Bản án số 560/2025/DS-PT ngày 29/09/2025 của TAND tỉnh Đồng Nai về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 560/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 560/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 560/2025/DS-PT
| Tên Bản án: | Bản án số 560/2025/DS-PT ngày 29/09/2025 của TAND tỉnh Đồng Nai về tranh chấp hợp đồng đặt cọc |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng đặt cọc |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đồng Nai |
| Số hiệu: | 560/2025/DS-PT |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 29/09/2025 |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Thành L, bà Ngô Thị Minh N; Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 22/2025/DS-ST ngày 19/6/2025 của Tòa án nhân dân thị xã B, tỉnh Bình Phước (Nay là Toà án nhân dân khu vực A - Đồng Nai). |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐỒNG NAI
Bản án số: 560/2025/DS-PT
Ngày 29- 9 - 2025
V/v “Tranh chấp hợp đồng
đặt cọc”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Ông Nguyễn Viết Hùng
Bà Lê Hồng Hạnh
Bà Đinh Thị Quý Chi
- Thư ký phiên tòa: Ông Trần Lê Minh - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Đồng Nai.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai: Bà Lê Huyền Kim -
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Trong ngày 29 tháng 9 năm 2025, tại điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án
nhân dân tỉnh Đồng Nai - Cơ sở 2 và điểm cầu thành phần Tòa án nhân dân khu
vực A – Đồng Nai xét xử phúc thẩm trực tuyến công khai vụ án dân sự thụ lý số
321/2025/TLPT-DS ngày 20 tháng 8 năm 2025 về việc việc “Tranh chấp hợp
đồng đặt cọc”. Do Bản án dân sự sơ thẩm số 22/2025/DS-ST ngày 19/6/2025
của Tòa án nhân dân thị xã B, tỉnh Bình Phước (Nay là Toà án nhân dân khu vực
A - Đồng Nai) bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số
410/2025/QĐXX-PT ngày 25/8/2025, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1958; Căn cước công dân sô:
042058003277 cấp ngày 15/01/2023. Cư trú tại: Khu phố F, phường M, thị xã C,
tỉnh Bình Phước (Nay là phường M, tỉnh Đồng Nai), có mặt.
Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn: Ông Chu Văn T, sinh năm
1956; Căn cước công dân số: 070056000589 cấp ngày 16/4/2021. Cư trú tại: Số
D Quốc lộ A, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước (Nay là phường B, tỉnh
Đồng Nai), có mặt.
Bị đơn: Ông Nguyễn Thành L, sinh năm 1967; Căn cước công dân số:
070067000694 cấp ngày 06/4/2021. (có mặt) và bà Ngô Thị Minh N, sinh năm
1967 (vắng mặt); Cư trú tại: Tổ A, khu phố P, phường P, thị xã B, tỉnh Bình
2
Phước (Nay là phường A, tỉnh Đồng Nai).
Người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn: Ông Tô Ngọc Đ, sinh năm
1976; Căn cước công dân số: 070096001401 cấp ngày 05/4/2021. Cư trú tại: Tổ
F, ấp H, xã T, thị xã B, tỉnh Bình Phước (Nay là ấp T, phường A, tỉnh Đồng
Nai), có mặt.
Người kháng cáo: Bị đơn ông Nguyễn Thành L, bà Ngô Thị Minh N.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo nội dung đơn khởi kiện, bản tự khai, trong quá trình giải quyết vụ án
và tại phiên tòa, nguyên đơn ông Nguyễn Văn H trình bày: Ngày 05/01/2022,
ông Nguyễn Văn H và vợ chồng ông Nguyễn Thành L và bà Ngô Thị Minh N có
thoả thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất có diện tích 10.000m
2
đất toạ lạc
tại ấp S, xã T, huyện H, tỉnh Bình Phước, được tách ra từ thửa đất số 41, tờ bản
đồ số 06, đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất số CE 241397 do sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B
cấp cho ông Nguyễn Thành L, bà Ngô Thị Minh N với giá chuyển nhượng là
6.000.000.000 đồng (sáu tỷ đồng) nên chúng tôi thoả thuận phía gia đình ông
Nguyễn Thành L, bà Ngô Thị Minh N sẽ có trách nhiệm tách thửa đất trên cho
ông Nguyễn Văn H với diện tích đất có chiều dài là 100 x ngang 100 =
10.000m
2
. Đồng thời chúng tôi cũng thoả thuận với nhau nếu nhà nước thay đổi
kế hoạch làm đường thì phía ông Nguyễn Thành L sẽ trả tiền cọc cho ông H. Vì
thế cùng ngày 05/01/2022 ông H đã đặt cọc cho vợ chồng ông Nguyễn Thành L
và bà Ngô Thị Minh N số tiền là 1.000.000.000 đồng (một tỷ đồng) và đến ngày
15/02/2022 ông H đặt cọc thêm cho vợ chồng ông Nguyễn Thành L và bà Ngô
Thị Minh N số tiền là 1.000.000.000 đồng (một tỷ đồng) theo “hợp đồng đặt cọc
tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất” ngày
05/01/2022 lần thứ nhất. Hai bên thoả thuận trong vòng 90 ngày kể từ ngày
05/01/2022 hẹn đến ngày 15/5/2022 ông L, bà N sẽ hoàn thành thủ tục tách thửa
đất trên cho ông H, nếu ông L, bà N không tách thửa và làm thủ tục chuyển
nhượng cho ông H thì ông L, bà N hoàn trả lại số tiền đặt cọc cho ông H.
Nhưng 90 ngày sau ông L, bà N không thực hiện được việc tách thửa để
làm hợp đồng chuyển nhượng phần đất theo thoả thuận cho ông H. Sau đó ông
L, bà N xin gia hạn hợp đồng đặt cọc. Hai bên đã thoả thuận làm lại giấy đặt cọc
lần thứ hai vào ngày 23/5/2022. Do sơ xuất người viết không đề ngày, tháng kết
thúc hợp đồng. Hiện nay thời gian đã 02 năm nhưng ông L, bà N vẫn không thực
hiện được việc tách thửa như hợp đồng đặt cọc lần 01(ngày 05/01/2022) cho ông
H. Đến nay đã gần 02 năm nhưng gia đình ông Nguyễn Thành L vẫn chưa thực
hiện việc tách thửa cho chúng tôi Hào theo như thoả thuận ban đầu, ông H đã
nhiều lần hối thúc gia đình ông Nguyễn Thành L tiếp tục thực hiện hợp đồng
nhưng không được. Vì vậy, ông H làm đơn này khởi kiện ra Toà án yêu cầu
tuyên bố hợp đồng đặt cọc tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn
liền với đất giữa ông Nguyễn Văn H với vợ chồng ông Nguyễn Thành L và bà
Ngô Thị Minh N vào ngày 05/01/2022 và ngày 23/5/2022 là vô hiệu và buộc vợ
3
chồng ông Nguyễn Thành L và bà Ngô Thị Minh N trả lại cho ông Nguyễn Văn
H số tiền đã đặt cọc là 2.000.000.000đồng (hai tỷ đồng). Ngoài ra không yêu cầu
gì thêm.
Tại phiên tòa ông Nguyễn Văn H giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Yêu cầu
Toà án tuyên bố hợp đồng đặt cọc tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài
sản gắn liền với đất lập ngày 05/01/2022 và hợp đồng đặt cọc ngày
23/5/2022giữa ông Nguyễn Thành L, bà Ngô Thị Minh N với ông Nguyễn Văn
H vô hiệu.
Buộc Nguyễn Thành L, bà Ngô Thị Minh N có nghĩa vụ trả cho ông
Nguyễn Văn H số tiền đặt cọc là 2.000.000.000đ (hai tỷ đồng), ngoài ra không
yêu cầu gì khác.
Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn ông Chu Văn T trình bày:
Thống nhất với lời trình bày của nguyên đơn yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng
đặt cọc tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất lập
ngày 05/01/2022 và hợp đồng đặt cọc ngày 23/5/2022giữa ông Nguyễn Thành
L, bà Ngô Thị Minh N với ông Nguyễn Văn H vô hiệu. Buộc Nguyễn Thành L,
bà Ngô Thị Minh N có nghĩa vụ trả cho ông Nguyễn Văn H số tiền đặt cọc là
2.000.000.000đ (hai tỷ đồng), ngoài ra không yêu cầu gì khác.
Quá trình giải quyết vụ án và tại biên bản lấy lời khai ngày 26/01/2024;
ngày 22/5/2024 và ngày 23/5/2024 của bị đơn ông Nguyễn Thành L và bà Ngô
Thị Minh N trình bày: Ngày 05/01/2022, vợ chồng ông Nguyễn Thành L và Ngô
Thị Minh N có ký kết hợp đồng đặt cọc với ông Nguyễn Văn H có thoả thuận
chuyển nhượng quyền sử dụng đất có diện tích 10.000m
2
đất toạ lạc tại ấp S, xã
T, huyện H, tỉnh Bình Phước, được tách ra từ thửa đất số 45, tờ bản đồ số 06, đất
có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất số CE 241397 do sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp cho ông
Nguyễn Thành L, bà Đỗ Thị Minh N1 với giá chuyển nhượng là 6.000.000.000
đồng (sáu tỷ đồng). Vào ngày 05/01/2022 vợ chồng ông L, bà N1 có nhận của
ông H số tiền đặt cọc để mua diện tích đất trên là 1.000.000.000đồng (một tỷ
đồng) đến ngày 15/02/2022 vợ chồng ông L, bà N1 nhận thêm tiền cọc của ông
H số tiền là 1.000.000.000đồng (một tỷ đồng). Tổng cộng vợ chồng ông L, bà
N1 nhận tiền cọc của ông H là 2.000.000.000đ (hai tỷ đồng). Hai bên thoả thuận
nếu con đường dự kiến sẽ làm đi qua đất của ông L, bà N1 có thay đổi do cơ
quan có thẩm quyền thì ông L, bà N1 sẽ hoàn lại tiền cọc cho ông H và không
phải bồi thường tiền cọc cho ông H.
Nay ông Nguyễn Văn H cho rằng vợ chồng ông L, bà N1 không tách
được sổ thửa đất trên để ký hợp đồng chuyển nhượng và yêu cầu Toà án tuyên
vô hiệu hợp đồng đặt cọc ngày 05/01/2022 và ngày 23/5/2022 giữa ông Nguyễn
Thành L và bà Ngô Thị Minh N với ông Nguyễn Văn H và buộc vợ chồng ông
Nguyễn Thành L và bà Ngô Thị Minh N hoàn trả số tiền mà ông H đã đặt cọc là
2.000.000.000đ (hai tỷ đồng). Vợ chồng ông L, bà N không đồng ý trả lại tiền
cọc, vợ chồng ông L, bà N yêu cầu tiếp tục thực hiện theo thoả thuận trong hợp
đồng đặt cọc ngày 05/01/2022 giữa ông Nguyễn Thành L và bà Ngô Thị Minh N
4
với ông Nguyễn Văn H và theo thoả thuận giữa hai bên theo hợp đồng đặt cọc
viết lại vào ngày 23/5/2022.
Ông Nguyễn Thanh S người đại theo uỷ quyền của ông Nguyễn Thành L
và bà Ngô Thị Minh N trình bày: Thống nhất với lời trình bày của ông L và bà
N. Yêu cầu tiếp tục thực hiện theo thoả thuận trong hợp đồng đặt cọc ngày
05/01/2022 giữa ông Nguyễn Thành L và bà Ngô Thị Minh N với ông Nguyễn
Văn H và theo thoả thuận giữa hai bên theo hợp đồng đặt cọc viết lại vào ngày
23/5/2022.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 22/2025/DS-ST ngày 19/6/2025 của Tòa án
nhân dân thị xã B, tỉnh Bình Phước (Nay là Toà án nhân dân khu vực A - Đồng
Nai) đã quyết định:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn
H.
2. Tuyên bố hợp đồng đặt cọc lập ngày 05/01/2022 và hợp đồng đặt cọc
được các bên thoả thuận lại vào ngày 23/5/2022 giữa ông Nguyễn Thành L, bà
Ngô Thị Minh N với ông Nguyễn Văn H vô hiệu.
Buộc ông Nguyễn Thành L, bà Ngô Thị Minh N có nghĩa vụ hoàn trả cho
ông Nguyễn Văn H số tiền đặt cọc 2.000.000.000 đồng (Hai tỷ đồng).
Ngoài ra, Bản án còn tuyên phần án phí, nghĩa vụ thi hành án và quyền
kháng cáo của các đương sự theo luật định.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 30/6/2025 bị đơn ông Nguyễn Thành L, bà
Ngô Thị Minh N có đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết sửa
Bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện
- Bị đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai:
- Về việc tuân thủ pháp luật tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án của Tòa án
từ khi thụ lý đến khi xét xử phúc thẩm của Thẩm phán, Thư ký Tòa án, Hội đồng
xét xử và các đương sự đã tuân thủ đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân
sự.
- Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX căn cứ vào khoản 1 Điều
308 của Bộ luật Tố tụng dân sự; không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn
ông Nguyễn Thành L, bà Ngô Thị Minh N. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm
số 22/2025/DS-ST ngày 19/6/2025 của Tòa án nhân dân thị xã B, tỉnh Bình
Phước (nay là Toà án nhân dân khu vực A - Đồng Nai).
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
5
[1]Về thủ tục tố tụng:
Đơn kháng cáo của bị đơn làm trong thời hạn luật định, có hình thức, nội
dung và phạm vi kháng cáo phù hợp với quy định tại các Điều 271, 272, 273 của
BLTTDS năm 2015 nên được xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2]. Xét kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Thành L, bà Ngô Thị Minh N,
Hội đồng xét xử xét thấy:
Căn cứ lời trình bày tại phiên tòa đối chiếu với các tài liệu có trong hồ sơ
thì các bên đều thừa nhận đã hai lần lập hợp đồng đặt cọc nhằm chuyển nhượng
một phần diện tích (cụ thể là 10.000 m
2
) chiều ngang là 100m và chiều dài là
100m chạy theo mặt đường nhựa (hình thành trong tương lai), phía đông giáp
đất ông T1, bên tây giáp đất ông L, đất tọa lạc tại ấp S, xã T, huyện H, tỉnh Bình
Phước (nay là xã T, tỉnh Đồng Nai) theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
đứng tên ông Nguyễn Thành L. Cụ thể, Hợp đồng đặt cọc lần 1 ngày 05/01/2022
thỏa thuận thời hạn thực hiện việc ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất và bên nhận cọc tách thửa là 90 ngày kể từ ngày 15/02/2022 đến ngày
15/5/2022. Do quá thời hạn thỏa thuận việc ký hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất vì bên nhận cọc không thể thực hiện được nên hai bên lập lại giấy
đặt cọc lần 2 vào ngày 23/05/2022, nhưng hợp đồng đặt cọc lần 2 ghi sai tờ bản
đồ và không ghi rõ thời điểm kết thúc. Cả hai lần các bên đều ký tên và điểm chỉ
đồng thời thống nhất đã giao, nhận tiền đặt cọc tổng cộng 2.000.000.000 (hai tỷ)
đồng nên đây là “tình tiết không phải chứng minh” theo quy định tại Điều 92 Bộ
luật tố tụng dân sự 2015.
[2.1] Xét thấy, tại thời điểm giao kết hợp đồng đặt cọc thì phần diện tích
10.000 m
2
chưa được tách thửa để hình thành một đối tượng chuyển nhượng độc
lập. Căn cứ Điều 188 Luật đất đai 2013 thì chưa thoả mãn điều kiện pháp lý để
thực hiện giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất nên việc các bên ràng
buộc nghĩa vụ phải ký hợp đồng chuyển nhượng đối với một đối tượng chưa đủ
điều kiện pháp lý tồn tại độc lập cho mục đích chuyển nhượng đã làm cho giao
dịch đặt cọc vi phạm điều cấm của pháp luật được quy định tại điểm c khoản 1
Điều 117 và Điều 123 Bộ luật dân sự 2015. Do đối tượng không thể thực hiện
được theo Điều 408 Bộ luật dân sự 2015 nên hợp đồng đặt cọc để chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Thành L, bà Ngô Thị Minh N với
ông Nguyễn Văn H vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, không có khả năng
thực hiện trên thực tế kể từ thời điểm ký kết hợp đồng.
Mặt khác, các bên đương sự xác định cả hai hợp đồng đặt cọc đều có hiệu
lực nhưng nội dung hai hợp đồng lại mâu thuẫn với nhau về thông tin quyền sử
dụng đất (tờ bản đồ), thời gian thực hiện cũng như đối tượng giao dịch. Hơn nữa
sau khi tách thửa ông L xác định đối tượng để các bên giao dịch là thửa đất 617
tờ bản đồ 06 lại thế chấp cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần Q (M) chưa được
xoá thế chấp. Như vậy, đối tượng tại thời điểm giao dịch không còn tồn tại và
đối tượng giao dịch mới hình thành chưa được thỏa thuận lại đã thế chấp đảm
bảo cho sự việc khác. Tòa cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
6
đơn tuyên hai hợp đồng đặt cọc giữa ông Nguyễn Thành L, bà Ngô Thị Minh N
với ông Nguyễn Văn H vô hiệu là có căn cứ.
[2.2] Đối với yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông L, bà N căn cứ vào thỏa
thuận thời gian thực hiện hợp đồng để cho rằng nguyên đơn chưa đủ điều kiện
khởi kiện: Xét thấy, theo nhận định tại Mục [2] thì tại thời điểm giao dịch thực
hiện hai hợp đồng đặt cọc đều có sự mẫu thuẫn về thời gian, đối tượng giao dịch
và vi phạm điều cấm của quy định pháp luật Dân sự nên hợp đồng vô hiệu ngay
tại thời điểm giao dịch không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ các bên. Vì vậy,
yêu cầu kháng cáo về phần này không có căn cứ để chấp nhận
[3] Về việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu:
[3.1] Lỗi dẫn đến hợp đồng vô hiệu:
Ông Nguyễn Thành L và bà Ngô Thị Minh N có lỗi là đất chưa làm thủ
tục tách thửa theo quy định tại Điều 188 Luật đất đai 2013 nhưng vẫn thoả
thuận chuyển nhượng đất và sau khi nhận đặt cọc ông L, bà N tiến hành tách
thửa đất số 41 thành 05 thửa mới và đã chuyển nhượng cho người khác chỉ còn
lại thửa 617 đang được thế chấp tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Q (MB)
chưa được xóa thế chấp đã làm cho đối tượng giao dịch ban đầu của hợp đồng
(là một phần của thửa 41) không còn tồn tại, đồng thời tạo ra các rào cản pháp lý
(thế chấp) để việc chuyển nhượng cho ông H không thể thực hiện được.
Ông Nguyễn Văn H cũng có lỗi là biết đất chưa được tách thửa, chưa đủ
điều kiện chuyển nhượng theo quy định của Luật Đất đai nhưng vẫn đồng ý
nhận chuyển nhượng, đặt cọc số tiền 2.000.000.000 đồng (Hai tỷ đồng) và để
mặc hậu quả xảy ra. Do vậy, cả hai bên đều có lỗi dẫn đến hợp đồng vô hiệu.
Theo Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015, giao dịch vô hiệu không làm phát
sinh quyền, nghĩa vụ dân sự, các bên khôi phục tình trạng ban đầu và hoàn trả
cho nhau những gì đã nhận. Ông H đã giao tiền cọc cho ông L, bà N tổng cộng
2.000.000.000 đồng (Hai tỷ đồng). Do đó, việc Tòa án sơ thẩm buộc ông L, bà
N phải hoàn trả lại toàn bộ số tiền này cho ông H là phù hợp với quy định của
pháp luật về giải quyết hậu quả giao dịch dân sự vô hiệu.
Từ những nhận định trên, xét thấy không có căn cứ chấp nhận kháng cáo
của bị đơn ông Nguyễn Thành L, bà Ngô Thị Minh N, cần giữ nguyên Bản án
dân sự sơ thẩm số 22/2025/DS-ST ngày 19/6/2025 của Tòa án nhân dân thị xã
B, tỉnh Bình Phước (nay là Toà án nhân dân khu vực A - Đồng Nai).
[4] Án phí dân sự sơ thẩm:
Bị đơn ông Nguyễn Thành L và bà Đỗ Thị Minh N1 phải chịu án phí dân
sự sơ thẩm có giá gạch trên số tiền 2.000.000.000 (Hai tỷ) đồng là: 72.000.000
(Bảy mươi hai triệu) đồng.
Ông Nguyễn Văn H thuộc trường hợp được miễn nộp án phí và có đơn
xin miễn nộp án phí nên ông NguyễnVăn H1 được miễn nộp án phí theo quy
định.
[5] Án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị
7
đơn ông Nguyễn Thành L, bà Ngô Thị Minh N phải chịu theo quy định.
[6] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phù hợp với nhận
định của Hội đồng xét xử được chấp nhận.
[7] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Thành L, bà
Ngô Thị Minh N;
Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 22/2025/DS-ST ngày 19/6/2025
của Tòa án nhân dân thị xã B, tỉnh Bình Phước (Nay là Toà án nhân dân khu vực
A - Đồng Nai).
Áp dụng Điều 117; 122; 123; 131; 328; 357; 468 Bộ luật Dân sự; Điều
188 Luật Đất đai năm 2013; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử :
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn
H.
Tuyên bố hợp đồng đặt cọc lập ngày 05/01/2022 và hợp đồng đặt cọc
được các bên thoả thuận lại vào ngày 23/5/2022 giữa ông Nguyễn Thành L, bà
Ngô Thị Minh N với ông Nguyễn Văn H vô hiệu.
Buộc ông Nguyễn Thành L, bà Ngô Thị Minh N có nghĩa vụ hoàn trả cho
ông Nguyễn Văn H số tiền đặt cọc 2.000.000.000 (Hai tỷ) đồng.
Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường
hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể
từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các
khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong tất
cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi
của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ
luật Dân sự năm 2015.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn Thành L và bà Đỗ Thị Minh
N1 phải chịu 72.000.000 (Bảy mươi hai triệu) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.
3. Án phí dân sự phúc thẩm: Bị đơn ông Nguyễn Thành L, bà Ngô Thị
Minh N phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng, được trừ vào số tiền tạm ứng
án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0028762 ngày
09/7/2025 của Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai.
8
4. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trong trường hợp Bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa
thuận thi hành án; quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân
sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi
hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Lê Hồng Hạnh Đinh Thị Quý Chi
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Viết Hùng
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 24/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 19/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 28/10/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 26/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 26/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 26/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 26/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 25/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 25/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 25/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 24/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 23/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm