Bản án số 548/2025/DS-PT ngày 26/09/2025 của TAND tỉnh Đồng Nai về tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 548/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 548/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 548/2025/DS-PT
| Tên Bản án: | Bản án số 548/2025/DS-PT ngày 26/09/2025 của TAND tỉnh Đồng Nai về tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đồng Nai |
| Số hiệu: | 548/2025/DS-PT |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 26/09/2025 |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | Ông Lê Bá D tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất với Công ty TNHH X. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH ĐỒNG NAI Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 548/2025/DS-PT
Ngày: 26/9/2025
V/v: “Tranh chấp hợp đồng
thuê khoán tài sản”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
- Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Đình Trung.
- Các Thẩm phán: 1/ Ông Nguyễn Thế Phương.
2/ Bà Nguyễn Thị Quyên.
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Đoàn Hữu Phúc – Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Đồng Nai.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai: Bà Trần Thị Thu Sương –
Kiểm sát viên tham gia phiên toà.
Ngày 26 tháng 9 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 315/2025/TLPT-DS ngày 06 tháng 8 năm 2025
về việc “Tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 31/2025/DS-ST ngày 30 tháng 5 năm 2025 của
Tòa án nhân dân huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước (nay là Tòa án nhân dân Khu vực
12 – Đồng Nai) bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 373/2025/QĐ-PT ngày 08 tháng 8
năm 2025; Quyết định hoãn phiên tòa số 860/2025/QĐ-PT ngày 26 tháng 8 năm
2025; Quyết định hoãn phiên tòa số 926/2025/QĐ-PT ngày 09 tháng 9 năm 2025 của
Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Lê Bá D, sinh năm 1971; bà Nguyễn Thị T, sinh năm
1975.
Địa chỉ: khu Đ, thị trấn Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước (nay là xã B, tỉnh Đồng
Nai).
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Bà Ninh Thị Nguyên H, sinh năm
1987.
Địa chỉ thường trú: Số A, Tổ A – ĐT 741, xã Đ, tỉnh Đồng Nai.
Địa chỉ liên lạc: 194, Quốc lộ A, xã B, tỉnh Đồng Nai.
2. Bị đơn: Công ty TNHH X.
Địa chỉ: Số nhà I, Quốc lộ A, Thôn C, xã N, huyện B, tỉnh Bình Phước (nay
là xã N, tỉnh Đồng Nai).
2
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Thái H1 – Giám đốc.
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Hoàng D1 – Luật sư
thuộc Công ty L, Đoàn Luật sư T1.
Các đương sự có mặt; luật sư D1 vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bản án sơ thẩm thể hiện nội dung vụ án như sau:
Theo đơn khởi kiện ngày 30/10/2024, lời khai trong quá trình giải quyết án
nguyên đơn ông Lê Bá D bà Nguyễn Thị T và người đại diện theo ủy quyền trình
bày:
Vợ chồng ông Lê Bá D, bà Nguyễn Thị T có vườn sầu riêng tại thôn E, xã Đ,
giáp thôn A, xã T, huyện B Trên đất có 350 cây độ tuổi 06 năm đã bắt đầu được thu
hoạch, trong đó có 300 cây giống Ri-6.
Do không có điều kiện trực tiếp canh tác nên ngày 22/10/2022 ông bà và
Công ty TNHH X (sau đây viết tắt là Công ty) do ông Nguyễn Thái H1 làm đại diện
thỏa thuận chuyển nhượng lại quyền quản lý, chăm sóc và thu hoạch vườn sâu riêng
nêu trên (tức bán sầu riêng bông). Việc chuyển nhượng các bên có lập hợp đồng, cụ
thể như sau: Thời hạn chuyển nhượng là 10 năm (từ ngày 22/10/2022 đến ngày
22/10/2032) với giá 3.200.000.000 đồng. Số tiền chuyển chuyển nhượng được thỏa
thuận thanh toán từng lần theo quy định tại Điều 3 của hợp đồng. Ngoài ra các bên
còn thỏa thuận chi tiết về việc bàn giao đất, cách thức, phương pháp quản lý cây
trồng, quản lý các tài sản khác gắn liền với đất.
Quá trình thực hiện hợp đồng, ông bà đã bàn giao vườn và toàn bộ các đồ
dùng, máy móc liên quan theo như hợp đồng cho Công ty kể từ khi ký hợp đồng.
Phía Công ty đã nhận vườn canh tác, chăm sóc và thu hoạch, đồng thời thanh toán
cho số tiền chuyển nhượng 400.000.000 đồng vào ngày 22/10/2022 và 400.000.000
đồng vào ngày 30/6/2023.
Theo thỏa thuận trả tiền ghi trong hợp đồng thì phía Công ty có trách nhiệm
thanh toán cho ông bà số tiền 800.000.000 đồng vào ngày 30/6/2024. Tuy nhiên, khi
đến hạn phía Công ty không thanh toán như thỏa thuận. Ông bà đã nhiều lần yêu cầu
phía Công ty (thông qua người đại diện là ông H1) thanh toán và trực tiếp gặp ông
H1 hỏi lý do chậm thanh toán thì ông H1 đưa ra nhiều lý do cho rằng chưa thu xếp
được tiền. Sau nhiều lần yêu cầu thanh toán không được, ông bà nhắn tin cho ông
H1 yêu cầu đóng 02 tháng tiền lãi (từ ngày 30/6/2024) với số tiền 24.000.000 đồng,
nếu hết thời gian này không trả số tiền 800.000.000 đồng thì sẽ lấy lại vườn. Phía
ông H1 đã đóng cho ông bà 02 tháng tiền lãi theo yêu cầu. Tuy nhiên, hết thời hạn
02 tháng vẫn không thanh toán thêm số tiền nào. Ông bà tiếp tục gọi điện thoại, nhắn
tin Zalo cho ông H1 rất nhiều lần về việc chấm dứt hợp đồng nếu không thực hiện.
Phía ông H1 phản hồi lại với nhiều lý do như chờ bán nhà, cần huy động vốn...v..v.
Sau ngày 03/10/2024, ông bà đã lấy lại vườn quản lý. Sau đó ông H1 đã cho mấy
người vào rẫy để quấy rối không cho ông bà tiếp tục canh tác. Vì vậy, ông bà khởi
kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tuyên hủy "Hợp đồng chuyển nhượng lại quyền quản
lý, chăm sóc và thu hoạch vườn sâu riêng" ngày 22/10/2022 giữa ông bà với Công
ty.
3
Tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện theo ủy quyền trình bày: Giữ nguyên
yêu cầu khởi kiện; khẳng định bị đơn vi phạm nghĩa vụ thanh toán là căn cứ chấm
dứt hợp đồng mà các bên đã thỏa thuận. Sau nhiều lần yêu cầu thanh toán không
được thì nhắn tin yêu cầu đóng trước 02 tháng tiền lãi kể từ ngày 30/6/2024, nếu hết
thời gian này không trả thì sẽ lấy lại vườn. Bị đơn đã thực hiện đóng lãi 02 tháng
theo yêu cầu nhưng hết thời hạn này vẫn không thực hiện trả tiền và đưa ra nhiều lý
do khác nhau. Phía nguyên đơn không đồng ý với các lý do của bị đơn đưa ra và ấn
định thời hạn cuối cùng là ngày 03/10/2024, nhưng phía bị đơn không thực hiện nên
lấy lại vườn. Sau khi nguyên đơn nộp đơn khởi kiện thì bị đơn mới chuyển số tiền
800.000.000 đồng vào ngày 12/11/2024, nhưng phía nguyên đơn không nhận mà
yêu cầu phía Ngân hàng làm thủ tục hoàn trả lại cho Công ty.
* Quá trình giải quyết vụ án, ông Nguyễn Thái H1 là người đại diện theo pháp
luật của bị đơn trình bày:
Ông không biết chính xác địa điểm vườn giao kết với vợ chồng ông D, bà T
là thuộc về địa phận xã Đ hay xã T, nhưng đã trực tiếp nhận vườn theo như hợp đồng
ký kết ngày 22/10/2022 là đúng. Xác nhận các bên thỏa thuận giá giao khoán vườn
là 3.200.000.000 đồng. Trong hợp đồng các bên có thỏa thuận rõ về số lượng cây,
các vật dụng kèm theo, quyền nghĩa vụ các bên và số tiền, thời gian giao số tiền theo
như Điều 3 của hợp đồng. Xác nhận đã thanh toán được số tiền ngày 22/10/2022 và
30/6/2023. Tuy nhiên, không thanh toán được số tiền 800.000.000 đồng mà hai bên
đã thỏa thuận giao vào ngày 30/6/2024. Nguyên nhân, do việc thu hoạch từ vườn
sầu riêng của ông D, bà T không nhiều, trong đó năm đầu tiên cây còn nhỏ và năm
thứ 2 thì thời tiết hạn hán chỉ thu được khoảng 01 tấn trị giá khoảng 30.000.000
đồng. Ông đã vay mượn, thế chấp Ngân hàng tất cả tài sản để đầu tư vườn sầu riêng
này, mặc dù không có lợi nhuận nhưng cũng cố gắng khắc phục thanh toán. Ông
cũng đã phản ánh với ông D, bà T về việc chậm trả nêu trên và ông D, bà T yêu cầu
đóng lãi 24.000.000 đồng mà không ấn định thời gian trả cuối cùng và thời hạn chấm
dứt hợp đồng. Do đặc thù công việc không sử dụng điện thoại thường xuyên nên
không nhận được tin nhắn về việc chấm dứt hợp đồng của ông D, bà T và lý do này
cũng đã báo ông D, bà T. Đến ngày 12/11/2024, ông đã chuyển cho ông D bà T đủ
số tiền 800.000.000 đồng là tiền phải giao ngày 30/6/2024, nhưng ông D bà T lại
hoàn trả lại.
Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì ông không đồng ý. Tuy nhiên
ông cũng có lời khai tại đơn phản tố ngày 13/3/2025 (BL 114) là đề nghị Tòa án hủy
hợp đồng giữa hai bên và giải quyết hậu quả pháp lý việc hủy bỏ hợp đồng là buộc
ông D bà T trả số tiền đã nhận của Công ty là 800.000.000 đồng trong năm 2022 –
2023 theo như hợp đồng; 24.000.000 đồng tiền lãi; buộc ông D bà T bồi thường số
tiền 1.580.000.000 đồng và tiền lãi Ngân hàng khoảng
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 31/2025/DS-ST ngày 30/5/2025 của Tòa án
nhân dân huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước (nay là Tòa án nhân dân Khu vực
12 - Đồng Nai) đã tuyên xử:
Căn cứ vào các Điều 423, Điều 424, Điều 483, Điều 492 Bộ luật dân sự năm
2015;
4
Áp dụng các Điều 147, Điều 157; Điều 266, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân
sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ
Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn.
Tuyên hủy hợp đồng thuê khoán tài sản (Hợp đồng chuyển nhượng quyền
quản lý và chăm sóc thu hoạch vườn sầu riêng) ngày 22/10/2022 giữa vợ chồng ông
Lê Bá D bà Nguyễn Thị T với Công ty TNHH X.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí, quyền kháng
cáo của các đương sự.
Ngày 13/6/2025, Công ty TNHH X Nhiệt đới kháng cáo toàn bộ bản án sơ
thẩm, đề nghị Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử theo hướng: Hủy toàn bộ bản
án sơ thẩm.
* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án
Thẩm phán đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; về quan hệ
pháp luật, xác định tư cách pháp lý của nguyên đơn và bị đơn, thẩm quyền thụ lý
của Tòa án, việc thu thập chứng cứ đúng quy định. Quyết định đưa vụ án ra xét xử,
thời hạn chuyển hồ sơ, thủ tục cấp tống đạt niêm yết cho các đương sự đảm bảo theo
quy định pháp luật. Các quyền nghĩa vụ của đương sự được đảm bảo thực hiện. Tại
phiên tòa, Hội đồng xét xử đã tiến hành tố tụng đúng trình tự thủ tục theo quy định
của của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; những người tham gia tố tụng chấp hành
đúng pháp luật.
- Về thủ tục kháng cáo: Công ty TNHH X Nhiệt đới làm đơn kháng cáo bản
án sơ thẩm và nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm trong hạn luật định nên được xem
xét theo thủ tục phúc thẩm.
- Về nội dung kháng cáo:
Qua lời trình bày của các đương sự có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa, có
căn cứ xác định việc Công ty TNHH X Nhiệt đới chậm thanh toán tiền cho vợ chồng
ông Lê Bá D, bà Nguyễn Thị T là vi phạm thỏa thuận đã ký. Tòa án cấp sơ thẩm
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ. Bị đơn kháng cáo nhưng
không cung cấp thêm tình tiết nào khác nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm: Áp
dụng khoản 1 điều 308 BLTTDS, không chấp nhận kháng cáo của Công ty TNHH
X, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận
định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
- Bị đơn kháng cáo bản án dân sự sơ thẩm trong hạn luật định và nộp tiền tạm
ứng án phí nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
5
- Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị đơn đã được Tòa án triệu tập
tham gia phiên tòa đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ Điều
227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiếp tục xét xử vụ án.
[2] Thẩm quyền giải quyết, quan hệ pháp luật tranh chấp: Tòa án cấp sơ thẩm
xác định đúng.
[3] Nội dung vụ án.
Vợ chồng ông Lê Bá D, bà Nguyễn Thị T có 01 thửa đất diện tích 35.203,7m
2
,
tại thôn E, xã Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước (nay là xã P, tỉnh Đồng Nai) và tài sản
gắn liền với đất là 350 cây sầu riêng khoảng 06 năm tuổi. Ngày 22/10/2022 vợ ông
D, bà T và Công ty TNHH X do ông Nguyễn Thái H1 làm người đại diện lập “Hợp
đồng chuyển nhượng quyền quản lý và chăm sóc thu hoạch vườn sầu riêng”. Theo
đó, ông D, bà T chuyển nhượng lại quyền quản lý, chăm sóc và thu hoạch vườn sâu
riêng nêu trên cùng với các tài sản khác phục vụ cho việc trông coi, chăm sóc cây
trồng cho Công ty trong thời hạn 10 năm (từ ngày 22/10/2022 đến ngày 22/10/2032)
với giá 3.200.000.000 đồng. Số tiền chuyển chuyển nhượng thỏa thuận trả từng lần
gồm: Ngày 22/10/2022 và ngày 30/6/2023 mỗi lần thanh toán 400.000.000 đồng.
Ngày 30/6/2024, 30/6/2025, 30/6/2026 mỗi lần trả 800.000.000 đồng. Ngoài ra các
bên còn thỏa thuận về việc bàn giao tài sản, trách nhiệm các bên, phương thức giải
quyết tranh chấp hợp đồng. Hợp đồng nêu trên được ông Linh Quốc Đ là phó Chủ
tịch Ủy ban nhân dân xã T ký tên và đóng dấu. Sau đó, ông D, bà T đã giao vườn
cho Công ty quản lý, chăm sóc và thu hoạch kể từ thời điểm ký hợp đồng. Phía Công
ty đã thanh toán được số tiền ngày 22/10/2022 và ngày 30/6/2023 tổng cộng là
800.000.000 đồng, nhưng không thanh toán được số tiền 800.000.000 đồng mà hai
bên đã ấn định giao vào ngày 30/6/2024. Sau nhiều lần yêu cầu thanh toán nhưng
Công ty chưa thực hiện, Công ty chỉ thanh toán được 02 tháng tiền lãi với số tiền là
24.000.000 đồng. Điều này đều được các bên thừa nhận nên là tình tiết không phải
chứng minh.
Ông Nguyễn Thái H1 thừa nhận thanh toán trễ hạn theo hợp đồng đã ký,
nguyên nhân là do bị thất thu, hạn hán mất mùa, Công ty mua nhiều vườn nên đang
bàn phương án trả.
Tại Điều 5 của hợp đồng hai bên đã thỏa thuận, nếu bên B (tức Công ty) thực
hiện không đúng các nội dung ký kết thì bên A (ông D, bà T) có quyền chấm dứt hợp
đồng ngay lập tức kể từ thời điểm vi phạm.
Như vậy, Công ty đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng đã ký, đây
là điều kiện chấm dứt hợp đồng mà các bên đã thỏa thuận tại Điều 5. Vì vậy, cấp sơ
thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông D, bà T, tuyên hủy hợp đồng thuê khoán
tài sản (Hợp đồng chuyển nhượng quyền quản lý và chăm sóc thu hoạch vườn sầu
riêng) ngày 22/10/2022 là có căn cứ.
Bị đơn kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy toàn bộ bản án là không
có cơ sở nên không chấp nhận.
[4] Về chi phí tố tụng:
6
Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn đã tự nguyện nộp tạm ứng chi phí đo
đạc; xem xét, thẩm định tại chỗ là 4.500.000 đồng, cấp sơ thẩm buộc nguyên đơn
chịu và ông D, bà T không kháng cáo nên không đặt ra xem xét giải quyết.
[5] Về án phí:
- Án phí dân sự sơ thẩm: Công ty TNHH X Nhiệt đới phải nộp 300.000 đồng.
Hoàn trả cho ông D, bà T tiền tạm ứng án phí đã nộp.
- Án phí dân sự phúc thẩm: Công ty TNHH X Nhiệt đới phải chịu 300.000
đồng, được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp.
[6] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai là phù
hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1/ Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Công ty TNHH X. Giữ nguyên Bản
án dân sự sơ thẩm số 31/2025/DS-ST ngày 30/5/2025 của Tòa án nhân dân huyện
Bù Đăng, tỉnh Bình Phước (nay là Tòa án nhân dân Khu vực 12 - Đồng Nai).
2/ Căn cứ vào các Điều 423, Điều 424, Điều 483, Điều 492 Bộ luật dân sự
năm 2015;
Áp dụng các Điều 147, Điều 157; Điều 266, Điều 273; Điều 227, 228 của Bộ
luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn.
Tuyên hủy hợp đồng thuê khoán tài sản (Hợp đồng chuyển nhượng quyền
quản lý và chăm sóc thu hoạch vườn sầu riêng) ngày 22/10/2022 giữa vợ chồng ông
Lê Bá D bà Nguyễn Thị T với Công ty TNHH X.
2. Về án phí:
Buộc Công ty TNHH X phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Hoàn trả lại cho vợ chồng Lê Bá D bà Nguyễn Thị T số tiền tạm ứng án phí
đã nộp là 300.000 đồng, theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0009463 ngày
14/11/2024 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước (nay là
Phòng Thi hành án dân sự Khu vực 12 – Đồng Nai).
Công ty TNHH X phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm, được trừ
vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0028603 ngày 10/7/2025 của
Phòng Thi hành án dân sự Khu vực 12 – Đồng Nai.
3. Về chi phí tố tụng: Buộc vợ chồng ông Lê Bá D bà Nguyễn Thị T phải
chịu 4.500.000 đồng ( đã nộp xong).
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Đương sự;
- VKSND T. Đồng Nai;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
7
- TAND Khu vực 12 – Đồng Nai;
- VKSND Khu vực 12 – Đồng Nai;
- Phòng Thi hành án dân sự Khu vực 12 –
Đồng Nai;
- Lưu hồ sơ vụ án.
Nguyễn Đình Trung
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 19/10/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 26/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 24/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 19/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 18/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 09/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 08/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 05/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 27/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 22/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 22/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 21/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 21/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 13/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 07/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 04/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 01/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm