhưng bị đơn vẫn không trả. Do đó, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án
giải quyết buộc bị đơn phải trả cho ông số tin hàng còn nợ tổng là 1.040.730.000
đồng, buộc bị đơn phải trả tin lãi của khoản tin nợ nêu trên. Tại phiên tòa sơ
thẩm, nguyên đơn do người đại diện theo ủy quyn của nguyên đơn thay đổi yêu
cầu khởi kiện, buộc bị đơn phải thanh toán tin mua bán quả xoài keo vàng còn
nợ 790.560.000 đồng, vì lý do số tin 790.560.000 đồng đã được các bên trao đổi
với nhau lần cuối với nhau trên zalo và phù hợp với lời nói của nguyên đơn và bị
đơn được ghi âm vào ngày 23/2/2023 và cũng được bị đơn thừa nhận là lời nói
của mình. Tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện đối với số tin
250.170.000 đồng, rút yêu cầu tính lãi suất chậm trả trên số tin còn nợ
1.040.730.000 đồng tính từ ngày 15/4/2021 đến ngày xét xử sơ thẩm là ngày
11/7/2025 số tin lãi là 429.129.000 đồng. Việc rút một phần yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn là hoàn toàn tự nguyện, không trái với pháp luật, Hội đồng xét
xử cấp sơ thẩm đình chỉ xét xử đối với phần rút yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
9
là có căn cứ và tuyên đương sự có quyn khởi kiện lại theo đúng quy định của
pháp luật tố tụng dân sự.
[12] Trên cơ sở các hóa đơn xuất hàng (bản gốc), sao kê ngân hàng, sổ sách
ghi chép do nguyên đơn giao nộp, xác định toàn bộ số tin hàng mà bà Trịnh Mỹ
L phải thanh toán cho ông Háu Du T là 2.290.920.000 đồng. V số tin bị đơn đã
thanh toán cho nguyên đơn, tại phiên tòa nguyên đơn và bị đơn đu thống nhất bị
đơn bà Trịnh Mỹ L đã trả cho nguyên đơn tổng số tin là 1.100.000.000 đồng.
Quá trình bị đơn thanh toán, nguyên đơn đã giảm giá trên tổng số tin, giảm trừ
tổng số tin bị đơn còn nợ, tính đến ngày 15/4/2021 bị đơn còn nợ nguyên đơn số
tin 790.560.000 đồng. Bị đơn cho rằng, do giá cả bấp bênh vì dịch bệnh Covid-
19, bị đơn không có sổ ghi chép, chỉ bán hộ hàng cho nguyên đơn giá 10.000đ/kg
và bị đơn đã thanh toán đủ. Tuy nhiên, bị đơn không đưa ra được chứng cứ nào
chứng minh là bị đơn chỉ bán hộ hàng cho nguyên đơn và đã thanh toán đủ, không
còn nợ nguyên đơn. Bị đơn không đưa ra được chứng cứ giá bán thấp hơn giá mua
hàng, không có thông tin hoặc xác nhận v giá xoài keo vàng mà ông Háu Du T
chuyển ra bán cho bà với giá 10.000đ/kg. Từ ngày 03-01-2021 đến ngày 21-01-
2021, bị đơn vẫn giao dịch với nguyên đơn và yêu cầu ông Háu Du T chuyển hàng
ra cho bà và trên zalo cũng không có thông tin nào bị đơn không thừa nhận v giá
xoài keo vàng mà ông Háu Du T chuyển ra. Bị đơn nhất trí số lượng, chất lượng
và giá mua xoài với ông Háu Du T thì ông Háu Du T mới tiếp tục chuyển hàng ra
cho bà Trịnh Mỹ L. Do đó, có cơ sở xác định bị đơn còn nợ nguyên đơn tin hàng
chưa thanh toán 790.560.000 đồng, nên bị đơn phải có trách nhiệm thanh toán cho
nguyên đơn. Từ những phân tích nêu trên, xét thấy yêu cầu khởi kiện của ông Háu
Du T là có căn cứ. Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện và
buộc bà Trịnh Mỹ L phải thanh toán tin mua xoài keo vàng còn thiếu cho ông
Háu Du T là có cơ sở. Tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo không xuất trình
được tài liệu, chứng cứ mới nào được pháp luật chấp nhận nên không có căn cứ
để chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Trịnh Mỹ L đ nghị bác toàn bộ yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn ông Háu Du T.
[13] Quá trình giải quyết bị đơn đ nghị cấp phúc thẩm triệu tập những
người kinh doanh xoài keo vàng cùng phải chịu chung hoàn cảnh dịch bệnh
Covid-19 để làm chứng cho bị đơn, xét thấy những người này không biết, không
liên quan trực tiếp đến nội dung giao dịch mua bán hàng xoài keo vàng giữa
nguyên đơn và bị đơn, nên đ nghị này không được chấp nhận.
[14] V án phí sơ thẩm: Tại cấp sơ thẩm, nguyên đơn đã nộp tạm ứng án
phí 25.593.000 đồng (hai mươi lăm triệu năm trăm chín mươi ba nghìn đồng) tại
Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn (nay là Phòng thi
hành án Dân sự khu vực 1 - Lạng Sơn) tại biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa
án số 0000525 ngày 16/12/2024. Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên
bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm. Buộc bị đơn phải chịu 35.622.400
đồng (ba mươi lăm triệu sáu trăm hai mươi hai nghìn bốn trăm đồng) tin án phí
dân sự sơ thẩm có giá ngạch để nộp ngân sách Nhà nước. Hoàn trả cho ông Háu
10
Du T số tin tạm ứng án phí 25.593.000 đồng; cấp sơ thẩm quyết định như vậy là
đúng pháp luật.
[15] V án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên
bị đơn phải chịu án phí phúc thẩm là 300.000 đồng. Bị đơn đã nộp tạm ứng án phí
phúc thẩm 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số
0000135 ngày 31-7-2025 của Thi hành án dân sự tỉnh Lạng Sơn; xác nhận bị đơn
đã nộp đủ tin án phí phúc thẩm.
[16] Xét đ nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn là có
căn cứ, phù hợp với các quy định của pháp luật nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điu 308, khoản 1 Điu 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015;
Căn cứ khoản 1 Điu 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-
12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định v mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Trịnh Mỹ L; giữ nguyên Bản
án dân sự sơ thẩm số 02/2025/DS-ST ngày 11 tháng 7 năm 2025 của Tòa án nhân
dân khu vực 1 - Lạng Sơn.
2. V án phí dân sự phúc thẩm: Bà Trịnh Mỹ L phải chịu án phí phúc thẩm
là 300.000 đồng. Bà Trịnh Mỹ L đã nộp tạm ứng án phí phúc thẩm 300.000 đồng
theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 0000135 ngày 31-7-2025 của
Thi hành án dân sự tỉnh Lạng Sơn; xác nhận bà Trịnh Mỹ L đã nộp đủ tin án phí
dân sự phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại Hà Nội;
- Viện phúc thẩm VKSND tối cao tại Hà Nội;
- VKSND tỉnh Lạng Sơn;
- TAND khu vực 1 - Lạng Sơn;
- VKSND khu vực 1 – Lạng Sơn;
- Thi hành án dân sự tỉnh Lạng Sơn;
- Những người tham gia tố tụng;
- HCTP; P. GĐKTTT&THA;
- Lưu: Hồ sơ, Tòa Dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Lương Thị Nguyệt
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 12/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 12/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 12/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 10/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 08/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 05/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 29/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 28/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 26/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 25/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 25/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 21/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 21/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 20/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 20/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 19/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 19/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 15/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 15/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm