Bản án số 524/2025/DS-PT ngày 20/09/2025 của TAND tỉnh Đồng Nai về tranh chấp hợp đồng hợp tác

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 524/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 524/2025/DS-PT ngày 20/09/2025 của TAND tỉnh Đồng Nai về tranh chấp hợp đồng hợp tác
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng hợp tác
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đồng Nai
Số hiệu: 524/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 20/09/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Hoàn góp vốn cho Loan
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐỒNG NAI
Bản án số: 524/2025/DS-PT
Ngày 20 9 2025
V/v tranh chấp hợp đồng hợp
tác góp vốn mua đất đòi
tiền góp đóng lãi ngân hàng
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Đinh Thị Quý Chi
Các Thẩm phán: Ông Trần Văn Nhum
Ông Lê Viết Phong
Thư phiên tòa: Ông Trần Minh - Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Đồng Nai
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tham gia phiên tòa:
Ông Nguyễn Thanh Mến - Kiểm sát viên
Trong ngày 20 tháng 9 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng
Nai sở 2 t xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số
285/2025/TLPT-DS ngày 11 tháng 7 năm 2025 về việc "Tranh chấp hợp đồng
hợp tác góp vốn mua đất đòi tiền góp đóng lãi ngân hàng". Do Bản án dân
sự thẩm số 14/2025/DS-ST ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Tòa án nhân dân
thành phố Đ, tỉnh Bình Phước (Nay là Toà án nhân dân khu vực A - Đồng Nai)
bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 375/2025/QĐPT-DS
ngày 11 tháng 8 năm 2025, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Trần Thị Mỹ H, sinh năm 1996; trú tại: Khu phố P,
phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước (Nay khu phố P, phường B, tỉnh
Đồng Nai). Có mặt
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Dương Vĩnh T, sinh
năm 1971; trú tại: Khu phố T, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước
(Nay là khu phố T, phường B, tỉnh Đồng Nai). Có mặt
Bị đơn: Nguyễn Thị Mộng L, sinh năm 1973; Cư trú tại : Ấp B, xã T,
thành phố Đ, tỉnh Bình Phước (Nay là phường Đ, tỉnh Đồng Nai). Vắng mặt
Người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn: Ông Hoàng Xuân L1, sinh
năm; trú tại: Khu K, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước (Nay
phường Đ, tỉnh Đồng Nai). Vắng mặt
2
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Nguyễn Thị Hồ Thu H1, sinh năm 1978; trú tại: Ấp D, T,
thành phố Đ, tỉnh Bình Phước (Nay là phường Đ, tỉnh Đồng Nai). đơn xin
xét xử vắng mặt
- Ông Nguyễn Đình P, sinh năm 1964; trú tại: Ấp C, xã T, thành phố
Đ, tỉnh Bình Phước (Nay là phường Đ, tỉnh Đồng Nai). Có đơn xin xét xử vắng
mặt
- Đào Thị L2, sinh năm 1970; trú tại: Khu phố A, phường T,
thành phố Đ, tỉnh Bình Phước (Nay là phường Đ, tỉnh Đồng Nai). đơn xin
xét xử vắng mặt
- Nguyễn Thị Kim T1, sinh năm 1978; ttại: Ấp B, T, thành
phố Đ, tỉnh Bình Phước (Nay là phường Đ, tỉnh Đồng Nai). Vắng mặt
Người kháng cáo: Nguyên đơn Trần Thị Mỹ H, bị đơn Nguyễn
Thị Mộng L.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa
nguyên đơn Trần Thị Mỹ H, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn
ông Dương Vĩnh T trình bày: Do quen biết, bà H được bà Nguyễn Thị Mộng L
kêu gọi góp tiền mua chung đất với L. L nói với H: L với
Nguyễn Thị Kim T1 (tên thường gọi là T2, em ruột bà L) cùng mua của ông
Nguyễn Đình P và bà Đào Thị L2 (ông P, bà Len cư T3 xã T, thành phố Đ, tỉnh
Bình Phước) một thửa đất có diện tích 854,3m2 tọa lạc tại phường T, thành ph
Đ, tỉnh Bình Phước, theo Giấy chứng nhận quyền sdụng đất số AD392473,
vào số cấp GCN số H0018/QSDĐ/89/QĐ-UB, thửa đất số 413 (thửa mới số
60), tờ bản đồ số 19 (tờ bản đồ mới số 21) do Ủy ban nhân dân thị Đ cấp
ngày 04/01/2005; cập nhật biến động ngày 13 tháng 12 năm 2010; Chi nhánh
Văn phòng đăng đất đai thành phố Đ điều chỉnh biến động, công nhận
quyền sử dụng cho ông Nguyễn Đình P Đào Thị L2 ngày 10 tháng 9 năm
2021.
L nói H góp số tiền 2.000.000.000 (hai tỷ) đồng nhưng hiện bà
chỉ 1.700.000.000 (một tbảy trăm triệu) đồng nên yêu cầu H góp
300.000.000 (ba trăm triệu) đồng đcùng nhận chuyển nhượng thửa đất nói
trên. Việc góp tiền giữa H với L được lập thành văn bản vào ngày
12/01/2023. H đã đưa cho bà L số tiền 300.000.000 (ba trăm triệu) đồng
theo nội dung được ghi trong Văn bản thỏa thuận góp vốn ngày 12/01/2023.
Sau đó, bà L cho H biết bà Kim T1 (T2) đã đem Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cầm cho bà N (không biết họ, địa chỉ trú của N) với số tiền
1.100.000.00(một tỷ một trăm triệu đồng) L nói bà phải vay tiền của
người khác để chuộc. Từ đó, L yêu cầu H phải góp thêm tiền để trả tiền
lãi trên số tiền L (nói) đã vay của người khác để chuộc Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, thì mới để H cùng đứng chung tên trên giấy chứng
3
nhận quyền sdụng. H đã đưa thêm cho L số tiền khoảng 50.000.000
(năm mươi triệu) đồng để trả lãi. Cụ thể:
- Ngày 10/4/2023, H trực tiếp đến ngân hàng N1 chi nhánh B, nộp số
tiền 34.989.041đồng để trả tiền lãi cho các tháng 01,02,03,04/2023 trên số tiền
gốc là 1.100.000.000đ (một tỷ một trăm triệu đồng). Trong số tiền này, L
góp 02 phần; H góp 01 phần tương ứng 11.663.000 (mười một triệu sáu
trăm sáu mươi ba nghìn) đồng;
- Ngày 12/5/2023, H trực tiếp đến ngân hàng N1 chi nhánh B, nộp số
tiền 11.482.192đ để trả tiền lãi cho tháng 5 trên số tiền gốc 1.100.000.000đ
(một tỷ một trăm triệu đồng). Trong số tiền này, L góp 02 phần; H góp
01 phần tương ứng 3.827.000 (ba triệu tám trăm hai mươi bảy nghìn) đồng;
- Ngày 12/6/2023, H trực tiếp đến ngân hàng N1 chi nhánh B, nộp số
tiền 11.458.082đồng để trả tiền lãi cho tháng 6 trên số tiền gốc
1.100.000.00(một tmột trăm triệu đồng). Trong số tiền này, bà L góp 02
phần; H góp 01 phần tương ứng 3.820.000 (ba triệu tám trăm hai mươi
nghìn) đồng;
- Ngày 13/7/2023, H trực tiếp đến ngân hàng N1 chi nhánh B, nộp số
tiền 11.030.137đồng để trả tiền lãi cho tháng 7 trên số tiền gốc
1.100.000.00(một tmột trăm triệu đồng). Trong số tiền này, bà L góp 02
phần; H góp 01 phần tương ứng 3.676.000 (ba triệu sáu trăm bảy mươi sáu
nghìn) đồng;
- Ngày 16/8/2023, H trực tiếp đến ngân hàng N1 chi nhánh B, nộp số
tiền 11.397.808đồng để trả tiền lãi cho tháng 8 trên số tiền gốc
1.100.000.00(một tmột trăm triệu đồng). Trong số tiền này, L góp 02
phần; bà H góp 01 phần tương ứng 3.800.000 (ba triệu tám trăm nghìn) đồng;
- Ngày 12/9/2023, H trực tiếp đến ngân hàng N1 chi nhánh B, nộp số
tiền 11.397.808đồng để trả tiền lãi cho tháng 9 trên số tiền gốc
1.100.000.00(một tmột trăm triệu đồng). Trong số tiền này, bà L góp 02
phần; bà H góp 01 phần tương ứng 3.800.000 (ba triệu tám trăm nghìn) đồng;
- Ngày 13/10/2023, bà H trực tiếp đến ngân hàng N1 chi nhánh B, nộp số
tiền 10.758.904đồng để trả tiền lãi cho tháng 10 trên số tiền gốc
1.100.000.00(một tmột trăm triệu đồng). Trong số tiền này, bà L góp 02
phần; bà H góp 01 phần tương ứng 3.586.000 (ba triệu năm trăm tám mươi sáu
nghìn) đồng;
- Ngày 14/11/2023, bà H trực tiếp đến ngân hàng N1 chi nhánh B, nộp số
tiền 10.276.712đồng để trả tiền lãi cho tháng 10 trên số tiền gốc
1.100.000.00(một tmột trăm triệu đồng). Trong số tiền này, L góp 02
phần; H góp 01 phần tương ứng 3.425.000 (ba triệu bốn trăm hai mươi lăm
nghìn) đồng;
- Ngày 12/12/2023, bà L trực tiếp đến ngân hàng N1 chi nhánh B, nộp số
tiền 9.945.205 đồng để trả tiền lãi cho tháng 12 trên s tiền gốc
4
1.100.000.00 (một tỷ một trăm triệu đồng). Trong số tiền này, H góp
3.000.000 (ba triệu) đồng.
Ngoài ra, H đã phải đưa cho L số tiền 11.700.000 (mười một triệu
bảy trăm nghìn) đồng tiền dịch vụ. Cụ thể L nói tiền dịch vụ 35.000.000đ
(ba mươi lăm triệu) đồng chia làm 3, H chịu 11.700.000 (mười một triệu
bảy trăm nghìn) đồng.
Tổng cộng: 52.297.000 (năm mươi hai triệu hai trăm chín mươi bảy
nghìn) đồng, nhưng bà H chỉ yêu cầu L phải trả 50.000.000 đồng.
Nay bà L đã sang tên quyền sử dụng đất đối với thửa đất nói trên nhưng
không đH được đứng tên chung trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
vậy, H khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết buộc Nguyễn Thị Mộng L
phải trả lại cho hoàn tổng số tiền 350.000.000đ (ba trăm m mươi triệu
đồng).
Bị đơn Nguyễn Thị Mộng L trong quá trình giải quyết vụ án tại
phiên tòa trình bày: L cũng Trần Thị Mỹ H góp tiền mua chung đất;
Lần thứ nhất thành phần góp vốn ba người Nguyễn Thị Kim T1
1.100.000.000 đồng, Trần Thị Mỹ H 300.000.000đồng L
800.000.000đồng. Tổng giá trị thửa đất 2.200.000.000 triệu đồng. Thửa đất này
L với H đã chấp nhận cho T1 ra công chứng đứng tên quyền sở hữu
một mình để lướt đất cho nhanh, sau đó đất bị đóng băng không bán được nên
kinh tế gặp nhiều khó khăn, bà T1 đã cầm cố thửa đất này cho H1 và không
còn khả năng chuộc lại thửa đất. T1 nói thửa đất này L với H
góp vốn 1.100.000.000 đồng thì H1 đã đồng ý điện thoại cho L
với H ra để thỏa thuận nếu đưa cho H1 1.100.000.000đồng thì H1
công chứng lại thửa đất này. Nhưng thời điểm đó L không còn tiền, nên
bàn với H để L cầm cố tài sản sổ đất nhà của L hiện tại đang
1.100.000.000đồng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh N1
để lấy tiền chuộc đất thì H phải phụ đóng lời với L tại ngân hàng chia ra
phần trăm: L 70%, H 30% cho tới thời điểm ra miếng đất này thì L
cho H 15% cổ phần trong thửa đất này. Khi thỏa thuận thì H đồng ý,
sau đó cùng đóng lãi với bà L tại ngân ng nông nghiệp phát triển nông
thôn tỉnh N1.
Ngày 12 tháng 01 năm 2023 L Nguyễn Thị Hồ Thu H1 ra Giao
dịch tại văn phòng công chứng thửa đất này và L đưa cho H1
1.100.000.000đồng, đồng thời sang tên cho L thửa đất này tại phòng
công chứng. Bà L có điện thoại cho bà H ra phòng công chứng để làm bản thỏa
thuận bà H có 15% cổ phần trong thửa đất. Quá trình đóng lãi ngân hàng thì
H người trực tiếp đi đóng 11 tháng (từ tháng 01 đến tháng 11/2023), lãi suất
ngân hàng H đóng giùm cho L 3 tháng thì L đưa cho H
24.000.000đồng, tháng tiếp theo mỗi tháng L đưa H 8.000.000đồng.
H đóng ttháng 01 đến tháng 11 được 11 tháng nhưng không chịu đưa
biên lai cho L; Đến tháng 12/2023 L nói H đưa tiền cho bà L đi đóng
thì H đưa cho 3.000.000đồng, số tiền này L ra ngân hàng đóng trên
5
ngân hàng sao lại những phiếu biên lai H đóng lãi, sau đó L về
chia ra phần trăm cổ phần 70%, H 30% thì số tiền ra của L
1.450.000đồng, bà L nói bà Hoàn T4 lại thì bà H không trả và mấy ngày sau bà
Hoàn T4 lại cho L 1.000.000đồng; qua năm 2024 thì H không phụ đóng
lãi với bà L nữa.
Đối với thửa đất có diện tích 854,3m2 tọa lạc tại phường T, thành phố Đ,
tỉnh Bình Phước, theo Giấy chứng nhận quyền sdụng đất số AD392473, vào
số cấp GCN số H0018/QSDĐ/89/QĐ-UB, thửa đất số 413 (thửa mới số 60), tờ
bản đồ số 19 (tờ bản đồ mới số 21) do Ủy ban nhân dân thị Đ cấp ngày
04/01/2005, ngày 14/5/2024 L được Văn phòng đăng đất đai tỉnh B cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn
liền với đất số VP 06339 tên Nguyễn Thị Mộng L hiện L đang giữ giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất bản chính. Tại đơn khởi kiện H nói đưa cho
L 50.000.000đồng đóng lãi suất ngân hàng 300.000.000đồng mua thửa
đất hoàn toàn không đúng sự thật, L không nhận tiền của bà H, không
đồng ý trả lại số tiền trên cho H. Tại phiên tòa, L chỉ đồng ý khi nào bán
được đất thì sẽ trả lại cho bà H 15% giá trị thửa đất.
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị Hồ Thu H1 trình
bày: H1 mối quan hệ quen biết với Nguyễn Thị Kim T1 Nguyễn Thị
Mộng L không quen biết với Trần Thị Mỹ H. T1 một miếng đất tại
phường T, thành phố Đ, bà T1 nói đất này do T1 chị gái Nguyễn
Thị Mộng L góp tiền mua chung, T1 nói với H1 góp số tiền
1.100.000.000đồng cùng với chị L mua thửa đất trên sau đó chủ đất ông
Nguyễn Đình P Đào Thị L2 làm thủ tục ủy quyền cho H1 được quyền
chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Sau đó một thời gian L gặp bà H1
trao đổi: L nói Trần Thị Mỹ H góp chung 300.000.000đồng cùng
mua đất, L nói sẽ bỏ 1.100.000.000 đồng để mua lại phần bà L đã góp và
H1 sẽ sang sổ đất cho bà L thì H1 đồng ý. L người trực tiếp đưa
1.100.000.000đồng bằng tiền mặt cho H1, khi đưa không viết giấy biên
nhận, H1 đã hợp đồng chuyển nhượng đất cho L. Khi H1 L
thỏa thuận thì sự chứng kiến của Trần Thị Mỹ H, H ngồi nghe
việc thỏa thuận giữa H1 bà L còn việc L bà H thỏa thuận như thế
nào bà H1 không biết, bà H1 đã nhận đủ số tiền bán đất nên không có ý kiến và
yêu cầu gì.
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Đình P Đào
Thị L2 quá trình giải quyết vụ án trình bày như sau: Vợ chồng ông P, bà L2
một miếng đất với kích thước khoảng 11m x 90m tại khu phố C, phường T,
thành phố Đ, tỉnh Bình Phước đã giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vào
năm 2022 ông P, bà L2 có sang nhượng quyền sử dụng đất cho bà L và bà T1
T, hai bên thỏa thuận sang nhượng thực hiện thủ tục sang nhượng quyền sử
dụng đất tại Phòng C ông P, Len Ô đã nhận đủ tiền sang nhượng, bản chính
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã giao cho T1 L các thủ tục còn
lại T1 và L tự làm. Khoảng mấy tháng sau T1 gọi điện thoại nhờ vợ
6
chồng ông P, L2 ra phòng C ký hợp đồng sang nhượng đồng thời làm hợp
đồng thủ tục ủy quyền lại cho một người khác tên là N hoặc H1 cùng ngụ tại T,
hợp đồng ủy quyền có nêu rõ người nhận ủy quyền được quyền chuyển
nhượng, tặng cho, cầm cố. Sau một thời gian L2 nhận được cuộc điện thoại
người của văn phòng C nhưng không ai phòng công chứng nào trao
đổi việc thửa đất vợ chồng ông P, bà L2 đã ủy quyền nay người nhận ủy quyền
mang đi sang nhượng được không thì L2 trả lời đồng ý từ đó đến nay
vợ chồng ông P, L2 không liên lạc với mọi người liên quan đến thửa đất
trên.
Trong quá trình giải quyết vụ án Nguyễn Thị Kim T1 vắng mặt trong
suốt quá trình giải quyết vụ án.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 14/2025/DS-ST ngày 29 tháng 4 năm 2025
của Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Bình Phước (Nay Tòa án nhân dân
khu vực A Đồng Nai) tuyên xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Mỹ H.
Chấm dứt hợp đồng hợp tác theo văn bản thỏa thuận góp vốn ngày 12
tháng 01 năm 2023 giữa bà Nguyễn Thị Mộng L và bà Trần Thị Mỹ H;
Buộc bà Nguyễn Thị Mộng L phải trả lại vốn góp cho Trần Thị Mỹ H
số tiền là 165.000.000 (Một trăm sáu mươi lăm triệu) đồng.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Trần Thị Mỹ H đối với yêu
cầu khởi kiện buộc Nguyễn Thị Mộng L phải trả cho H s tiền
50.000.000 đồng tiền phí và lãi ngân hàng bà H đã đóng tại Ngân hàng.
Ngoài ra, Bản án thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí
quyền kháng cáo.
Ngày 06/5/2025, nguyên đơn Trần Thị Mỹ H đơn kháng cáo bản
án sơ thẩm, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng
chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Ngày 12/5/2025 bị đơn
Nguyễn Thị Mộng L đơn kháng cáo bản án thẩm, đề nghị Hội đồng
xét xử phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận toàn bộ yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo.
- Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai:
Về việc tuân thủ pháp luật tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án của Tòa án
từ khi thụ đến khi xét xử phúc thẩm của Thẩm phán, Thư Tòa án, Hội
đồng xét xcác đương sự đã tuân thủ đúng theo quy định của Bộ luật Tố
tụng dân sự.
Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản
3 Điều 296, Điều 312, khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Đình chỉ
xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị Mộng
7
L; không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Trần Thị Mỹ H. Giữ nguyên
Bản án dân sự sơ thẩm số 14/2025/DS-ST ngày 29/4/2025 của Tòa án nhân dân
thành phố Đ, tỉnh Bình Phước (Nay là Tòa án nhân dân khu vực A Đồng
Nai).
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, căn cứ
vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thấy rằng:
Về tố tụng:
[1] Đơn kháng cáo của nguyên đơn bà Trần Thị Mỹ H, bị đơn bà Nguyễn
Thị Mộng L làm trong thời hạn luật định, hình thức, nội dung phạm vi
kháng cáo phù hợp với quy định tại các Điều 271, 272, 273 của Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015 nên đủ điều kiện được xem xét giải quyết theo trình tự
phúc thẩm.
[2] Về sự vắng mặt của bị đơn L và người đại diện theo uỷ quyền của
bị đơn ông Hoàng Xuân L1: Xét L đã được Toà án triệu tập hợp lệ đến lần
thứ 2 để tham gia phiên toà, tuy nhiên tại phiên toà L và ông L1 đều vắng
mặt. Mặc dù vào ngày 17/9/2025 Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai có nhận được
đơn xin hoãn phiên toà của L, ông L1 nhưng xét do xin hoãn của L,
ông L1 để ông L1 thời gian nghiên cứu hồ bởi ông mới được L uỷ
quyền. Đây không phải căn cứ để hoãn phiên toà theo quy định tại các Điều
227, 228, 296 Bộ luật tố tụng dân sự nên không căn cứ hoãn phiên toà theo
yêu cầu của phía bị đơn. Việc bị đơn vắng mặt tại phiên toà được coi là thuộc
trường hợp từ bỏ yêu cầu kháng cáo, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng
mặt bị đơn là phù hợp quy định tại Điều 312 Bluật Tố tụng dân sự.
[3] Xét kháng cáo của nguyên đơn bà Trần Thị Mỹ H, bị đơn Nguyễn
Thị Mộng L, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[4] Ông Nguyễn Đình P, bà Đào Thị L2 có thửa đất có diện tích 854,3m
2
tọa lạc tại phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước, theo Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số AD392473. Ngày 23/02/2022 ông Nguyễn Đình P,
Đào Thị L2 đã chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Kim T1 theo hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 23/02/2022 tại văn phòng C, nhưng
chưa làm thủ tục sang tên, đến ngày 07/12/2022 thì hai bên hủy hợp đồng
chuyển nhượng này (theo hợp đồng hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất số công chứng 38311 quyển số 04/2022TP/CC-SCC/HĐGD của văn
phòng C). Ngày 12/01/2023 vợ chồng ông P, bà L2 (qua người đại diện ủy
quyền bà Nguyễn Thị Hồ Thu H1) chuyển nhượng quyền sdụng đất
trên cho Nguyễn Thị Mộng L, ngày 14/5/2024 bà L được Văn phòng đăng
đất đai tỉnh B cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất, quyền sở hữu nhà
và tài sản khác gắn liền với đất số VP 06339.
[5] Giá thỏa thuận chuyển nhượng thửa đất trên là 2.200.000.000 đồng,
trong đó theo thỏa thuận giữa T1, bà L H thì T1 góp số tiền
8
1.100.000.000 đồng, L góp số tiền 800.000.000 đồng, H góp số tiền
300.000.000 đồng. Sau khi kết hợp đồng chuyển nhượng bà T1 đã mang
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang đi cầm cố cho H1. Do vậy L
thỏa thuận với H cùng nhau chuộc lại thửa đất với giá là 1,1 tỷ đồng; số tiền
chuộc đất là bà L thế chấp tài sản của bà L vay ngân hàng N1 để đưa cho bà H1
chuộc đất. Sau đó H1 đã hợp đồng chuyển nhượng cho Nguyễn Thị
Mộng L thửa đất trên vào ngày 12/01/2023. Cũng trong ngày 12/01/2023 L
H lập một văn bản thỏa thuận góp vốn ghi nhận nội dung: “Bà
Nguyễn Thị Mộng L góp vốn 1.700.000.000 đồng. Tương đương 85% tổng giá
trị quyền sử dụng đất. Trần Thị Mỹ H góp vốn 300.000.000 đồng. Tương
đương 15% tổng giá trị quyền sử dụng đất”.
[6] vậy việc thỏa thuận góp vốn để mua đất giữa bà Trần Thị Mỹ H
Nguyễn Thị Mộng L do hai bên tự nguyện thỏa thuận với nhau, được lập
thành văn bản. Tuy nhiên các bên không thỏa thuận về quyền nghĩa vụ của
các bên cũng như không thỏa thuận về việc ai người đng tên trên giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, không thỏa thuận nào về thời hạn góp vốn,
về việc chấm dứt hợp đồng hợp tác, về điều kiện rút khỏi hợp đồng hợp tác góp
vốn mua chung đất, cũng không thỏa thuận nào về việc không cho rút phần
vốn đã góp.
[7] Theo quy định tại Điều 510 của Bộ luật dân sự năm 2015 thì:
“1. Thành viên quyền rút khỏi hợp đồng hợp tác trong trường hợp
sau đây:
a) Theo điều kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng hợp tác;
b) do chính đáng được sự đồng ý của hơn một nửa tổng số
thành viên hợp tác.
2. Thành viên rút khỏi hp đồng hợp tác quyền yêu cầu nhận lại tài
sản đã đóng góp, được chia phần tài sản trong khối tài sản chung phải
thanh toán các nghĩa vụ theo thỏa thuận. Trường hợp việc phân chia tài sản
bằng hiện vật làm ảnh hưởng đến hoạt động hợp tác thì tài sản được tính giá
trị thành tiền để chia.
Việc rút khỏi hợp đồng hợp tác không làm chấm dứt quyền, nghĩa vụ của
người này được xác lập, thực hiện trước thời điểm rút khỏi hợp đồng hợp tác.
3. Việc rút khỏi hợp đồng hợp tác không thuộc trường hợp được quy
định tại khoản 1 Điều này thì thành viên rút khỏi hợp đồng được xác định
bên vi phạm hợp đồng và phải thực hiện trách nhiệm dân sự theo quy định của
Bộ luật này, luật khác có liên quan.”
[8] Việc H rút khỏi hợp đồng hợp tác không được thỏa thuận trong
hợp đồng và không được bà L đồng ý, nên bà H yêu cầu rút vốn khỏi hợp đồng
hợp tác là vi phạm hợp đồng hợp tác góp vốn mua đất, vi phạm thỏa thuận giữa
bà L và bà H.
9
[9] Do việc góp tiền mua chung đất giữa L H là để bán sinh lời
chia nhau, việc góp tiền là do hai bên tự nguyện thỏa thuận, các bên thỏa thuận
ràng số tiền góp, ghi nhận trong nội dung thỏa thuận ngày 12/01/2023 để
đồng sử dụng chung với thỏa thuận tại thời điểm năm 2023 thửa đất giá trị
2.000.000.000 đồng, trong đó Nguyễn Thị Mộng L góp vốn
1.700.000.000 đồng, tương đương 85% tổng giá trị quyền sử dụng đất
Trần Thị Mỹ H góp vốn 300.000.000 đồng, tương đương 15% tổng giá trị
quyền sử dụng đất. Do đó, khi H yêu cầu rút phần vốn góp, hợp đồng hợp
tác giữa L H chấm dứt thì các bên được chia phần trong khối tài sản
chung và phải thanh toán nghĩa vụ theo thỏa thuận.
[10] Thửa đất hiện tại do L quản lý, sử dụng đang giữ giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất bản chính, nên bà L phải hoàn trả cho bên rút vốn phần
giá trị thửa đất tương đương với phần trăm góp vốn phù hợp. Tại biên bản
định giá ngày 22/04/2025, thửa đất số 413 (số thửa mới 60), tờ bản đồ số 19 (tờ
bản đồ mới số 21), diện tích 854,3 (tọa lạc tại khu phố C, phường T, thành
phố Đ, tỉnh Bình Phước) giá 1.100.000.000 (một tmột trăm triệu) đồng.
Theo thỏa thuận ngày 12/01/2023 tgiá trị thửa đất bà L góp 85%, H góp
15%, nên Tòa án cấp thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của
Trần Thị Mỹ H, buộc Nguyễn Thị Mộng L phải trả cho H số tiền
165.000.000 (một trăm sáu mươi lăm triệu) đồng phần vốnp 15% của
1.100.000.000 (một tỷ một trăm triệu) đồng là có căn cứ.
[11] Đối với yêu cầu khởi kiện của bà H về việc yêu cầuL phải trả số
tiền 50.000.000 (năm mươi triệu) đồng mà bà H đã góp với L để trả lãi ngân
hàng, gồm: Ngày 10/4/2023, bà H góp 11.663.000 (mười một triệu sáu trăm
sáu mươi ba nghìn) đồng; Ngày 12/5/2023, H góp 3.827.000 (ba triệu tám
trăm hai mươi bảy nghìn) đồng; Ngày 12/6/2023, H góp 3.820.000 (ba triệu
tám trăm hai mươi nghìn) đồng; Ngày 13/7/2023, H góp 3.676.000 (ba triệu
sáu trăm bảy mươi sáu nghìn) đồng; Ngày 16/8/2023, H góp 3.800.000 (ba
triệu tám trăm nghìn) đồng; Ngày 12/9/2023, bà H góp 3.800.000 (ba triệu tám
trăm nghìn) đồng; Ngày 13/10/2023, H góp 3.586.000 (ba triệu năm trăm
tám mươi sáu nghìn) đồng; Ngày 14/11/2023, bà H góp 3.425.000 (ba triệu bốn
trăm hai mươi lăm nghìn) đồng; Ngày 12/12/2023, L góp 3.000.000 (ba
triệu) đồng.
[12] Ngoài ra, H đã phải đưa cho L stiền 11.700.000 (mười một
triệu bảy trăm nghìn) đồng tiền dịch vụ.Tổng cộng 52.297.000đồng, nhưng
H chỉ yêu cầu L phải trả cho H số tiền 50.000.000 (Năm mươi triệu)
đồng.
[13] Xét thấy H biết việc L chuộc đất đồng ý cùng đóng lãi
với L để lấy tiền chuộc thửa đất góp vốn mua chung, việc thỏa thuận cùng
nhau đóng lãi tại Ngân hàng N1 có thật, hai bên chỉ thỏa thuận miệng, không
lập thành văn bản. Tuy nhiên, số tiền này do bà H tự nguyện cùng đóng lãi với
L, H người trược tiếp đi đóng lãi 11 tháng, L không nhận trực tiếp
tiền tbà H không sử dụng số tiền này nên việc bà H khởi kiện buộc bà L
10
phải trả cho bà H số tiền 50.000.000 (Năm mươi triệu) đồng đã góp để đóng lãi
phí tại ngân hàng không căn cứ nên Toà án cấp thẩm không chấp
nhận yêu cầu của H là có căn cứ.
[14] Từ phân tích trên, yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn Trần Thị
Mỹ H không căn cứ, cần ginguyên Bản án thẩm s14/2025/DS-ST
ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Bình Phước
(Nay Tòa án nhân dân khu vực A Đồng Nai). Tuy nhiên, đối với số tiền
165.000.000 đồng Tòa án cấp thẩm tuyên buộc L phải trả số tiền
tương ứng 15% trị giá tài sản chung H được hưởng nên cần bổ sung cách
tuyên về số tiền này cho cụ thể.
Về chi phí tố tụng và án phí dân sự sơ thẩm:
[15] Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản là
3.000.000 (Ba triệu) đồng, nguyên đơn, người đại diện theo ủy quyền của
nguyên đơn đã đóng tạm ứng đủ số tiền tại phiên tòa đồng ý tự nguyện chịu
toàn bộ chi phí này nên hội đồng xét xử không xem xét.
[16] Trần Thị Mỹ H phải chịu phần án phí dân sự sơ thẩm đối với số
tiền không được chấp nhận 185.000.000 đồng 9.250.000 đồng, trừ vào số
tiền tạm ứng án phí H đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0001153 ngày
01/04/2024 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đ 8.750.000 đồng,
H còn phải nộp 500.000 (năm trăm nghìn) đồng.
[17] - Nguyễn Thị Mộng L phải trả cho bà Trần Thị Mỹ H số tiền
165.000.000 đồng nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm8.250.000 (Tám triệu
hai trăm năm mươi nghìn) đồng.
[18] Án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo của nguyên đơn Trần
Thị Mỹ H không được chấp nhận nên phải chịu theo quy định. Do yêu cầu
kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị Mộng L bị đình chỉ xét xử phúc thẩm nên
phải chịu theo quy định.
[19] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai
có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật nên được chấp nhận.
Vì các lẽ nêu trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 296, Điều 312, khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng
dân sự;
Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bị đơn
Nguyễn Thị Mộng L.
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn bà Trần Thị Mỹ H.
Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm s14/2025/DS-ST ngày 29 tháng 4
năm 2025 của Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Bình Phước (Nay Tòa án
nhân dân khu vực A Đồng Nai).
11
Căn cứ các Điều 422, 504, 505, 506, 509, 510, 512 Bộ luật dân sự năm
2015; Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTNQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản s
dụng án phí, lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị
Mỹ H.
Chấm dứt hợp đồng hợp tác theo văn bản thỏa thuận góp vốn ngày 12
tháng 01 năm 2023 giữa bà Nguyễn Thị Mộng L và bà Trần Thị Mỹ H;
Buộc Nguyễn Thị Mộng L phải trả lại cho Trần Thị Mỹ H số tiền
165.000.000 (Một trăm sáu mươi lăm triệu) đồng trị giá tài sản chung
tương ứng 15% số vốn mà bà H đã góp.
Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan
thi hành án quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày
đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền
phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các
khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số
tiền còn phải thi hành theo theo mức lãi quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật
dân sự năm 2015.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Trần Thị Mỹ H đối với yêu
cầu khởi kiện buộc Nguyễn Thị Mộng L phải trả cho H s tiền
50.000.000 đồng tiền phí và lãi ngân hàng bà H đã đóng tại Ngân hàng.
2. Án phí dân sự sơ thẩm và chi phí tố tụng khác:
- Bà Trần Thị Mỹ H phải chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định
giá tài sản là 3.000.000 (Ba triệu) đồng, H đã nộp đủ.
- Trần Thị Mỹ H chịu án phí dân sự thẩm 9.250.000 đồng, trừ
vào số tiền tạm ứng án phí H đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0001153
ngày 01/04/2024 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đ 8.750.000
đồng, H còn phải nộp 500.000 (năm trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự
thẩm.
- Nguyễn Thị Mộng L phải nộp 8.250.000 (Tám triệu hai trăm năm
mươi nghìn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.
3. Án phí dân sự phúc thẩm:
Nguyên đơn Trần Thị Mỹ H phải chịu 300.000 đồng được trừ vào số
tiền 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số
0000485 ngày 15/5/2025 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đ, tỉnh
Bình Phước (Nay là Phòng Thi hành án Dân sự khu vực A Đồng Nai). Bị đơn
Nguyễn Thị Mộng L phải chịu 300.000 đồng được trừ vào số tiền 300.000
đồng đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000486
12
ngày 15/5/2025 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đ, tỉnh Bình Phước
(Nay là Phòng Thi hành án Dân sự khu vực A Đồng Nai).
4. Các quyết định khác của Bản án thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa
thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân
sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi
hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Đồng Nai;
- TAND khu vực A Đồng Nai;
- THADS tỉnh Đồng Nai;
- Các đương sự;
- Lưu: HSVA, Tổ HCTP, Tòa DS.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đinh Thị Quý Chi
Tải về
Bản án số 524/2025/DS-PT Bản án số 524/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 524/2025/DS-PT Bản án số 524/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất