Bản án số 541/2025/DS-PT ngày 24/09/2025 của TAND tỉnh Đồng Nai về tranh chấp đất đai
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 541/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 541/2025/DS-PT
| Tên Bản án: | Bản án số 541/2025/DS-PT ngày 24/09/2025 của TAND tỉnh Đồng Nai về tranh chấp đất đai |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đồng Nai |
| Số hiệu: | 541/2025/DS-PT |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 24/09/2025 |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | ông Lăng đã bán đất từ năm 2004 nhưng chưa sang tên nên đòi lại |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐỒNG NAI
Bản án số: 541/2025/DS-PT
Ngày: 24-9-2025
V/v tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐỒNG NAI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà:
Các Thẩm phán:
Bà Đinh Thị Quý Chi
Ông Trần Văn Nhum
Ông Nguyễn Văn Nhân
Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Tú Anh - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Đồng Nai.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tham gia phiên tòa: Bà
Nguyễn Thị Thanh Huyền - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 10/9/2025, ngày 12/9/2025 và 24/9/2025, tại trụ sở Tòa án
nhân dân tỉnh Đồng Nai (cơ sở 2) xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý
số 289/2025/TLPT-DS ngày 11/7/2025 về “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất”. Do Bản án dân sự sơ thẩm số 16/2025/DS-ST ngày
13/5/2025 của Toà án nhân dân huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước (nay là Tòa án
nhân dân khu vực 11 - Đồng Nai) bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 366/2025/QĐXXPT-DS ngày 06
tháng 8 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Vương Ngọc Bửu S, sinh năm 1968, trú tại: Thôn F,
xã L, huyện P, tỉnh Bình Phước (nay là: số A, thôn L, xã L, tỉnh Đồng Nai). Có
mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: ông Nguyễn Đức D, sinh
năm 1974, trú tại: khu phố P, phường B, tỉnh Đồng Nai. Có mặt.
2. Bị đơn: Võ Văn L, sinh năm 1970, trú tại: Thôn F, xã L, huyện P, tỉnh
Bình Phước (nay là: số A, thôn L, xã L, tỉnh Đồng Nai). Có mặt.
2
3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập: ông
Vương Ngọc Thanh D1, sinh năm 1972, trú tại: Thôn F, xã L, huyện P, tỉnh Bình
Phước (nay là: số A, thôn L, xã L, tỉnh Đồng Nai). Có mặt.
4. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan khác:
- Bà Thị H, sinh năm 1975. Vắng mặt
- Chị Võ Thị H1, sinh năm 1994. Vắng mặt
- Anh Võ Minh H2, sinh năm 1999. Vắng mặt
Bà H, chị H1, anh H2 trú tại: Thôn F, xã L, huyện P, tỉnh Bình Phước (nay
là: số A, thôn L, xã L, tỉnh Đồng Nai) và cùng ủy quyền cho bị đơn ông Võ Văn
L.
5. Người làm chứng: ông Điểu S1, sinh năm 1958, trú tại: Thôn F, xã L,
huyện P, tỉnh Bình Phước (nay là: thôn L, xã L, tỉnh Đồng Nai). Có mặt
6. Người kháng cáo: bị đơn ông Võ Văn L.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Quá trình giải quyết vụ án, tại phiên tòa nguyên đơn ông Vương Ngọc Bửu
S trình bày:
Ông Võ Văn L, trú tại: thôn F, xã L, huyện P, tỉnh Bình Phước có một thửa
đất tọa lạc tại thôn F, xã L, huyện P, tỉnh Bình Phước, thửa đất được cấp giấy
chuyển nhượng quyền sử dụng đất số lt 85 do Ủy ban nhân dân huyện P (nay là
huyện P) cấp ngày 26/05/1999 (đo độc lập theo chỉ thị 10). Thửa đất này được
phân cắt bởi 01 con đường đất thành 02 thửa đất nhỏ, 01 thửa phía dưới có diện
tích 9.272m², 01 thửa phía trên có diện tích 13.764m² giáp suối. Vào ngày (không
rõ), tháng 03 năm 2003, ông L sang nhượng toàn bộ thửa đất phía dưới cho ông
Vương Ngọc Thanh D1, địa chỉ: thôn F, xã L, huyện P, tỉnh Bình Phước theo
giấy viết tay với giá 35.000.000đ (có làm giấy sang nhượng tay). Thửa đất có tứ
cận như sau: Đông giáp Suối, T giáp đường đất, Nam giáp đất ông Điểu L1, Bắc
giáp đất ông Vũ Văn M.
Lúc này toàn bộ thửa đất phía dưới này có diện tích khoảng 17.000m² (do
thửa đất phía dưới giáp suối nên quá trình sử dụng mở rộng phần diện tích đất
giáp suối). Ngày 30 tháng 09 năm 2003, ông L cho rằng diện tích đất thực tế lớn
hơn 0,2 ha nên ông D1 đồng ý trả thêm cho ông L 6.000.000 đồng (có làm giấy
sang nhượng tay).
Ông D1 sử dụng ổn định đến nay và không tranh chấp với ai. Ngày 01
tháng 11 năm 2005, ông D1 sang nhượng thửa đất này cho ông S để quản lý và sử
dụng (việc này ông S và ông D1 có thông báo cho ông L và được ông L đồng ý
và có viết giấy sang nhượng tay). Trong quá trình sử dụng, do thửa đất tiếp giáp
3
suối nên ông S tiếp tục phát quang, mở rộng thêm. Diện tích đất sử dụng thực tế
hiện nay khoảng 19.000m².
Năm 2021, ông S mời ông L đi đổi giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất
mới (đo đạc chính quy) thay cho giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất củ (đo
độc lập theo chỉ thị 10), giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất mới có diện tích
tăng thêm (biến động tăng) khoảng 4.000m² (là phần diện tích ông S mua thêm và
phần diện tích ông S khai phá) và hiện nay ông S vẫn đang giữ sổ cho đến nay.
Khi ông S yêu cầu ông L làm hợp đồng sang nhượng thì chỉ có hai vợ
chồng ông L đã ra Ủy ban nhân dân xã L ký vào hợp đồng công chứng nhưng các
con ông L không ra ký. Ông S yêu cầu ông L phải cùng các con ra ký thì ông L
yêu cầu ông S ông S trả thêm tiền nhận thấy quyền và lợi ích của ông S bị xâm
phạm.
Tại Đơn khởi kiện đề ngày 10/01/2021, ông S đề nghị Tòa án giải quyết:
công nhận hợp đồng sang nhượng giữa ông Bửu S với ông L đối với diện tích đất
17.000.000m² mà ông S nhận sang nhượng của ông D1 (có sự đồng ý của ông L);
kiến nghị cơ quan có thẩm quyền thu hồi giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất
cấp cho hộ ông Võ Văn L (giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất đo chính quy);
công nhận phần diện tích đất mà ông S khai hoang, mở rộng và sử dụng ổn định
khoảng 2.000m² là tài sản thuộc quyền quản lý của ông S; kiến nghị cơ quan có
thẩm quyền cấp giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông S đối với phần
diện tích đất này.
Tại Đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện và rút một phần yêu cầu khởi kiện đề
ngày 26/9/2024 (BL 70), ông Bửu S rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc công
nhận hợp đồng sang nhượng giữa ông S với ông L đối với diện tích đất 17.000m²
mà ông S nhận sang nhượng của ông D1 (có sự đồng ý của ông L); kiến nghị cơ
quan có thẩm quyền thu hồi giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất cấp cho hộ
ông Võ Văn L (giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất đo chính quy); công nhận
phần diện tích đất mà ông S khai hoang, mở rộng và sử dụng ổn định khoảng
2.000m² là tài sản thuộc quyền quản lý của ông S; kiến nghị cơ quan có thẩm
quyền cấp giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông S đối với phần diện
tích đất này. Đồng thời, đề nghị Tòa án giải quyết:
1. Công nhận hợp đồng sang nhượng giữa ông Vương Ngọc Thanh D1 với
ông Võ Văn L theo “Giấy sang nhượng đất ngày…..tháng 3 năm 2003” đối với
diện tích đất 18.908,6m² đất tọa lạc tại: Thôn F, xã L, huyện P, tỉnh Bình Phước
là có hiệu lực.
2. Công nhận hợp đồng sang nhượng giữa ông Vương Ngọc Bửu S với ông
Vương Ngọc Thanh D1 theo “Giấy sang nhượng đất” lập ngày 01 tháng 11 năm
2005 đối với diện tích đất 18.908,6m² đất tọa lạc tại: Thôn F, xã L, huyện P, tỉnh
Bình Phước là có hiệu lực.
4
3. Công nhận diên tích đất 18.908,6m² đất tọa lạc tại: Thôn F, xã L, huyện
P, tỉnh Bình Phước là quyền sử dụng đất hợp pháp của ông S và kiến nghị cơ
quan có thẩm quyền cấp giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông S đối
với phần diện tích đất này.
4. Kiến nghị Ủy ban nhân dân huyện P thu hồi giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cấp cho ông Võ Văn L và vợ là bà Thị H đối với phần diện tích đất trên
và cấp cho ông S theo quy định của pháp luật.
Quá trình giải quyết vụ án bị đơn ông Võ Văn L trình bày:
Ông L hoàn toàn đồng ý với lời trình bày của ông D1 về thời gian chuyển
nhượng, hình thức chuyển nhượng mà ông D1 đã trình bày là đúng và vợ chồng
ông cũng đã giao đất cho ông D1, ông D1 và ông S đã làm nhà ở từ thời gian đó
cho đến nay. Nhưng, giá chuyển nhượng ông D1 nói 35.000.000 đồng là không
đúng. Mặc dù ông L có ghi trong hợp đồng giá chuyển nhượng 35.000.000 đồng
là để giảm thuế nhưng giá trị thực tế là 99.000.000 đồng như trong “Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 17/8/2004” mà ông L đã nộp cho Tòa án.
Ông D1 đã đưa cho ông L số tiền 35.000.000 đồng và sau đó ông D1 mua thêm
0,2 hecta đất vượt quá khi thỏa thuận chuyển nhượng là 6.000.000 đồng nữa.
Tổng cộng ông D1 đã đưa cho ông L số tiền là 41.000.000 đồng, ông D1 cam kết
sẽ trả đủ cho ông L số tiền 58.000.000 đồng còn lại vào ngày 25/4/2004 nhưng từ
thời gian đó cho đến nay ông D1 và ông S không trả cho ông L. Việc ông D1
sang nhượng lại phần đất này cho ông S ông L không biết mãi đến năm 2010 ông
với biết và có yêu cầu ông S và ông D1 phải trả hết tiền cho ông thì ông S trả lời
là ông S không biết. Đến năm 2021, ông S yêu cầu ông làm hợp đồng chuyển
nhượng thửa đất này cho ông S, lúc này ông S có nói miệng với ông L (hai bên
không làm giấy tờ gì và cũng không ai làm chứng) là đưa cho ông L số tiền 02 tỷ
đồng tương ứng với số tiền 58.000.000 đồng mà thời điểm chuyển nhượng ông
D1 còn thiếu của ông L nên sau đó vợ chồng ông L mới ký vào hợp đồng chuyển
nhượng thửa đất này cho ông S tại Ủy ban nhân dân xã L. Nhưng, sau đó ông S
không đưa cho ông L số tiền 02 tỷ nên các con ông L không ký vào hợp đồng này
và phát sinh tranh chấp. Nay, ông L yêu cầu ông D1 phải trả cho ông số tiền
58.000.000 đồng còn thiếu vào thời điểm chuyển nhượng tương ứng với phần
diện tích đất thời điểm đó là 9960m
2
tính theo giá thị trường hiện nay là
700.000.000 đồng/ha thành tiền là 697.200.000 đồng và phần đất dư thừa khi
chuyển nhượng là 1.908m
2
tính theo giá thị trường hiện nay là 700.000.000
đồng/ha thành tiền là 133.560.000 đồng. Như vậy, tổng số tiền ông D1 phải trả
cho ông L là 830.760.000 đồng thì ông L mới đồng ý làm thủ tục chuyển nhượng
cho ông S. Ông L đã làm đơn phản tố về yêu cầu này tuy nhiên khi Tòa án cho
ông L đóng tiền tạm ứng án phí thì ông L không có tiền đóng nên tòa án trả lại
đơn phản tố của ông L.
5
Nay, trước yêu cầu khởi kiện của ông S, ông L có ý kiến như sau: ông L
không đồng ý công nhận hợp đồng sang nhượng giữa ông Vương Ngọc Thanh
D1 với ông Võ Văn L theo “Giấy sang nhượng đất ngày…..tháng 3 năm 2003”
đối với diện tích đất 18.908,6m² đất tọa lạc tại: Thôn F, xã L, huyện P, tỉnh Bình
Phước là có hiệu lực vì ông D1 chưa trả hết tiền cho ông L; không đồng ý công
nhận hợp đồng sang nhượng giữa ông L là Vương Ngọc Bửu S với ông Vương
Ngọc Thanh D1 theo giấy sang nhượng đất ngày 01 tháng 11 năm 2005 đối với
diện tích đất 18.908,6m² đất tọa lạc tại: Thôn F, xã L, huyện P, tỉnh Bình Phước
là có hiệu lực vì việc sang nhượng giữa ông L và ông D1 chưa xong và khi ông
D1 chuyển nhượng cho ông S thì cũng không thông báo với ông L.
Ông L không đồng ý công nhận diên tích đất 18.908,6m² đất tọa lạc tại:
Thôn F, xã L, huyện P, tỉnh Bình Phước là quyền sử dụng đất hợp pháp của ông
L và kiến nghị cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chuyển nhượng quyền sử dụng
đất cho ông L đối với phần diện tích đất này vì việc sang nhượng giữa ông L và
ông D1 chưa xong và khi ông D1 chuyển nhượng cho ông S thì cũng không
thông báo với ông L.
Đối với yêu cầu độc lập của ông Vương Ngọc Thanh D1 về việc đề nghị
tòa án công nhận hợp đồng sang nhượng giữa ông Vương Ngọc Thanh D1 với
ông Võ Văn L theo “Giấy sang nhượng đất ngày…..tháng 3 năm 2003” đối với
diện tích đất 18.908,6m² đất tọa lạc tại: Thôn F, xã L, huyện P, tỉnh Bình Phước
là có hiệu lực thì ông L không đồng ý vì ông D1 chưa trả hết tiền cho ông L và lý
do như ông L đã trình bày như trên.
Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa người có quyền lợi và nghĩa vụ
liên quan có yêu cầu độc lập ông Vương Ngọc Thanh D1 trình bày:
Ông Võ Văn L có một thửa đất tọa lạc tại thôn F, xã L, huyện P, tỉnh Bình
Phước, thửa đất được cấp giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất số LT 85 do
Ủy ban nhân dân huyện P (nay là huyện P) cấp ngày 26/05/1999 (Đo độc lập theo
chỉ thị 10). Thửa đất này được phân cắt bởi 01 con đường đất thành 02 thửa đất
nhỏ, 01 thửa phía dưới có diện tích 9.272m², 01 thửa phía trên có diện tích
13.764m² giáp suối. Năm 2003, ông L sang nhượng toàn bộ thửa đất phía dưới
cho ông D1 theo giấy viết tay với giá 35.000.000đ. Thửa đất có tứ cận như sau:
Đông giáp Suối, T giáp đường đất, Nam giáp đất Điểu Lây, Bắc giáp đất ông Vũ
Văn M.
Lúc này toàn bộ thửa đất phía dưới có diện tích khoảng 17.000m² (do thửa
đất phía dưới giáp suối nên quá trình sử dụng mở rộng phần diện tích đất giáp
suối). Năm 2003, ông L cho rằng diện tích đất thực tế lớn hơn khoảng 0,2ha nên
ông D1 đồng ý trả thêm cho ông L 6.000.000 đồng. Ông D1 sử dụng đến năm
2005 thì sang nhượng thửa đất này cho anh trai là Vương Ngọc Bửu S để quản lý
và sử dụng (việc này ông D1 và ông S có thông báo cho ông L và được ông L
6
đồng ý khi nào ông L đổi giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì sang trực
tiếp qua cho ông S, không phải sang cho ông D1). Năm 2021, tại địa phương có
đợt đổi giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì ông S có báo với ông L để ông
L có nghĩa vụ đổi giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất và sang tên cho ông S.
Theo quy định của pháp luật thì giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo chỉ
thị 10 đứng tên ông L nên ông L phải có trách nhiệm đi làm thủ tục đổi giấy
chuyển nhượng quyền sử dụng đất chính quy thì mới sang nhượng cho ông S
được. Sau khi đổi giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì ông L và vợ ông L
có lên Ủy ban nhân dân xã L hợp đồng sang nhượng cho ông S. Tuy nhiên, các
con của ông L không đến ký hợp đồng và phát sinh tranh chấp. Vì vậy, trong vụ
án này ông D1 có yêu cầu độc lập là yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Phú Riềng
giải quyết:
Công nhận hợp đồng sang nhượng giữa ông D1 với ông Võ Văn L theo
“Giấy sang nhượng đất ngày…..tháng 3 năm 2003” đối với diện tích đất 18.908,6
m² đất tọa lạc tại: thôn F, xã L, huyện P, tỉnh Bình Phước có hiệu lực vì ông D1
đã giao đủ tiền (41.000.000 đồng) cho ông L và ông L đã giao đất cho ông D1 sử
dụng đến năm 2005 thì ông D1 chuyển nhượng cho anh trai là Vương Ngọc Bửu
S; ông S sử dụng ổn định từ đó cho đó đến nay không tranh chấp với ai. Đối với
các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì ông D1 đồng ý.
Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa người có quyền lợi và nghĩa vụ
liên quan bà Nguyễn Thị T1 trình bày:
Bà là vợ của ông S việc sang nhượng đất của ông D1 là một mình ông S
quyết định cũng như số tiền ông S dùng mua đất là tài sản riêng của ông S không
liên quan đến bà. Vì vậy, bà từ chối tham gia tố tụng trong suốt quá trình giải
quyết vụ án và xin được vắng mặt trong quá trình giải quyết mọi việc do ông S
quyết định.
Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền
của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Thị H, bà Võ Thị H1 và ông Võ
Minh H2 là ông Võ Văn L trình bày:
Bà Thị H, bà Võ Thị H1 và ông Võ Minh H2 thống nhất với lời trình bày
ông L. Nay trước yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan ông Vương Ngọc Thanh D1, bà Thị H, bà Võ Thị H1 và ông
Võ Minh H2 hoàn toàn đồng ý với ý kiến của ông L và cũng không có yêu cầu
độc lập.
Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa người làm chứng ông Điểu S1
trình bày:
Ông Điều S2 là trưởng thôn 6, xã L, huyện P, tỉnh Bình Phước từ khi thành
lập xã L cho đến năm 2015 thì nghỉ không làm nữa. Vào khoảng năm 2003 ông
D1 có nhận chuyển nhượng đất của ông L thửa đất hiện nay đang tranh chấp với
7
ông S2 thì có nhờ ông Điều S2 xác nhận của đại diện Ban thôn 6 vào “Giấy sang
nhượng đất ngày…. Tháng 3 năm 2003” do ông Vương Ngọc Bửu S là người viết
sau đó bên mua và bên bán ký tên cũng như ông Điểu S1 là người đại diện Ban
thôn ký xác nhận. Ông L bán cho ông D1 thửa đất trên với giá là 35.000.000
đồng, ông D1 giao cho ông L đủ số tiền trên trước mặt ông Điểu S1. Sau này ông
L lấy sổ đất ở Ngân hàng về thì phát hiện phần diện tích bán cho ông D1 là dư
0,2ha nên ông L yêu cầu ông D1 phải trả thêm cho ông L là 6.000.000 đồng nữa
nên các bên có lập “Giấy thỏa thuận ngày 17/8/2004” ông Điểu S1 cũng ký tên
xác nhận. Số tiền 6.000.000 đồng này ông D1 trả làm 02 lần, lần đầu trả
2.000.000 đồng, lần sau trả 4.000.000 đồng, tổng cộng giá trị thửa đất ông D1
mua của ông L là 41.000.000 đồng nên ông L khai “Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ngày 17/8/2004” ông L bán cho ông D1 giá là 99.000.000
đồng là không đúng vì tất cả những lần mua bán và thỏa thuận lại với nhau đều
lập biên bản và thỏa thuận tại nhà ông L và có ông Điểu S1 đại diện của ban thôn
F ký xác nhận. Việc ông L cho rằng ông D1 bán lại thửa đất trên cho ông S1 vào
năm 2005 ông L không biết là không đúng vì ông Điểu S1 sinh sống và ở gần nhà
ông L và ông S1 nên ông Đ S1 biết việc trước giờ ông L và gia đình vẫn sinh
sống và cư trú gần phần diện tích đất ông L chuyển nhượng cho ông D1 và khi
ông D1 chuyển nhượng lại cho ông S1 thì có lên trình báo miệng với ông Đ S1 và
thông báo cho ông L biết sự việc trên nên ông L khai là không đúng.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 16/2025/DS-ST ngày 13 tháng 5 năm 2025
của Toà án nhân dân huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước (cũ) và Quyết định sửa
đổi, bổ sung Bản án số 02/2025/QĐ-SCBSBA ngày 05/9/2025 của Tòa án nhân
dân khu vực 11 - Đồng Nai, quyết định:
Đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông
Vương Ngọc Bửu S về việc công nhận hợp đồng sang nhượng giữa ông Bửu S
với ông L đối với diện tích đất 17.000m² mà ông S nhận sang nhượng của ông D1
(có sự đồng ý của ông L); kiến nghị cơ quan có thẩm quyền thu hồi giấy chuyển
nhượng quyền sử dụng đất cấp cho hộ ông Võ Văn L (giấy chuyển nhượng quyền
sử dụng đất đo chính quy); công nhận phần diện tích đất mà ông S khai hoang,
mở rộng và sử dụng ổn định khoảng 2.000m² là tài sản thuộc quyền quản lý của
ông S; kiến nghị cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chuyển nhượng quyền sử dụng
đất cho ông S đối với phần diện tích đất này.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Vương Ngọc Bửu S.
Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Vương
Ngọc Thanh D1 và ông Võ Văn L theo “Giấy chuyển nhượng đất ngày…..tháng
3 năm 2003” là có hiệu lực.
8
Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Vương
Ngọc Bửu S và ông Vương Ngọc Thanh D1 theo “Giấy chuyển nhượng đất ngày
01/11/2005” là có hiệu lực.
Công nhận thửa đất số 73, tờ bản đồ số 51, thửa đất có diện tích
18.908,6m
2
đất đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DA 621152; vào sổ
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH 02300/CQ -LP/UB do Uy ban
nhân dân huyện P, tỉnh Bình Phước cấp ngày 07 tháng 5 năm 2021 cấp cho ông
Võ Văn L và bà Thị H là quyền sử dụng đất hợp pháp của ông Vương Ngọc Bửu
S.
Ông Vương Ngọc Bửu S được quyền sử dụng thửa đất số 73, tờ bản đồ số
51 đất có diện tích đất 18.908,6m
2
đất tọa lạc tại: Thôn F, xã L, huyện P, tỉnh
Bình Phước.
Đất có tứ cận: phía Đông giáp đất ông M, phía Tây giáp đất ông Điểu L2,
phía Nam giáp đất ông K và suối, phía Bắc giáp đường nhựa
Diện tích đất này đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuộc
thửa đất số 73, tờ bản đồ số 51 đất đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
DA 621152; vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH 02300/CQ -
LP/UB do Ủy ban nhân dân huyện P, tỉnh Bình Phước cấp ngày 07 tháng 5 năm
2021 cấp cho ông Võ Văn L và bà Thị H.
Ông Vương Ngọc Bửu S có quyền và nghĩa vụ liên hệ với cơ quan nhà
nước có thẩm quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện
tích đất trên theo quy định của pháp luật.
Kiến nghị Ủy ban nhân dân huyện P, tỉnh Bình Phước thu hồi giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số DA 621152; vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số CH 02300/CQ -LP/UB do Ủy ban nhân dân huyện P cấp ngày 07
tháng 5 năm 2021 cấp cho ông Võ Văn L và bà Thị H.
Chấp nhận yêu cầu của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu
cầu độc lập ông Vương Ngọc Thanh D1.
Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Vương
Ngọc Thanh D1 và ông Võ Văn L theo “Giấy chuyển nhượng đất ngày…tháng 3
năm 2003” là có hiệu lực.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên nghĩa vụ chịu án phí, nghĩa vụ thi hành án,
quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 19/5/2025, bị đơn ông Võ Văn L kháng cáo Bản án sơ thẩm với nội
dung đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét sửa Bản án sơ thẩm theo hướng
không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Nguyên đơn ông Bửu S, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông D1
giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu độc lập.
9
- Bị đơn ông L đề nghị Hội đồng xét xử trưng cầu giám định chữ ký, chữ
viết họ tên của ông D1 trên bản Hợp đồng chuyển nhượng đất lập lúc 17 giờ 30
phút ngày 17/8/2004 mà bị đơn ông L đã lập; tuyên chấp nhận kháng cáo của bị
đơn, sửa Bản án dân sự sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn.
- Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai:
Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử:
Kể từ ngày thụ lý vụ án và tại phiên tòa Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử
tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung giải quyết vụ án: đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận
kháng cáo và yêu cầu giám định của bị đơn ông L; áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ
luật tố tụng dân sự, giữ nguyên Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Phú
Riềng (nay là Tòa án nhân dân khu vực 11 - Đồng Nai).
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, căn cứ
vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thấy rằng:
Về tố tụng:
[1] Đơn kháng cáo của ông Võ Văn L làm trong thời hạn luật định, hình
thức và nội dung phù hợp các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 nên
cần xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
Về nội dung tranh chấp:
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm: nguyên đơn ông Vương Ngọc Bửu S, bị đơn
ông Võ Văn L và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Vương Ngọc Thanh
D1 thừa nhận: vợ chồng ông L bà Thị H có 02 phần đất được phân cách bởi 01
con đường đất nằm giữa, tọa lạc tại thôn T, xã L, huyện P, tỉnh Bình Phước (cũ),
cả hai phần đất này được cấp chung lần đầu trong Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số LT.85/QSDĐ do Ủy ban nhân dân huyện P (cũ) cấp ngày 26/5/1999
cho hộ ông L-bà H (BL 09). Vào ngày 16/3/2003, ông D1, ông S và ông L có lập
“Biên nhận tiền mua bán đất” với nội dung cơ bản: tại nhà ông L, ông D1 có đặt
cọc cho ông L số tiền 1.000.000 đồng để nhận sang nhượng của ông L diện tích
1,5ha đất từ mặt đường xuống đến lề Suối với giá 38.000.000 đồng. Ông Bửu S,
ông L, ông Thanh D1 và ông Điểu S1 xác nhận: vào một ngày không nhớ rõ của
tháng 3 năm 2003, tại nhà ông Điểu S1 thì ông L, ông D1 với sự làm chứng của
ông Điểu S1 cùng nhau lập Giấy chuyển nhượng đất không đề ngày có nội dung:
“Tôi tên là Võ Văn L…. tôi có một phần đất trồng mì với diện tích là gồm 02
phần….vợ chồng tôi tên Võ Văn L và Thị H có chuyển nhượng cho anh D1 phần
đất mé phía dưới đường xuống suối gồm 7 sào đất và 8 sào bưng (1 mẫu rưỡi)
10
giáp với đất bà B và anh M, phía bên kia giáp với anh Chạt L3. Tôi nhượng
miếng đất này cho anh Vương Ngọc Thanh D1 với giá là ba mươi lăm triệu
đồng….Tôi đã nhận đủ số tiền trên trước mặt anh Điểu S1 là thôn trưởng thôn Tà
C. Vì miếng đất này nằm chung một sổ quyền sử dụng đất nên khi chuyển nhượng
chúng tôi thỏa thuận và đồng ý với nhau: sau này có dịp làm sổ lại chúng tôi sẽ
tách riêng ra cho mỗi người vì thời gian đổi sổ mới cũng gần tới đợt cho thuận
tiện… Từ nay anh Vương Ngọc Thanh D1 sẽ là chủ sở hữu miếng đất kể trên”
(BL 05). Ngay khi ông D1 thanh toán tiền thì ông L bà H cũng giao đất có
khoảng 90 cây Điều 03 năm tuổi trên đất cho ông D1 quản lý, sử dụng. Vào ngày
17/8/2004, ông L và ông D1 với sự làm chứng của ông Điểu S1 tiếp tục lập Giấy
thỏa thuận với nội dung cơ bản: trước đây vào tháng 3 năm 2003 ông L có
chuyển nhượng cho ông D1 mảnh đất liền kề ông Điểu L1 (hay còn gọi: Chạt
Lây), số sổ đỏ 0069676 cấp ngày 26/5/1999 với giá 35.000.000 đồng, “số tiền
này ông L đã nhận đủ”. Vì lý do khi thỏa thuận mua bán đất thì sổ đỏ đang thế
chấp tại ngân hàng nên không biết diện tích chính xác, chỉ xác định diện tích
chuyển nhượng tính từ mặt đường trở xuống suối khoảng 1,5ha với giá
35.000.000 đồng. Sau đó một thời gian ông L thông báo phần đất chuyển nhượng
cho ông D1 dư 0,2ha so với sổ nên ông L yêu cầu ông D1 trả thêm tiền cho 0,2ha
dư với số tiền 6.000.000 đồng, ông D1 trả trước ông L 02 triệu và thỏa thuận số
tiền 04 triệu còn lại ông D1 sẽ trả dứt điểm khi đã tách sổ được cho ông D1 (BL
62-63). Cũng trong ngày 17/8/2004, tại nhà ông L: ông S1, ông L bà H, ông D1
có sự làm chứng của ông Điểu S1 đã lập biên nhận với nội dung: “Tôi Vương
Ngọc Bửu S cùng tiến hành ký tên và giao nhận số tiền còn nợ lại anh L là
4.000.000 đồng (bốn triệu đồng). Như vậy, tổng số tiền cho mảnh đất này theo sổ
là 0,927ha và phần dưới là bưng bằng tổng số tiền là 41.000.000 đồng (bốn mươi
mốt triệu đồng)” (BL 63). Sau khi nhận đất, năm 2004 ông D1, ông S đã chặt bỏ
số cây Điều có trên đất, ông S tiến hành trồng cây Cao su và xây nhà ở trên đất.
Vào ngày 01/11/2005, ông D1, ông S lập Giấy sang nhượng đất có nội dung: “Tôi
tên Vương Ngọc Thanh D1, sinh năm 1972…. Nguyên tôi có phần đất lộ dưới
đường thôn F (nhà văn hóa thôn) của anh Võ Văn L đứng tên trong quyền sở hữu
đất số LT.85/QSDĐ với diện tích lô phía dưới đường nầy là 0,7 hécta (7sào) và
08 sào bưng trũng ngập nước, tôi đã mua lại của anh Võ Văn L vào tháng 3 năm
2003. Nay tôi thấy anh Vương Ngọc Bửu S là anh ruột tôi, sinh năm 1968, có gia
đình vợ và 01 con không có đất đai cất nhà cửa trồng trọt nuôi con, nên tôi bằng
lòng giao hẳn phần đất lô dưới đường nầy với diện tích chung là 1 hecta 500
(gồm 8 sào bưng và 7 sào đất) cho anh tôi trồng trọt nuôi sống gia đình. Kể từ
nay anh sẽ là sở hữu chủ miếng đất nầy.” (BL 11). Những tình tiết, sự kiện trên
được các bên thừa nhận nên được coi là những tình tiết không phải chứng minh
theo quy định tại Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
11
[3] Xét yêu cầu khởi kiện của ông S, yêu cầu độc lập của ông Thanh D1 và
kháng cáo của ông L:
[4] Nguyên đơn ông S, người đại diện theo ủy quyền của ông S và người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Thanh D1 cho rằng: lúc đầu hai bên thỏa
thuận giá chuyển nhượng là 38.000.000đồng nên vào ngày 16/3/2003, ông D1,
ông S và ông L có lập “Biên nhận tiền mua bán đất” với nội dung ông D1 đặt cọc
cho ông L số tiền 1.000.000 đồng. Sau đó, do ông L đồng ý nếu ông D1 có tiền
trả một lần thì ông L giảm xuống còn 35.000.000 đồng nên cũng trong tháng
3/2003, không nhớ ngày ông D1 đã mang đủ tiền trả cho ông L tại nhà ông Điểu
S1 nên hai bên mới lập Giấy chuyển nhượng đất không đề ngày nhưng có ghi là
tháng 3 năm 2003 (BL 05). Ngay khi ông D1 thanh toán tiền thì ông L bà H cũng
giao đất cho ông D1. Sau khi viết giấy này một thời gian, ông L nói diện tích thực
tế nhiều hơn số 1,5ha (khoảng 0,2ha) nên yêu cầu ông D1 phải trả thêm 6.000.000
đồng cho 0,2ha dư. Ông D1 đồng ý nên vào ngày 17/8/2004 ông D1 đã trả trước
cho ông lăng 2.000.000đồng, sau đó ông S1 cũng trả nốt cho vợ chồng ông lăng
4.000.000 đồng (lý do ông S1 trả nốt là vì lúc này ông D1 đã cho ông S1 sử dụng
đất, ông S1 đã thông báo cho ông L, được ông L nhất trí sau này làm thủ tục sang
thẳng tên cho ông S1). Vì là anh em ruột nên mặc dù ông D1 đã tặng cho ông S1
từ năm 2004 nhưng để hợp thức hóa việc sử dụng đất của ông S1 thì vào ngày
01/11/2005, ông D1 và ông S1 thống nhất làm giấy tay với nội dung ông D1
chuyển nhượng đất cho ông S1. Do các bên đã thỏa thuận trong giấy sang
nhượng: “sau này có dịp làm sổ lại thì sẽ làm thủ tục tách sổ riêng cho mỗi người
vì thời gian đổi sổ mới cũng gần tới đợt cho thuận tiện” nên vào năm 2021, khi có
chủ trương của địa phương về việc đo đạc cấp đổi sổ đồng loạt cho các hộ dân,
lúc này ông S1 cũng đang là người giữ bản gốc GCNQSDĐ (các bên thường gọi
là sổ đất) mà ông L bà H được cấp năm 1999 nên ông S1 liên hệ với ông L để
phối hợp làm thủ tục đổi sổ đồng thời ông S1 trực tiếp liên hệ với cơ quan có
thẩm quyền rồi cùng ông L làm thủ tục cấp đổi sổ. Kết quả, vào ngày 07/5/2021,
hộ ông Võ Văn L - bà Thị H được UBND huyện P, tỉnh Bình Phước cấp đổi thành
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DA 621152, số vào sổ cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số CH 02300/CQ -LP/UB với diện tích 18.908,6m
2
thuộc
thửa đất số 73, tờ bản đồ số 51, đất tọa lạc tại Thôn F, xã L, huyện P, tỉnh Bình
Phước. Tuy nhiên, sau khi các bên đã ký kết Hợp đồng chuyển nhượng theo quy
định của pháp luật (để sang tên cho ông S1) thì phát sinh việc các con ông L nay
đã lớn, phải ký trong hợp đồng, lúc này ông L mới cho rằng các con ông yêu cầu
phải trả thêm tiền mới đồng ý ký dẫn đến việc các bên không làm thủ tục sang tên
được. Nay, ông S1, ông D1 cho rằng các ông đã thanh toán đủ tiền chuyển
nhượng, đã nhận đất sử dụng từ năm 2003 nhưng ông L bà H không thực hiện
làm thủ tục sang tên cho ông S1 theo đúng thỏa thuận là vi phạm nghĩa vụ. Vì
12
vậy, ông S1 khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng giữa
ông S1 và ông D1 lập ngày 01/11/2005, công nhận ông được quyền sử dụng diện
tích đất 18.908,6m
2
được cấp trong GCN của ông L bà H; ông D1 yêu cầu Tòa án
công nhận hợp đồng chuyển nhượng giữa ông và ông L lập tháng 3/2003 (không
ghi ngày).
[5] Bị đơn ông L và người đại diện theo ủy quyền xác nhận quá trình hai
bên tiến hành thỏa thuận việc chuyển nhượng; việc vợ chồng ông L đã nhận số
tiền 41.000.000 đồng; việc bàn giao đất, thời điểm giao đất cho ông D1; việc ông
D1, ông S1 sử dụng đất và việc lập các giấy tờ, biên nhận, hợp đồng thỏa thuận
với các nội dung như đã thể hiện cũng như trình bày của ông S1, ông D1 tại đoạn
[2], đoạn [4] là đúng. Tuy nhiên, tại Tòa ông L cho rằng giá đất hai bên thỏa
thuận là 99.000.000 đồng chứ không phải 35.000.000 đồng (không tính
6.000.000đồng trị giá của 0,2ha tăng thêm sau này), do ông D1 chưa trả hết
58.000.000 đồng còn lại nên gia đình ông không đồng ý ký hợp đồng để sang tên
và không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông S1 cũng như yêu cầu
của ông D1. Để chứng minh cho lời trình bày của mình ông L xuất trình chứng
cứ là bản “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” lập ngày 17/8/2004 có
nội dung giá chuyển nhượng là 99.000.000 đồng, trong hợp đồng này ghi ông D1
còn nợ lại ông L 58.000.000 đồng hẹn đến ngày 25/4/2005 sẽ trả đủ và tại phiên
tòa phúc thẩm ngày 24/9/2025, ông H3 (người đại diện theo ủy quyền của ông L)
cho rằng theo ông H3 khảo sát thì vào năm 2003 giá đất tại khu vực khoảng 40
triệu/ha trong khi giấy sang nhượng chỉ ghi giá 35.000.000 đồng cho hơn 1,5ha là
không đúng.
[6] Xét tính hợp pháp của các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
được thể hiện tại “Giấy chuyển nhượng đất ngày …tháng 3 năm 2003”, giữa ông
L - ông D1 và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng được thể hiện tại “Giấy
chuyển nhượng đất” lập ngày 01/11/2005 giữa ông D1 và ông S1:
[7] Về hình thức của hợp đồng: các hợp đồng này đều được các bên lập
giấy tay và chỉ có Trưởng thôn xác nhận mà không được lập thành văn bản có
công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật là vi phạm quy định tại các
điều 31, 75 Luật đất đai năm 1993 (đối với hợp đồng giữa ông L và ông D1);
Điều 689, Điều 693 của Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 127 Luật đất đai năm
2003 (đối với hợp đồng chuyển nhượng giữa ông D1 và ông S1).
[8] Về nội dung của các hợp đồng trên: việc các bên chuyển nhượng đất
cho nhau là đều trên tinh thần tự nguyện, không ai bị ép buộc, lừa dối, tại thời
điểm ông L chuyển nhượng cho ông D1 thì đất đã được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất nên ông L bà H có quyền chuyển nhượng. Mặc dù, tại thời
điểm ông D1 chuyển nhượng lại cho ông S1, ông D1 chưa được cấp giấy chứng
13
nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, tại phiên tòa các bên đều thừa nhận, năm
2003 ngay khi ông L và ông D1 lập giấy chuyển nhượng đất thì ông L đã bàn
giao đất cho ông D1 và từ năm 2004, ông D1 đã cho ông S1 được chặt bỏ cây
Điều mà ông L bà H trồng trên đất để trồng cây Cao su thay thế, xây nhà ở, canh
tác và sử dụng đất ổn định đến nay.
[9] Để đánh giá về nội dung của hợp đồng chuyển nhượng giữa các bên,
Hội đồng xét xử cần đánh giá về lý do dẫn đến việc ông L bà H không làm thủ
tục sang tên cho ông S1 được và tính hiệu lực của bản hợp đồng lập lúc 17 giờ 30
phút ngày 17/8/2004. Về vấn đề này, bị đơn ông L cho rằng do giá đất thỏa thuận
ban đầu là 99.000.000 đồng chứ không phải 35.000.000 đồng, ông D1 đã thanh
toán 35.000.000 đồng (không tính giá của 0,2ha tăng thêm) nhưng còn nợ
58.000.000 đồng chưa thanh toán; ông D1 ông S1 đã hứa miệng sẽ trả cho số tiền
2.000.000.000 đồng giá trị đất tăng tương ứng với 58.000.000 đồng còn nợ nhưng
sau đó không trả nên các con ông L không ký vào hợp đồng chuyển nhượng. Hội
đồng xét xử xét thấy, lời trình bày và chứng cứ mà ông L xuất trình là mâu thuẫn,
cụ thể:
[10] Thứ nhất, về lý do giá chuyển nhượng 99.000.000 đồng nhưng chỉ ghi
35.000.000 đồng trong giấy sang nhượng lập tháng 3 năm 2003: tại Tòa án cấp sơ
thẩm, ông L cho rằng ghi như vậy là để tránh cho việc phải chịu đóng nhiều tiền
thuế nhưng tại phiên tòa phúc thẩm ông L lại bổ sung thêm lý do ghi như vậy là
để tránh phải chi nhiều phần trăm cho ông Điểu S1 - là thể hiện trình bày không
thống nhất, trong khi ông D1, ông Điểu S1 không thừa nhận việc ông Điểu S1
được chi phần trăm hay hưởng lợi gì từ việc chuyển nhượng này mà chỉ là người
làm chứng với vai trò Trưởng thôn. Bên cạnh đó, Hội đồng xét xử thấy rằng giấy
chuyển nhượng của các bên chỉ là giấy tờ mua bán tay không liên quan đến việc
đóng thuế, ông Điểu S1 cũng không phải là người môi giới cho các bên giao dịch
chuyển nhượng đất và ngoài lời trình bày thì ông L không có chứng cứ chứng
minh việc ghi giá thấp lại để giảm thuế cũng như để tránh việc chi phần trăm cho
ông Điểu S1. Do đó, trình bày của ông L về phần này là thiếu căn cứ.
[11] Thứ hai, tại phiên tòa ông L luôn khẳng định giá chuyển nhượng
99.000.000 đồng là không tính 6.000.000 đồng cho 0,2ha tăng thêm và cho rằng
ông D1 còn nợ 58.000.000 đồng là mâu thuẫn. Bởi, nếu 99.000.000 đồng trừ
35.000.000 đồng đã trả thì số tiền còn nợ phải là 64.000.000 đồng mới đúng. Và,
mâu thuẫn với chính nội dung: “7 sào và tiếp theo là 8 sào cho tới Suối và cộng
thêm 2 sào phát sinh dư thêm với giá là 99.000.000 đồng....ông D1 đã đưa 3 lần
tổng cộng số tiền là 41 triệu...còn nợ lại ông L 58 triệu” thể hiện tại bản hợp
đồng lập lúc 17 giờ 30 phút mà chính ông L cung cấp (BL 58).
14
[12] Thứ ba, tại bản hợp đồng lập lúc 17 giờ 30 phút phần ghi số tiền ông
D1 đã trả, số tiền ông D1 còn nợ có dấu vết bị tẩy xóa, chỉnh sửa; phần ghi số
tiền bằng số và phần ghi số tiền bằng chữ trong ngoặc đơn không phù hợp với
nhau (tiền bằng số bị tẩy xóa thì ghi 41.000.000 đồng, bằng chữ thì ghi Bốn mươi
lăm triệu; số 2.000.000 đồng (ghi bằng số bằng chữ), số 41.000.000 đồng hay số
58.000.000 đồng cũng bị tẩy xóa ghi đè từ con số, chữ khác); phần chữ có nội
dung “Hẹn ngày 25/4/2005 trả đủ” cũng có dấu hiệu được ghi thêm.
[13] Thứ tư, trong khi tất cả các hợp đồng, biên nhận khác với nội dung
thể hiện giá chuyển nhượng 35.000.000 đồng cộng 6.000.000 đồng tiền đất tăng
thêm đều được ông D1, ông S1 và ông L bà H lập tại nhà của Trưởng thôn ông
Điểu S1 và tại nhà ông L bà H có sự chứng kiến, xác nhận của các bên và người
làm chứng của Trưởng thôn ông Điểu S1 thì bản hợp đồng lập lúc 17 giờ 30 phút
ngày 17/8/2004 mà ông L cung cấp lại là bản duy nhất, do chính ông L lập, giữ,
không có xác nhận của người làm chứng và không được ông D1 thừa nhận.
[14] Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành cho các bên đối chất về mâu thuẫn
liên quan đến bản hợp đồng mà ông L cung cấp trên, tại phiên tòa phúc thẩm Hội
đồng xét xử tiếp tục cho các bên đối chất nhưng ông L cũng không chứng minh
được tính khách quan của những mâu thuẫn thể hiện trong bản hợp đồng này như
vừa phân tích. Bên cạnh đó, nếu ông L cho rằng ông D1 chưa trả đủ tiền nhưng
lại bàn giao đất cho ông D1 sử dụng từ năm 2003 và để ông D1, ông S1 thay đổi
cây trồng, đầu tư, xây dựng nhà sinh sống trên đất mà không có ý kiến phản đối
gì trong suốt thời gian dài; tiếp đó vào năm 2021 khi có chủ trương đổi sổ đồng
loạt tại địa phương lại đồng ý cùng ông S1 đi làm thủ tục đổi sổ, tách thửa, thậm
chí ông L bà H đã đồng ý ký vào bản hợp đồng chuyển nhượng cho ông S1. Chỉ
khi phát sinh việc trong hợp đồng cần có chữ ký của những thành viên trong hộ
gia đình là 02 người con của ông L bà H thì ông L mới cho rằng do ông D1 chưa
trả hết tiền chuyển nhượng nên các con ông không đồng ý ký. Dù vậy, trong khi
suốt quá trình tố tụng chị H1, anh H2 (là những người con của ông L bà H) cũng
không có Đơn yêu cầu độc lập để tranh chấp về nội dung này cũng là mâu thuẫn.
Ngoài ra, chính ông Điểu S1 với tư cách Trưởng thôn (cũng là anh ruột của bà
Thị H và là anh vợ của ông L) là người làm chứng lại kiên quyết khẳng định ông
không có mâu thuẫn gì với các bên đương sự, việc các bên thỏa thuận giá chuyển
nhượng là 35.000.000 đồng, sau đó thống nhất ông D1 phải trả thêm 06 triệu
đồng do diện tích tăng thêm cũng như việc ông là người chứng kiến việc giao
nhận số tiền 41.000.000 đồng giữa các bên là sự thật. Điều này chứng minh giá
chuyển nhượng cho toàn bộ diện tích 18.908,6m
2
là 35.000.000 đồng cộng
6.000.000 đồng cho 02 sào tăng thêm, tổng cộng 41.000.000 đồng là sự thật.
Thêm nữa, tại phiên tòa chính ông L cũng thừa nhận ông S1 là người giữ bản gốc
15
GCNQSDĐ ông L bà H được cấp lần đầu năm 1999, ông S1 cũng là người liên
hệ với ông L để cùng phối hợp làm thủ tục đổi sổ mới cho ông L bà H; ông S1
cũng là người giữ bản gốc GCNQSDĐ mới sau khi ông L bà H được cấp đổi năm
2021 đối với diện tích đất mà các bên thỏa thuận chuyển nhượng cho nhau. Điều
này chứng tỏ việc thanh toán, bàn giao đất các bên đã được thực hiện xong và
việc ông D1 chuyển quyền sử dụng đất lại cho ông S1 đã được ông S1 thông báo
và được ông L bà H đồng ý. Như vậy, từ những phân tích trên thấy rằng không có
căn cứ để khẳng định những nội dung thể hiện tại bản hợp đồng lập lúc 17 giờ 30
phút ngày 17/8/2004 đã được ông D1 và ông L thống nhất thỏa thuận.
[15] Xét về yêu cầu trưng cầu giám định chữ ký, chữ viết họ tên ông D1 tại
bản hợp đồng lập lúc 17 giờ 30 phút ngày 17/8/2004 do ông L cung cấp: tại Tòa
án cấp sơ thẩm ông D1 là người đã yêu cầu Tòa trưng cầu giám định đối với chữ
ký và chữ viết họ tên của ông trong bản hợp đồng này. Vào ngày 23/10/2023, Tòa
án cấp sơ thẩm đã ban hành Quyết định Trưng cầu giám định số 08/2023/QĐ-
TCGĐ để trưng cầu Phòng K1 Công an tỉnh B (cũ) giám định. Ngày 25/10/2023,
Phòng K1 Công an tỉnh B đã có văn bản số 189/PC09 có nội dung từ chối giám
định do chưa đủ mẫu để giám định. Sau khi có văn bản này tại các Biên bản lấy
lời khai ngày 15/11/2023 cả ông D1 và ông L đều trình bày ý kiến không yêu cầu
Tòa tiếp tục trưng cầu giám định. Nhưng, tại phiên tòa phúc thẩm, ông L lại yêu
cầu Tòa trưng cầu giám định. Hội đồng xét xử thấy rằng, việc giám định cần có
thêm chữ ký, chữ viết mà ông D1 thực hiện trước, trong và sau thời điểm các bên
lập hợp đồng ngày 17/8/2004 để làm mẫu so sánh, nhưng ông D1 đã khẳng định
ngoài những văn bản mà Tòa án cấp sơ thẩm đã làm mẫu trưng cầu thì ông không
có tài liệu, chứng cứ khác để làm mẫu so sánh. Vì vậy, Hội đồng xét xử thấy rằng
có trưng cầu thì việc giám định cũng không thể thực hiện được. Và trên hết, Hội
đồng xét xử còn thấy rằng trường hợp có căn cứ xác định chữ ký và chữ viết họ
tên của ông D1 trong bản hợp đồng chuyển nhượng này đúng là chữ ký, chữ viết
của ông D1 thì cũng không đủ căn cứ khẳng định giá hợp đồng chuyển nhượng là
99.000.000 đồng, hiện ông D1 còn chưa thanh toán 58.000.000 đồng như ông L
và người đại diện theo ủy quyền của ông trình bày do hợp đồng này có rất nhiều
mâu thuẫn như đã phân tích ở các phần trên. Do đó, việc trưng cầu giám định
trong trường hợp này chỉ làm tốn chi phí của đương sự và kéo dài thời gian giải
quyết vụ án không cần thiết, Hội đồng xét xử không chấp nhận đề nghị trưng cầu
giám định của ông L.
[16] Từ những phân tích trên, có căn cứ khẳng định trình bày của ông S1,
ông D1 là có căn cứ; việc phía bị đơn cho rằng giá chuyển nhượng đất là
99.000.000 đồng và ông D1 còn nợ 58.000.000 đồng là không có căn cứ. Đồng
thời, xét mặt dù các hợp đồng chuyển nhượng giữa ông L và ông D1, giữa ông
16
D1 và ông S1 không đúng pháp luật về mặt hình thức nhưng nội dung của hợp
đồng là không trái quy định của pháp luật, các bên đã thực hiện việc thanh toán
100% giá trị hợp đồng, đã bàn giao tài sản, bên nhận chuyển nhượng đã sử dụng
trong thời gian dài. Vì thế, yêu cầu khởi kiện, yêu cầu độc lập của ông S1, ông
D1 được chấp nhận. Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên cần áp
dụng quy định tại mục 2 phần II của Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày
10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng
pháp luật trong việc giải quyết vụ án dân sự, hôn nhân gia đình chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của ông S1 và yêu cầu độc lập của ông D1.
[17] Tòa án cấp sơ thẩm công nhận hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng
giữa ông L và ông D1, giữa ông D1 và ông S1 và công nhận cho ông S1 được
quyền sử dụng diện tích đất 18.908,6m
2
tranh chấp là phù hợp. Tuy nhiên, về
phần tuyên nghĩa vụ liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền làm thủ tục
đăng ký kê khai cấp quyền sử dụng đất hoặc điều chỉnh biến động tại trang 3,
trang 4 của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông L, bà H sang tên
cho ông S1 thì không chỉ ông S1 mà ông L, bà H cũng phải có quyền và nghĩa vụ
thực hiện việc này. Nhưng, Tòa án cấp sơ thẩm chỉ tuyên ông S1 có quyền và
nghĩa vụ liên hệ là chưa đầy đủ. Bên cạnh đó, Hội đồng xét xử cũng thấy rằng
những nội dung tại phần Quyết định của Bản án sơ thẩm Tòa án cấp sơ thẩm xắp
xếp chưa khoa học nên cần điều chỉnh lại cách tuyên cho đầy đủ, logic. Như vậy,
kháng cáo của ông L không được chấp nhận.
[18] Đối với việc ông S1, ông D1 cho rằng thực chất ông D1 tặng cho ông
S1 diện tích đất trên nhưng hai bên làm thành giấy chuyển nhượng: xét hai đương
sự này không tranh chấp với nhau về giao dịch mà các bên đã thực hiện và đồng
ý việc ông D1 chuyển giao quyền sử dụng đất cho ông S1 nên Hội đồng xét xử
không xem xét, giải quyết về giao dịch thực chất này của ông D1, ông S1.
[19] Về tài sản trên đất các đương sự không tranh chấp, không yêu cầu Tòa
án xem xét giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Về việc nguyên đơn
rút một phần yêu cầu khởi kiện, Tòa án cấp sơ thẩm đã đình chỉ giải quyết là có
căn cứ cần giữ nguyên bản án sơ thẩm về phần này.
[20] Về chi phí tố tụng và án phí dân sự sơ thẩm: giữ nguyên quyết định
của bản án sơ thẩm.
[21] Án phí dân sự phúc thẩm: do kháng cáo của ông L không được chấp
nhận nên ông L phải chịu theo quy định của pháp luật.
[22] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa có căn cứ nên
được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
17
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Võ Văn L;
Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 16/2025/DS-ST ngày 13/5/2025 của
Tòa án nhân dân huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước, nay là Tòa án nhân dân khu
vực 11 - Đồng Nai (kèm theo Quyết định sửa đổi, bổ sung Bản án số
02/2025/QĐ-SCBSBA ngày 05/9/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 11 - Đồng
Nai).
Căn cứ khoản 3 Điều 26; các điều 31, 75 Luật đất đai năm 1993; các điều
705, 707, 708, 711 Bộ luật dân sự năm 1995; Điều 127 Luật đất đai năm 2003;
các điều 689, 693, 697; 698; 699 và 702 của Bộ luật dân sự năm 2005; các Điều
167; 188 và 179 Luật đất đai năm 2013; các điều 26, 27, 29 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án,
Tuyên xử:
Đình chỉ giải quyết vụ án đối với các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
ông Vương Ngọc Bửu S do ông S rút yêu cầu khởi kiện về việc: yêu cầu Tòa
công nhận hợp đồng sang nhượng giữa ông Bửu S với ông L đối với diện tích đất
17.000m² mà ông S nhận sang nhượng của ông D1 (có sự đồng ý của ông L);
kiến nghị cơ quan có thẩm quyền thu hồi giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất
cấp cho hộ ông Võ Văn L (giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất đo chính quy);
công nhận phần diện tích đất mà ông S khai hoang, mở rộng và sử dụng ổn định
khoảng 2.000m² là tài sản thuộc quyền quản lý của ông S; kiến nghị cơ quan có
thẩm quyền cấp giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông S đối với phần
diện tích đất này.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là ông Vương Ngọc Bửu S
và yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Vương
Ngọc Thanh D1;
Công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Vương
Ngọc Thanh D1 và ông Võ Văn L theo “Giấy chuyển nhượng đất ngày…..tháng
3 năm 2003” là có hiệu lực;
Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Vương
Ngọc Bửu S và ông Vương Ngọc Thanh D1 theo “Giấy chuyển nhượng đất ngày
01/11/2005” là có hiệu lực;
Công nhận diện tích đất 18.908,6m
2
tọa lạc tại thôn F, xã L, huyện P, tỉnh
Bình Phước (nay là thôn F, xã L, tỉnh Đồng Nai) thuộc thửa đất số 73, tờ bản đồ
số 51 đã được Ủy ban nhân dân huyện P, tỉnh Bình Phước (cũ) cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số DA 621152, số vào sổ cấp giấy chứng nhận: CH
18
02300/CQ -LP/UB cấp cho hộ ông Võ Văn L và bà Thị H vào ngày 07 tháng 5
năm 2021 là thuộc quyền sử dụng đất hợp pháp của ông Vương Ngọc Bửu S.
Ông Vương Ngọc Bửu S được quyền sử dụng thửa đất trên, đất có tứ cận:
Phía Đông giáp đất ông M; phía Tây giáp đất ông Điểu L1; phía Nam giáp đất
ông K và suối; phía Bắc giáp đường nhựa.
Ông Vương Ngọc Bửu S, ông Võ Văn L, bà Thị H có quyền và nghĩa vụ
liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để được đăng ký, kê khai, sang tên
người sử dụng trên Giấy chứng nhận quyền dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản
gắn liền với đất theo quy định của pháp luật đối với diện tích đất cho ông Vương
Ngọc Bửu S, theo quyết định tại Bản án này.
Kiến nghị UBND xã L, tỉnh Đồng Nai thu hồi giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số DA 621152; vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH
02300/CQ -LP/UB do Ủy ban nhân dân huyện P, tỉnh Bình Phước (cũ) cấp ngày
07 tháng 5 năm 2021 cấp cho ông Võ Văn L và bà Thị H để điều chỉnh sang tên
cho ông Vương Ngọc Bửu S đối với diện tích 18.908,6m
2
thuộc thửa đất số 73, tờ
bản đồ số 51 đã cấp trong giấy chứng nhận này.
Chi phí tố tụng: nguyên đơn ông Vương Ngọc Bửu S tự nguyện chịu,
không yêu cầu xem xét nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Án phí dân sự sơ thẩm: bị đơn ông Võ Văn L phải chịu 600.000 (sáu trăm
nghìn) đồng; nguyên đơn ông Vương Ngọc Bửu S và người có quyền lợi và nghĩa
vụ liên quan có yêu cầu độc lập ông Vương Ngọc Thanh D1 không phải chịu.
Phòng Thi hành án dân sự khu vực 11 – Đồng Nai hoàn trả cho nguyên
đơn ông Vương Ngọc Bửu S số tiền 900.000 (chín trăm nghìn) đồng tạm ứng án
phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0011433 ngày 27/9/2024 và số tiền 2.800.000
(Hai triệu tám trăm nghìn) đồng đã nộp theo biên lai thu tiền số 0015946 ngày
25/11/2022 và hoàn trả cho người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu
độc lập ông Vương Ngọc Thanh D1 số tiền 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tạm
ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0011626 ngày 24/12/2024 của Chi cục
Thi hành án dân sự huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước (nay là Phòng Thi hành án
dân sự khu vực 11 – Đồng Nai).
Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Võ Văn L phải chịu 300.000 (Ba trăm
nghìn) đồng được trừ vào số tiền 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tạm ứng đã nộp
theo Biên lai thu tạm ứng án phí lệ phí Tòa án số 0011899 ngày 25/6/2025 của
Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước (nay là Phòng Thi
hành án dân sự khu vực 11 – Đồng Nai).
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Đồng Nai;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
19
- Cục THADS tỉnh Đồng Nai;
- TAND khu vực 11 - Đồng Nai;
- Các đương sự;
- Lưu: HSVA, Tổ HCTP, Tòa DS.
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đinh Thị Quý Chi
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 13/10/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 11/10/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 28/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 26/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 23/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 22/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 21/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 20/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 19/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 19/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 18/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 18/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 18/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 17/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 17/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 17/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm