Bản án số 601/2025/DS-PT ngày 04/06/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 601/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 601/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 601/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 601/2025/DS-PT ngày 04/06/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 601/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 04/06/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Không chấp nhận kháng cáo của bà Liêu Thị Đ. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 08/2025/DS-ST, ngày 07/01/2025 của Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 601/2025/DS-PT
Ngày: 04-6-2025
V/v tranh chấp quyền sử dụng đất và
huỷ quyết định cá biệt
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm Phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Võ Văn Khoa
Các thẩm phán: Ông Nguyễn Văn Minh
Ông Vương Minh Tâm
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Tú Anh, Thư ký viên Tòa án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Lê Công Thành, Kiểm sát viên.
Ngày 04/6/2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí
Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 349/2025/TLPT-DS ngày
10/3/2025, về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất và huỷ quyết định cá biệt”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 08/2025/DS-ST ngày 07/01/2025 của Tòa
án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1335/2025/QĐ-PT
ngày 21 tháng 4 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Hà Kim V, sinh năm 1978; Địa chỉ: B Tỉnh lộ 8, tổ B,
ấp M, xã T, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
- Bị đơn:
1. Bà Liêu Thị Đ, sinh năm 1955; Địa chỉ: B Đường C, tổ C, ấp M, xã T,
huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
2. Ông Liêu Văn M, sinh năm 1949; Địa chỉ: Tổ E, ấp M, xã T, huyện C,
Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).
3. Bà Liêu Thị G, sinh năm 1951; Địa chỉ: Ấp M, xã T, huyện C, Thành
phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).
4. Bà Liêu Thị N, sinh năm 1953; Địa chỉ: Ấp A, xã A, thị xã T, tỉnh Tây
Ninh (vắng mặt).
5. Bà Liêu Thị N1, sinh năm 1960; Địa chỉ: Tổ C, ấp M, xã T, huyện C,
Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
2
6. Ông Liêu Văn M1, sinh năm 1964; Địa chỉ: Tổ E, ấp M, xã T, huyện C,
Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).
Người đại diện hợp pháp của các ông bà Liêu Thị G, Liêu Thị N, Liêu Thị
N1 và Liêu Văn M1: Bà Liêu Thị Đ (có căn cước nêu trên, theo Văn bản uỷ
quyền ngày 24/01/2024, có mặt).
7. Ông Liêu Văn T, sinh năm 1962; Địa chỉ: A L, Phường C, Quận A,
Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).
8. Ông Liêu Văn H, sinh năm 1958; Địa chỉ: Ấp M, xã T, huyện C, Thành
phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Hà Trọng T1, sinh năm 1980
2. Ông Hà Thanh T2, sinh năm 1983
Cùng địa chỉ: B Tỉnh lộ 8, tổ B, ấp M, xã T, huyện C, Thành phố Hồ Chí
Minh (cùng có mặt).
3. Ủy ban nhân dân huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh; Địa chỉ trụ sở:
77B Tỉnh lộ 8, khu phố G, thị trấn C, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật: Bà Phạm Thị Thanh H1, Chức vụ: Chủ
tịch.
Người đại diện hợp pháp: Ông Nguyễn Thanh P, Chức vụ: Phó Chủ tịch
(Giấy ủy quyền số 2378/GUQ-UBND ngày 21/3/2024, vắng mặt).
- Người kháng cáo: Bà Liêu Thị Đ là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn bà Hà Kim V trình bày:
Nguồn gốc phần đất tranh chấp có diện tích 512,9m
2
thuộc một phần thửa
đất số 258, 259, 260, tờ bản đồ số 16 tại địa chỉ ấp M, xã T, huyện C do ông Hà
Văn K, ông Hà Văn H2 (là ông cố và ông nội của bà V) tạo lập; sau đó để lại
cho cha mẹ nguyên đơn là ông Hà Văn N2 và bà Lê Thị H3 sử dụng từ trước
năm 1975, có vị trí giáp ranh với đất của ông Liêu Văn Ổ.
Năm 1987-1988, ông nội và cha bà V chết. Ông Liêu Văn M (còn gọi là
ông M2) là con ông Ổ, tự ý vào phần đất của gia đình bà V để canh tác, dẫn đến
tranh chấp.
Ngày 29/6/2000, UBND xã T, huyện C đã lập Biên bản xác định ranh đất
tranh chấp giữa bà Lê Thị H3 với ông M. Đồng thời, hai bên đi xuống hiện trạng
để cắm cọc trụ xi măng. Từ khi cắm cọc vào năm 2000 cho đến nay, phần đất do
bà H3 sử dụng, trồng cây tràm. Năm 2004, bà H3 chết. Sau khi mẹ chết, các anh
chị em trong gia đình tự thỏa thuận phân chia cho bà V được sử dụng 1.587,3m
2
đất (không có lập văn bản, do là anh chị em trong gia đình), trong đó có phần
diện tích 512,9m
2
mà bà H3 đã tranh chấp với ông M trước đây.
3
Bà V sử dụng phần đất trên ổn định, liên tục. Đến năm 2012 bà V đi làm
thủ tục xin cấp giấy chứng nhận thì phát hiện phần đất 512,9m
2
nói trên đã được
UBND huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Ổ từ tháng
3/1995, đến năm 2000 cấp đổi sang giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới số
S274199 ngày 16/11/2000. Phần đất 512,9m
2
hiện tại thuộc một phần các thửa
số 258, 259, 260, tờ bản đồ số 16 trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của
ông Ổ.
Nay, bà V đề nghị Tòa án buộc bà Đ và những người kế thừa quyền,
nghĩa vụ tố tụng của ông Ổ là bà Liêu Thị G, bà Liêu Thị N, bà Liêu Thị N1,
ông Liêu Văn M1, ông Liêu Văn M (Mười), ông Liêu Văn T, ông Liêu Văn H
phải trả lại phần đất diện tích 512,9m
2
thuộc một phần thửa 258, 259, 260, tờ
bản đồ số 16 tại địa chỉ ấp M, xã T, huyện C lấn chiếm nói trên cho bà. Đồng
thời, hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số S274199 do UBND
huyện C cấp ngày 16/11/2000 cho ông Liêu Văn Ổ.
Tại phiên tòa, bà V xác định do bà đang là người quản lý, sử dụng phần
đất đang tranh chấp
nên bà xin thay đổi yêu cầu khởi kiện, theo đó bà V không
yêu cầu các bị đơn phải hoàn trả lại phần đất trên mà đề nghị Tòa án công nhận
bà V là người có quyền sử dụng hợp pháp đối với phần đất 512,9m
2
thuộc một
phần các thửa số 258, 259, 260, tờ bản đồ số 16 trong giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất của ông Ổ và yêu cầu hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số S274199 do UBND huyện C cấp ngày 16/11/2000 cho ông Ổ.
Bị đơn bà Liêu Thị Đ đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của các
bị đơn khác là các ông bà Liêu Thị G, Liêu Thị N, Liêu Thị N1 và Liêu Văn M1
trình bày:
Các ông bà không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Vào năm 1995, cha các bị đơn là ông Ổ đã được UBND huyện C cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đại trà số 00791/QSDĐ ngày 11/3/1995 phần đất
có tổng diện tích 12.381m
2
thuộc thửa đất 519, 532 tờ bản đồ số 22 và thửa 341,
340, 339, 338, 255, 256, 257, 258, 259, 260 tờ bản đồ số 16 (tài liệu 02/CT-UB).
Đến tháng 11/2000, ông Ổ được UBND huyện C cấp đổi sang Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất bìa đỏ số 1094/QSDĐ ngày 16/11/2000 (số S) về diện tích, số
thửa đất và số tờ bản đồ đều thay đổi.
Phần đất tranh chấp có diện tích 512,9m
2
nằm trong tổng diện tích
12.381m
2
UBND huyện C đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Ổ
vào năm 1995. Năm 2000, bà H3 (mẹ của bà V) có tranh chấp với ông M (con
ông Ổ). Nhưng trong quá trình giải quyết, từ Ban N4 đến UBND xã T, huyện C
đều giải quyết giữa bà H3 với ông M. Trong khi đó ông Ổ là người đứng tên
quyền sử dụng dất mà không có ý kiến của ông Ổ là không đúng quy định. Đồng
thời tại thời điểm tranh chấp cho đến nay giữa các bên bà H3, ông M vẫn chưa
thực hiện việc thuê đo đạc để xác định phần đất như các biên bản giải quyết năm
2000 đã nêu.
Mặt khác ông Ổ cũng đã được UBND huyện C cấp đổi sang giấy bìa đỏ
4
số 1094/QSDĐ ngày 16/11/2000 đối với phần đất đã nêu trên. Bà V yêu cầu
khởi kiện là không có chứng cứ chứng minh. Hiện tại gia đình bà Đ đang quản
lý phần đất tổng diện tích là 12.381m
2
theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
mà ông Ổ đứng tên, bao gồm cả phần đất tranh chấp có diện tích 512,9m
2
. Các
ông bà xác định không có yêu cầu phản tố trong vụ án.
Bị đơn ông Liêu Văn M (Mười), Liêu Văn T, Liêu Văn H: vắng mặt trong
suốt quá trình giải quyết vụ án dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ.
Riêng bị đơn ông M có mặt tại buổi xem xét, thẩm định tại chỗ của Tòa án
vào ngày 28/6/2024 và có lời trình bày như sau: “Trên phần đất tranh chấp trước
đây do ông canh tác, trên đất ông có trồng 16 cây tràm bông vàng và 01 bụi tầm
vông vào năm 1996. Năm 2000, ông có nhận của bà H3 (mẹ của nguyên đơn) số
tiền 2.000.000 đồng công bồi hoàn giá trị cây trồng trên đất và công khai phá
đất. Ông xác định phần đất đang tranh chấp là của bà H3”.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Hà Thanh T2, ông Hà Trọng
T1 có đơn xin vắng mặt, tại bản tự khai đã trình bày: Các ông thống nhất với
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và không có yêu cầu độc lập trong vụ án này.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan UBND huyện C có ông Nguyễn
Thanh P là người đại diện theo ủy quyền có đơn xin xét xử vắng mặt. Tại bản tự
khai ngày 26/3/2024, ông P trình bày:
Năm 1995, ông Ổ được UBND huyện C cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất dạng đại trà số 00791/QSDĐ ngày 11/3/1995 tổng diện tích 12.381 m
2
thuộc thửa đất 519, 532 tờ bản đồ số 22 và thửa 341, 340, 339, 338, 255, 256,
257, 258, 259, 260 tờ bản đồ số 16 (tài liệu 02/CT-UB) bộ địa chính xã T, huyện
C.
Năm 2000, bà H3 (mẹ bà V) có tranh chấp với ông M (con ông Ổ) đối với
phần đất khoảng 500m
2
thuộc một phần thửa đất số 258, 259, 260 tờ bản đồ số
16 (tài liệu 02/CT-UB) bộ địa chính xã T trong tổng diện tích 12.381 m
2
nêu
trên.
Ngày 28/4/2000, tại biên bản của Ấp M có giải quyết việc tranh chấp đất
giữa bà H3 với ông M và đã đi đến thống nhất: “Nhờ đơn vị cấp trên đo đạc lại
đất, bên bà H3 chịu trách nhiệm hoàn toàn về tổn phí, khi đo đạc nếu đất bà H3
đến đâu thì lấy đến đó, ông M phải chấp hành”.
Theo trích biên bản lúc 14 giờ 20 phút ngày 07/6/2000 của UBND xã T,
huyện C về giải quyết tranh chấp đất trong nội bộ nông dân giữa bà H3 với ông
M, với nội dung kết luận: “Hai bên cam kết thực hiện theo tinh thần biên bản
giải quyết ở ấp, về việc tổ chức đo đạc để xác định ranh đất của mình đến đâu,
chi phí bà H3 chịu, khi đo xong vị trí cột mốc đến đâu ông M cam kết trả đến đó
và không đòi tiền bồi hoàn tiền bạc gì cả, đồng thời trao trả đất cho nhau nếu
có. Bà H3 có trách nhiệm hợp đồng với cơ quan đo đạc địa chính Nhà nước để
tiến hành thực hiện, để xác định ranh giới đất của mình và lập hàng rào ranh
giới ổn định lâu dài”. Bản trích biên bản này chỉ có bà H3 và ông M đã ký tên,
5
không có chủ đất là ông Ổ tham dự cũng như ký tên biên bản.
Theo trích biên bản lúc 09 giờ 35 phút ngày 29/6/2000 của UBND xã T về
xác định ranh đất giữa bà H3 và ông M, với nội dung: “Thực hiện theo biên bản
họp hòa giải ngày 07/6/2000 tại xã để xác định ranh đất giữa bà H3 với ông M
tranh chấp đất giữa hai đương sự, để bà H3 hợp đồng Phòng địa chính đo đạc
xác định ranh giới giữa hai người để ổn định về sau. Sau khi bàn bạc hai bên
tạm thời xác định cột mốc, ranh giới trước sự chứng kiến của những người có
mặt…” Tại biên bản này có bà H3, ông M và ông Ổ cùng dự nhưng phần kết
thúc biên bản ký tên thì không có ông Ổ ký tên trong biên bản.
Ngày 21/8/2000, bà H3 có giao cho ông M số tiền 2.000.000 đồng trả
công khai phá và bồi bổ đất (theo biên bản thỏa thuận giải quyết tranh chấp đất
của UBND xã T lập ngày 21/8/2000).
Tháng 11/2000, ông Ổ được UBND huyện C cấp đổi sang giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất bìa đỏ số 1094/QSDĐ ngày 16/11/2000 về diện tích, số
thửa đất và số tờ bản đồ đều không thay đổi.
Với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, UBND huyện C
đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết vụ án nêu trên theo đúng quy định pháp luật.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 08/2025/DS-ST ngày 07/01/2025 của Tòa
án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên xử:
Căn cứ vào Điều 34, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 37,
Điều 217, khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015;
Căn cứ vào các Điều 158, 163, 164, 166 của Bộ luật Dân sự năm 2015;
Căn cứ vào Luật Đất đai 1993;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Căn cứ Luật Thi hành án dân sự.
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Hà Kim V.
- Hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số S274199, số vào
sổ 1094/QSDĐ ngày 16/11/2000 của Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho ông
Liêu Văn Ổ đối với phần đất có diện tích 512,9m
2
thuộc một phần thửa đất số
258, 259, 260, tờ bản đồ số 16, tại địa chỉ ấp M, xã T, huyện C.
- Công nhận quyền sử dụng hợp pháp của bà Hà Kim V đối với phần đất
có diện tích 512,9m
2
thuộc một phần thửa 258, 259, 260, tờ bản đồ số 16 tại địa
chỉ ấp M, xã T, huyện C.
Vị trí phần đất được xác định tại Bản đồ hiện trạng vị trí - áp ranh số
25530/TTĐĐBĐ-CNCC ngày 24/7/2024 của Trung tâm đo đạc bản đồ thuộc Sở
Tài nguyên và Môi trường Thành phố H.
6
- Nguyên đơn bà Hà Kim V được quyền liên hệ với cơ quan nhà nước có
thẩm quyền để làm thủ tục đứng tên chủ sử dụng đối với phần đất trên theo đúng
quy định pháp luật.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, các chi phí tố tụng, các quy
định về thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 17/01/2025, bà Liêu Thị Đ kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề
nghị cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của bà Hà Kim V.
Diễn biến tại phiên tòa phúc thẩm: Bà Hà Kim V là nguyên đơn không
thay đổi, bổ sung, không rút đơn khởi kiện. Bà Liêu Thị Đ là bị đơn, đồng thời
là người đại diện hợp pháp của các bị đơn khác là các ông bà Liêu Thị G, Liêu
Thị N, Liêu Thị N1 và Liêu Văn M1 không thay đổi, bổ sung, giữ nguyên yêu
cầu kháng cáo ban đầu. Các đương sự khác vắng mặt tại phiên toà nên không thể
hiện ý kiến. Các đương sự không cung cấp thêm tài liệu chứng cứ mới và không
tự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Trong phần tranh luận, các đương sự trình bày như sau:
1. Bà Liêu Thị Đ:
Diện tích đất tranh chấp có nguồn gốc của ông cố là Liêu Văn N3, ông N3
có con là Liêu Văn L chết sớm nên để lại cho cha của bà là Liêu Văn Ổ và mẹ
của bà là Nguyễn Thị Đ1 từ trước năm 1975. Bà Đ cho rằng vì thời gian đã quá
lâu nên bà không trích lục được giấy tờ chứng minh nguồn gốc như đã nêu, cũng
như tờ khai sử dụng đất trước năm 1975 của bà Đ1.
Các tài liệu chứng minh đất của ông Ổ là: giấy tờ đăng ký đất của ông Ổ
tại UBND xã T vào năm 1995, giấy chứng nhận cấp lần đầu cho ông Ổ ngày
11/3/1995, giấy chứng nhận cấp đổi cho ông Ổ ngày 16/11/2000, năm 2017
được gia hạn sử dụng đến năm 2065.
Về quá trình sử dụng: Toàn bộ diện tích đất tranh chấp do gia đình bà sử
dụng từ đời ông N3 đến ông Ổ; ông Ổ có cho ông M sử dụng tạm thời một thời
gian chứ không cho luôn; gia đình bà V không có quá trình sử dụng đất.
Về quá trình giải quyết tranh chấp: Bà Đ xác định năm 2000 giữa ông M
và bà H3 (mẹ bà V) có tranh chấp với nhau, UBND xã T có nhiều văn bản giải
quyết, nhưng đất của ông Ổ được cấp giấy chứng nhận từ năm 1995, do bà H3
và ông M là những người không có đất mà tranh chấp với nhau nên những biên
bản giải quyết này không có giá trị pháp lý.
Bà Đ đề nghị Toà án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà,
sửa bản án sơ thẩm theo hướng bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Đ.
2. Bà Liêu Thị N1: Thống nhất với ý kiến và yêu cầu của bà Đ.
3. Bà Hà Kim V: Xin bảo lưu toàn bộ các ý kiến đã trình bày tại cấp sơ
thẩm, đã được bản án sơ thẩm ghi nhận. Đề nghị Toà án cấp phúc thẩm không
chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Đ, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
7
4. Ông Hà Trọng T1 và ông Hà Thanh T2: Thống nhất với ý kiến và yêu
cầu của bà V.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên toà phát biểu ý kiến:
1. Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bà Liêu Thị Đ
làm trong hạn luật định nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận về mặt hình
thức.
2. Về việc chấp hành pháp luật: Thẩm phán chủ toạ phiên toà, các thành
viên Hội đồng xét xử, thư ký phiên toà và các đương sự đã chấp hành đúng các
quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự từ giai đoạn thụ lý đến giai đoạn xét xử
phúc thẩm.
3. Về yêu cầu kháng cáo của các bị đơn: Các chứng cứ có trong hồ sơ thể
hiện phần đất tranh chấp có nguồn gốc của ông cố nguyên đơn đứng tên đăng ký
và sử dụng quá các thời kỳ; ông Ổ chỉ đăng ký 01 lần vào năm 1995; quá trình
tranh chấp ông Ổ đều có mặt, mặc dù không ký vào biên bản nhưng không phản
đối nội dung biên bản, không phản đối việc ông M công nhận đất của bà H3 và
nhận tiền của bà H3. Do đó, bản án sơ thẩm tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn là có căn cứ. Tại cấp phúc thẩm, bị đơn không cung cấp được
chứng cứ nào mới nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ
luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của bà Liêu Thị Đ và giữ
nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bà Liêu Thị
Đ làm trong hạn luật định; bà Đ sinh năm 1955 là người cao tuổi nên được miễn
nộp tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm. Do đó, đơn kháng cáo của bà Đ đủ điều
kiện để thụ lý và xét xử theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà V khởi kiện
yêu cầu công nhận phần đất có diện tích 512,9m
2
thuộc một phần các thửa 258,
259, 260, tờ bản đồ số 16, toạ lạc ấp M, xã T, huyện C và hủy một phần Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số S274199, số vào sổ 1094/QSDĐ ngày
16/11/2000 của Ủy ban nhân dân huyện C (sau đây viết tắt là Giấy chứng nhận
số S274199) cấp cho ông Liêu Văn Ổ đối với phần đất nêu trên. Đây là vụ án
tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu huỷ quyết định cá biệt của UBND cấp
huyện. Do đó, Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thụ lý, xét xử vụ án là
đúng quan hệ pháp luật, đúng thẩm quyền, phù hợp với các quy định tại khoản 9
Điều 26, Điều 34, điểm a khoản 1 Điều 37, điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố
tụng dân sự.
[3] Xét yêu cầu kháng cáo của bà Đ, nhận thấy:
[3.1] Về việc xác định vị trí đất tranh chấp:
Căn cứ vào Bản đồ hiện trạng vị trí số 25530/TTĐĐBĐ-CNCC do Trung
tâm đo đạc bản đồ thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố H lập ngày
8
24/7/2024 thì có căn cứ để xác định phần đất tranh chấp có diện tích, vị trí theo
các hệ thống bản đồ và việc cấp giấy chứng nhận như sau:
- Diện tích: 512,9m
2
;
- Theo Tài liệu 2004 thuộc một phần các thửa đất số 51, 55, 88, 89, 90,
91, 92, 93, 97; trong đó diện tích đất tranh chấp chủ yếu ở các thửa 88/121,6m
2
,
89 (89-1/233,4m
2
), 90 (90-1/91,7m
2
), 91 (91-1/51,1m
2
), 92 (92-1/10,3m
2
);
- Theo Tài liệu 02/CT-UB thì thuộc một phần các thửa đất số 258, 259,
260;
- Thửa đất số 258, 259, 260 (Tài liệu 02/CT-UB) đã được UBND huyện C
cấp Giấy chứng nhận S274199 ngày 16/11/2000 cho ông Ổ, giấy chứng nhận
này thay thế cho giấy chứng nhận cũ số 00791/QSDĐ ngày 11/3/1995 của
UBND huyện C cấp cho ông Ổ.
[3.2] Về nguồn gốc đất tranh chấp:
Tại Văn bản số 9231/VPĐK-KTĐC ngày 22/6/2017 của Văn phòng Đăng
ký đất đai Thành phố H thể hiện:
- Theo tài liệu trước năm 1975: thuộc một phần lô đất số 394, tờ bản đồ số
8, xã T; theo Trích sao sổ địa bộ số 205/TS-VPĐK-LT ngày 16/6/2017, lô số
394, tờ bản đồ thứ 8, tên chủ đất là ông Hà Văn K đứng bộ năm 1893; ông K là
cha ruột của ông Hà Văn H2, ông H2 là ông nội của bà V;
- Theo tài liệu Chỉ thị 299/TTg: thuộc một phần thửa đất số 931, 958, tờ
bản đồ số 8, xã T; theo Sổ mục kê ruộng đất (bộ sao chép) do UBND xã T lập
thì tên chủ sử dụng là ông H2, là ông nội của bà V;
- Theo tài liệu Chỉ thị 02/CT-UB: thuộc thửa đất số 261 và một phần các
thửa số 239, 240, 242, 258, 259, 260, 262, 263, tờ bản đồ số 16, xã T; theo sổ
mục kê (bộ S) các thửa 258, 259, 260 tên chủ sử dụng là ông Ổ;
- Theo tài liệu bản đồ địa chính (pháp lý năm 2004): thuộc các thửa số 54,
88, 89, 90, 91, tờ bản đồ số 71, xã T; theo sổ dã ngoại tài liệu bản đồ địa chính
tên chủ sử dụng là bà H3 là mẹ ruột của bà V.
Căn cứ vào văn bản nêu trên thì có căn cứ để xác định: Phần đất đang
tranh chấp có nguồn gốc của gia tộc bà V, đã được đăng ký sử dụng từ thời ông
cố là Hà Văn K vào năm 1983, sau đó đến ông nội là Hà Văn H2 và mẹ là bà Lê
Thị H3. Ông Ổ là cha của bà Đ chỉ đăng ký sử dụng theo tài liệu Chỉ thị 02/CT-
UB. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00791/QSDĐ ngày 11/3/1995 của
UBND huyện C cấp cho ông Ổ đối với phần đất đang tranh chấp là theo dạng
đại trà, chỉ cấp theo lời ông Ổ kê khai theo tài liệu 02/CT-UB, trong khi thực tế
theo tài liệu năm 2004, các thửa đất số 54, 88, 89, 90, 91, tờ bản đồ số 71, xã T
theo sổ dã ngoại tài liệu bản đồ địa chính tên chủ sử dụng là bà H3. Theo văn
bản xác minh số 1380/CNCC ngày 22/3/2024 của Chi nhánh Văn phòng đăng
ký đất đai huyện C thì Chi nhánh không tìm thấy hồ sơ lưu trữ cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số S27119 do UBND huyện C cấp ngày 16/11/2000 cho
9
ông Ổ.
[3.3] Về quá trình giải quyết tranh chấp:
Năm 2000, mẹ của bà V là bà H3 có tranh chấp với ông Liêu Văn M (tên
gọi khác là M2, là con của ông Ổ).
Tại các Biên bản hòa giải ngày 28/4/2000, 07/6/2000 và 29/6/2000 của
UBND xã T thể hiện bà H3 và ông M thống nhất nhờ đơn vị đo vẽ để xác định
ranh phần đất; thống nhất xác định mốc tạm thời trong khi chờ kết quả đo vẽ; tại
phần đầu của biên bản hòa giải ghi nhận có mặt ông Ổ tham dự nhưng tại cuối
biên bản lại không có chữ ký của ông Ổ, biên bản cũng không thể hiện ý kiến
của ông Ổ.
Tại Biên bản hòa giải ngày 21/8/2000, ông M nhìn nhận có canh tác trên
đất của bà H3 02 thửa ruộng diện tích khoảng 500m
2
, nếu bà H3 đồng ý nhận lại
thửa đất trên thì phải trả ông M 3.000.000 đồng là công của ông M đã khai phá
bồi bổ đất; bà H3 không đồng ý số tiền trên nên ông M giảm xuống còn
2.000.000 đồng; bà H3 đồng ý và đã trả cho ông M số tiền 2.000.000 đồng, ông
M xác nhận đã nhận đủ; hai bên thống nhất kể từ ngày lập biên bản, không còn
tranh chấp nữa, ông M đồng ý để bà H3 đăng ký phần đất do mình khai phá để
hợp thức hóa quyền sử dụng đất.
Sau đó UBND xã T đã xuống phần đất để tiến hành cắm các trụ xi măng
làm mốc tạm thời để xác định ranh phần đất mà bà H3 và ông M đã thỏa thuận
hòa giải; việc cắm các trụ xi măng có sự chứng kiến của bà H3, ông M, đại diện
của chính quyền địa phương. Theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ của Tòa
án vào ngày 28/6/2004 thì trên diện tích phần đất tranh chấp hiện vẫn còn các trụ
xi măng cắm theo chiều ngang là do UBND xã T cắm tại thời điểm bà H3 và
ông M hòa giải thành năm 2000 cùng các trụ xi măng cắm theo chiều dọc do gia
đình của bà H3 cắm; phần đất theo vị trí các trụ xi măng có diện tích 512,9m
2
tương đương với diện tích đất mà bà H3, ông M đã thỏa thuận hòa giải vào năm
2000.
Do đó, có căn cứ để xác định: Tại thời điểm năm 2000, khi bà H3 và ông
M tranh chấp đối với phần đất thì ông Ổ vẫn còn sống. Mặc dù tại các biên bản
hòa giải giữa bà H3 và ông M không ghi nhận ý kiến của ông Ổ, không có chữ
ký của ông Ổ nhưng ông Ổ có mặt và biết rõ sự việc bà H3 đang tranh chấp
phần đất với ông M, biết ông M công nhận phần đất này của bà H3, biết ông M
nhận tiền của bà H3 và giao trả đất cho bà H3 nhưng ông Ổ không có bất kỳ ý
kiến phản đối nào; đồng thời ông Ổ cũng không có ý kiến phản đối khi UBND
xã tiến hành cắm các trụ xi măng làm mốc tạm thời để xác định ranh phần đất
mà bà H3 và ông M đã thỏa thuận hòa giải.
[3.4] Về quá trình sử dụng đất: Bà Đ xác định bà đang quản lý sử dụng
phần đất tranh chấp và cho rằng 16 cây tràm bông vàng có trên đất là do tự mọc
còn bà V xác định các cây tràm này là do bà H3 trồng. Tại thời điểm Tòa án tiến
hành xem xét, thẩm định tại chỗ, ông M cũng có mặt và thừa nhận 16 cây tràm
trên phần đất đang tranh chấp là do ông trồng; khi ông M bàn giao đất cho bà H3
10
thì cũng bàn giao luôn cây trồng trên đất. Lời khai của ông M phù hợp với nội
dung tại các biên bản hòa giải vào năm 2000 tại UBND xã T về việc bà H3 đã
bồi hoàn số tiền 2.000.000 đồng cho ông M. Do đó, có cơ sở xác định gia đình
bà V là người đã nhận phần đất đang tranh chấp và sử dụng ổn định từ năm 2000
đến nay.
[3.5] Về việc cấp giấy chứng nhận cho ông Ổ: Tổng hợp các nhận định
trên thấy rằng diện tích đất tranh chấp có nguồn gốc của gia tộc bà V tạo lập, có
đăng ký và sử dụng từ trước đến nay. Việc UBND huyện C cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số 00791/QSDĐ ngày 11/3/1995 và sau này cấp đổi
thành Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số S274199 ngày 16/11/2000 đối với
phần đất này cho ông Ổ là không đúng đối tượng.
[4] Từ những phân tích nêu trên, nhận thấy bản án sơ thẩm tuyên chấp
nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà V là có căn cứ. Tại cấp phúc thẩm, bà Đ
và bà N1 không xuất trình được chứng cứ mới so với cấp sơ thẩm. Do đó, kháng
cáo của các ông bà Đ là không có căn cứ để chấp nhận. Cần giữ nguyên bản án
sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố
Hồ Chí Minh tham gia phiên toà.
[5] Về án phí dân sự phúc thẩm: Miễn án phí dân sự phúc thẩm cho bà Đ.
[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo
luật định.
Bởi các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015,
Không chấp nhận kháng cáo của bà Liêu Thị Đ. Giữ nguyên Bản án dân
sự sơ thẩm số 08/2025/DS-ST, ngày 07/01/2025 của Toà án nhân dân Thành phố
Hồ Chí Minh.
Căn cứ vào khoản 9 Điều 26, Điều 34, điểm a khoản 1 Điều 37, điểm c
khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ vào Điều 100 Luật Đất đai 2013, Điều 137 Luật Đất đai 2023;
Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội về thu, nộp án phí, lệ phí,
[1] Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Hà Kim V.
[1.1] Công nhận quyền sử dụng hợp pháp của bà Hà Kim V đối với phần
đất có diện tích 512,9m
2
thuộc một phần thửa 258, 259, 260, tờ bản đồ số 16 tại
địa chỉ ấp M, xã T, huyện C.
Vị trí phần đất được xác định tại Bản đồ hiện trạng vị trí - áp ranh số
25530/TTĐĐBĐ-CNCC ngày 24/7/2024 của Trung tâm đo đạc bản đồ thuộc Sở
Tài nguyên và Môi trường Thành phố H.
11
Bà Hà Kim V được quyền liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để
làm thủ tục đứng tên chủ sử dụng đối với phần đất trên theo đúng quy định pháp
luật.
[1.2] Hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số S274199, số
vào sổ 1094/QSDĐ ngày 16/11/2000 của Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho ông
Liêu Văn Ổ đối với phần đất có diện tích 512,9m
2
thuộc một phần thửa đất số
258, 259, 260, tờ bản đồ số 16, tại địa chỉ ấp M, xã T, huyện C.
[2] Về án phí dân sự phúc thẩm: Miễn án phí dân sự phúc thẩm cho bà
Liêu Thị Đ.
[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo
luật định.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9
Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
[4] Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSND cấp cao tại TP.HCM;
- TAND TP. HCM;
- VKSND TP. HCM;
- Cục THADS TP. HCM;
- Đương sự;
- Lưu: VP, HS.
TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Võ Văn Khoa
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 29/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 27/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 26/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 26/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 22/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 22/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 21/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 20/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 15/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 15/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 14/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 14/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 13/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 12/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 11/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm