Bản án số 52/2025/DS-PT ngày 28/08/2025 của TAND tỉnh Ninh Bình về tranh chấp hợp đồng thuê nhà

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 52/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 52/2025/DS-PT ngày 28/08/2025 của TAND tỉnh Ninh Bình về tranh chấp hợp đồng thuê nhà
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng thuê nhà
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Ninh Bình
Số hiệu: 52/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 28/08/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Bùi Ngọc N - Trần Mộng H
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỈNH NINH BÌNH
Bản án số: 52/2025/DS-PT
Ngày: 28 - 8 - 2025
V/v: “tranh chấp hợp đồng thuê nhà”.
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH NINH BÌNH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Nguyễn Thành Công
Các Thẩm phán:
Ông Chu Thái Hà
Ông Bùi Văn Biền
- Thư phiên toà: Nguyễn Lan Anh - Thư Toà án nhân dân tỉnh
Ninh Bình.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình tham gia phiên toà:
Trần Thu Hà - Kiểm sát viên.
Ngày 28 tháng 8 m 2025, tại trụ sở Tán nhân dân tỉnh Ninh Bình mở
phiên toà xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số: 51/2025/TLPT- DS ny
06/6/2025 về việc “Tranh chấp hợp đồng thuê nhà” do bản án sơ thẩm số:
19/2025/DS-ST ngày 29/4/2025 của Toà án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh
Nam Định nay là Toà án nhân dân khu vực 7 - Ninh Bình bị kháng cáo. Theo quyết
định đưa vụ án ra xét xử số: 132/2025/QĐXXPT-DS ngày 30/7/2025, giữa các
đương sự:
Nguyên đơn: Anh Bùi Ngc N, sinh năm 1991; s CCCD: 036091004427;
địa ch: S A đường N, phường T, thành ph N, tỉnh Nam Định này phường T,
tnh Ninh Bình. Có mt.
Bị đơn: Ch Trn Mng H, sinh năm 1986; s CCCD: 095186001825; đa
ch trú: S A đường V, phưng L, thành ph N, tỉnh Nam Định nay phường
N, tnh Ninh Bình. Có mặt.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn : Anh Đức T, sinh năm 2000: địa
chỉ: P tòa nhà N, số I đường Đ, phường N, tỉnh Ninh Bình người đại diện theo
uỷ quyền, hợp đồng uỷ quyền ngày 28/3/2025. Có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Minh L Luật
sư chi nhánh 6 của Văn phòng L1 - thuộc Đoàn Luật sư thành phố H. Có mặt.
2
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Vũ Bảo N1, sinh năm 1993; số
CCCD:036193019014; địa chỉ : S A đường T, phường C, thành ph N, tnh Nam
Định nay là phường N, tnh Ninh Bình.
Người đại diện theo ủy quyền của chị Bảo N1: Anh Bùi Ngc N, sinh
năm 1991; số CCCD: 036091004427; địa ch: S A đường N, phường T, thành ph
N, tỉnh Nam Định này là phường T, tnh Ninh Bình. Có mặt.
Người kháng cáo: chị Trần Mộng H là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện đề ngày 24-10-2024, tại bản tự khai ngày 12-11-2024
trong quá trình tham gia tố tụng nguyên đơn đồng thời người đại diện theo ủy
quyền của chị Vũ Bảo N1 là anh Bùi Ngọc N trình bày:
Ngày 15-4-2023 vợ chồng anh là Bùi Ngọc N Vũ Bảo N1 thỏa thuận mua
nhà đất của chị Trần Mộng H, thửa đất số 110, tờ bản đồ số 68, diện tích 143,1m
2
có địa chỉ tại tổ A phường L, thành phố N (nay là A V, phường L, thành phố N với
giá 1.750.000.000 đồng (Một tỉ bảy trăm năm mươi triệu đồng). Hai bên kết
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản gắn
liền với đất theo đúng quy định pháp luật, được Văn phòng đăng ký đất đai Sở tài
nguyên và môi trường tỉnh N cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số DK 130354 vào ngày 09-8-2023.
Do vợ chồng anh đã có nhà và sống tại địa chỉ số A N, phường T, thành phố
N, tỉnh Nam Định nên đã đồng ý cho chị Trần Mộng H thuê lại để ở. Hai bên
hợp đồng thuê nhà với nội dung: anh cho chị H thuê n nhà trên thửa đất số 110
tờ bản đồ số 68 tại địa chỉ A V 01 bộ bàn ghế gỗ, 01 sập gỗ và 02 tủ gỗ với giá
5.000.000 đồng/tháng, đình kỳ 3 tháng trả 1 lần kể tngày 02-8-2023. Ngoài ra
hợp đồng còn thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ của các bên, thời gian báo trước khi
chấm dứt hợp đồng thuê. Ngay sau khi hợp đồng thchị H đã thanh toán cho
anh 3 tháng tiền nhà với tổng số tiền 15.000.000 đồng tiếp tục trả tiền thuê
nhà đến hết tháng 4-2024. Anh người trực tiếp đến gặp chị H để lấy tiền thuê
nhà. Từ tháng 5-2024 chị H không thanh toán tiền thuê nhà nên tháng 8-2024 anh
đến gặp trực tiếp chị H yêu cầu chấm dứt hợp đồng thuê trả lại nnhưng chị H
không đồng ý. Nay anh yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Nam Định giải quyết
những vấn đề sau:
- Chấm dứt hợp đồng thuê nhà giữa anh chị Trần Mộng H ngày 02-8-
2023.
- Buộc chị Trần Mộng H trả lại căn nhà trên thửa đất số 110 tờ bản đồ 68 tại
địa chỉ A V, phường L, thành phố N, tỉnh Nam Định cho vợ chồng anh. Thửa đt
diện tích 143,1m
2
được Văn phòng đăng đất đai tỉnh Nam Định Sở tài
3
nguyên môi trường tỉnh N cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số DK 130354 ngày 09-8-2023 đng tên
Bùi Ngọc NVũ Bảo N1.
- Buộc chị Trần Mộng H phải thanh toán tiền thuê nhà từ tháng 5-2024 đến
khi chấm dứt hợp đồng thuê với số tiền theo thỏa thuận trong hợp đồng thuê
5.000.000 đồng/tháng.
Đối với tài sản trong nhà gồm 01 bộ bàn ghế gỗ, 01 sập g02 tủ gỗ anh
không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Vào ngày 31-5-2024 vợ chồng anh thế chấp nhà đất tại chỉ 197 V,
phường L, thành phố N, tỉnh Nam Định cho Ngân hàng N2 để đảm bảo cho khoản
vay 1.500.000.000 đồng theo Hợp đồng tín dụng s3203-LAV-202401031 ngày
03-6-2024. Ngày 06-01-2025 vợ chồng anh đã tất toán khoản vay, Ngân hàng đã
xuất kho trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DK 130354 cho anh chị.
Hiện tại quyền lợi, nghĩa vụ của Ngân hàng không còn liên quan đến tranh chấp
trong vụ án nên anh đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Nam Định không đưa
Ngân hàng N2 tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
nữa.
Tại bản tự khai ngày 19-11-2024 bị đơn là chị Trần Mộng H trình bày:
Chị khẳng định chị không thuê nhà của anh Bùi Ngọc N. Căn nhà tại địa chỉ
A V, phường L, thành phố N, tỉnh Nam Định là của chị.
Ngày 13-8-2022 chị vay của anh Bùi Quang T1, địa chỉ 52 Mạc Thị B số
tiền 1.000.000.000 đồng, anh T2 bận công việc nên đã giao cho anh Trần Ngọc T3
địa chỉ C L, phường T, thành phố N đến làm các thủ tục viết giấy vay tiền sang
nhượng nhà đất 197 V, phường L, thành phố N với chị. Anh T1 người chuyển
tiền cho anh T3 để anh Trung chuyển K cho chị. Sau này chị trả lãi suất cho anh
T1 mà không thông qua anh T3. Để đảm bảo cho khoản vay, chị, anh T1 và anh T3
đã hợp đồng chuyển nhượng “chờ”, nghĩa để trống bên nhận chuyển nhượng
tại Văn phòng C. Hợp đồng chuyển nhượng chờ nội dung chị sang nhượng cho
anh T3 thửa đất số 110 tờ bản đồ số 68 tại A V, phường L, thành phố N, tỉnh Nam
Định với giá 1.000.000.000 đồng, chị giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
anh T3 giữ còn hợp đồng chuyển nhượng lưu tại Văn phòng công chứng. Tháng 9-
2023 chị đã trả đủ số tiền 1.000.000.000 đồng và đề nghị anh T3 trả lại Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất nhưng anh T3 không trả. Ngày 18-9-2023 chị vay tiếp của
anh T3 số tiền 1.500.000.000 đồng thỏa thuận lãi suất, anh T3 tiếp tục giữ giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đđảm bảo cho khoản vay. Anh T3 nhờ anh T1
chuyển khoản cho chị số tiền 1.500.000.000 đồng, hàng tháng chị trả lãi là
36.000.000 đồng. Tháng 6-2024 anh T3 yêu cầu chị trả tiền gốc lãi, chị yêu cầu
4
anh T3 trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để làm thủ tục thế chấp vay tiền
ngân hàng trả cho anh T3. Lúc này chị mới biết anh T3 đã sang tên thửa đất của ch
cho anh Bùi Ngọc N chị Vũ Bảo N1. Anh T3 nói với chị phải nhờ vợ chồng N
N1 thế chấp ngân hàng, đến tháng 12-2024 chị phải trách nhiệm trả đủ tiền vay
ngân hàng và trả nốt tiền lãi còn lại thì anh T3 sẽ bảo vợ chồng N N1 sang tên lại
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho chị. Anh N, chị N1 đã thế chấp ngân hàng
N3 tại địa chỉ A V, phường L, thành phố N để vay 1.500.000.000 đồng, sau đó
mang trả anh T1, anh T1 đã xác nhận với chị đã nhận đủ stiền trên. Để làm tin
cho việc trả nợ, anh N yêu cầu chị hợp đồng thuê nhà với thời hạn 01 năm t
02-8-2023 đến 02-8-2024. Chữ ký, chữ viết trong hợp đồng thuê nhà là của chị tuy
nhiên thông tin về người thuê, người cho thuê để trống. Chị xác định Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất Hợp đồng thuê ngiữa chị anh N, chị N1 giả tạo nhằm che giấu 1
giao dịch khác, đó giao dịch vay tài sản. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
DK 130354 ngày 09-8-2023 do Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh N cấp cho anh Bùi
Ngọc N và chị Vũ Bảo N1 là không hợp pháp.
Nay chị đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Nam Định bác yêu cầu khởi
kiện của anh Bùi Ngọc N; yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DK
130354 ngày 09-8-2023 do Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh N cấp cho anh Bùi
Ngọc N và chị Vũ Bảo N1.
Tại bản tự khai ngày 26-12-2024, ngày 18-02-2025 Ngân hàng N2 trình
bày:
Giữa Ngân hàng Nông nghiệp Phát triển nông thôn tỉnh N2 anh Bùi
Ngọc N, chị Bảo N1 ký kết hợp đồng tín dụng số 3203-LAV-202401031
ngày 03-6-2024 với nội dung: Ngân hàng cấp hạn mức tín dụng cho vay
1.500.000.000 đồng cho anh N chị N1, mục đích để sản xuất nhôm kính. Anh N,
chị N1 đã được giải ngân toàn bộ số tiền 1.500.000.000 đồng. Để đảm bảo cho hợp
đồng tín dụng, anh N, chị N1 đã thế chấp tài sản quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất theo Giấy chứng nhận số DK 130354
ngày 09-8-2023 do Văn phòng đất đai thuộc Sở tài nguyên môi trường tỉnh N
cấp đứng tên anh N chị N1 cho Ngân hàng. Hợp đồng thế chấp số 65 303
24/HĐTC ngày 31-5-2024 được công chứng đăng thế chấp theo đúng quy
định pháp luật. Trước khi kết hợp đồng thế chấp Ngân hàng đã trực tiếp kiểm
tra tài sản, tiến hành định giá tài sản đảm bảo. Trong quá trình làm việc Ngân hàng
gặp gỡ với anh N, chị N1 không gặp chị Trần Mộng H, không biết chị H ai.
Sau khi ký kết hợp đồng tín dụng anh N, chị N1 ký hợp đồng thuê nhà với chị Trần
Mộng H nhưng không thông báo với Ngân hàng nên Ngân hàng không biết sự việc
này. Ngày 06-01-2025 anh N chị N1 đã tất toán khoản vay 1.500.000.000 đồng
5
theo hợp đồng tín dụng số 3203-LAV-202401031 ngày 03-6-2024. Ngân hàng đã
xuất kho trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DK 130354 ngày 09-8-
2024 cho anh N, chị N1. Hiện tại quyền lợi, nghĩa vụ của Ngân hàng không còn
liên quan đến tranh chấp trong vụ án nên đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Nam
Định không đưa Ngân hàng N2 tham gia tố tụng với tư cách người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan nữa.
Tại công văn số 01/CV-BC ngày 20-02-2025 trưởng Văn phòng C xác định:
Ngày 13-8-2022 Văn phòng C không hợp đồng chờ giữa chị Trần Mộng
H anh Trần Ngọc T3. Ngày 15-4-2023 Văn phòng C tiến hành làm thủ tục
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất giữa chị Trần Mộng H và anh Bùi Ngọc N, chị Vũ Bảo N1. Văn phòng đã cung
cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ cho Tòa án.
Từ nội dung vụ án như trên, bản án số: 19/2025/DS-ST ngày 29/4/2025 của
Toà án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định nay là Toà án nhân dân khu
vực 7-Ninh Bình đã quyết định:
- Căn cứ Điều 385, Điều 398; Điều 401; Điều 422; Điều 472; Điều 481 của
Bộ luật dân sự năm 2015;
- Căn cứ khoản 1 Điều 118; điểm b khoản 1 Điều 119; Điều 121 và khoản 2
Điều 122 Luật nhà ở năm 2014 (sửa đổi bổ sung năm 2022);
- Căn cứ khoản 1 Điều 147, khoản 2 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015;
- Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30
tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Bùi Ngọc N. Chấm dứt Hợp đồng
thuê nhà ký ngày 02-8-2023 giữa anh Bùi Ngọc N và chị Trần Mộng H.
2. Buộc chị Trần Mộng H phải trả lại cho anh Bùi Ngọc N và chị Vũ Bảo N1
căn nhà 3 tầng cùng toàn bộ tài sản gắn liền với thửa đất 110 tờ bản đồ 68 tại địa
chỉ tổ A (nay A V), phường L, thành phố N, tỉnh Nam Định. Nhà đất được Văn
phòng đăng ký đất đai Sở tài nguyên môi trường tỉnh N cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số DK
130354 ngày 09-8-2023 đứng tên anh Bùi Ngọc N và chị Vũ Bảo N1.
3. Đình chỉ xét xđối với một phần yêu cầu khởi kiện của anh Bùi Ngọc N
về việc buộc chị Trần Mộng H phải thanh toán tiền thuê nhà từ tháng 5-2024 đến
khi chấm dứt hợp đồng thuê với số tiền theo thỏa thuận trong hợp đồng thuê n
ngày 02-8-2023 là 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng)/tháng.
6
4. Án phí dân sthẩm: Chị Trần Mộng H phải nộp án phí 300.000
đồng (Ba trăm nghìn đồng).
Trả lại anh Bùi Ngọc N số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn
đồng) đã nộp theo Biên lai tạm ng án phí, lệ phí tòa án số 0002399 ngày 29 tháng
10 năm 2024 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định.
Ngoài ra bản án thẩm còn tuyên quyền kháng cáo, quyền, nghĩa vụ thi
hành án của các đương sự.
Ngày 12/5/2025, chị Trần Mộng H kháng cáo với nội dung: kháng cáo toàn
bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên toà phúc thẩm: Các đương sự không thoả thuận được việc giải
quyết vụ án.
Chị H, Luật đnghị huỷ bản án thẩm bản án thẩm những vi
phạm:
- Cấp sơ thẩm không đưa anh Trần Ngọc T3, anh Bùi Quang T1, công chứng
viên Nguyễn Duy H1 vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Việc chuyển nhượng quyền
sử dụng đất thửa đất số 110, tờ bản đồ số 68 giữa chị H vợ chồng anh N chị N1
được công chứng viên Nguyễn Duy H1 công chứng ngày 15/4/2023 không
thật. Chị H đến Văn phòng công chứng Nguyễn Duy H1 hợp đồng chuyển
nhượng “chờ”, nghĩa là để trống bên nhận chuyển nhượng, khi ký và lăn tay chỉ có
mình chị H không mặt của bên nhận chuyển nhượng. Việc công chứng viên ghi
lời chứng vào hợp đồng khi nào chị H không biết.
- Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất 110 tờ bản đồ 68 giữa
chị H với vợ chồng anh N, chị N1 giả mạo, không thật nên hợp đồng
hiệu.
- Việc đăng biến động quyền sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho anh N, chị N1 không đúng quy định của Luật đất đai.
- Việc anh N cho chị H thuê nhà là không thật chị H chỉ trang 02
của hợp đồng. Nội dung của hợp đồng thuê nhà không đúng quy định tại Điều 121
Luật nhà ở; ghi không đúng diện tích ngôi nhà; không quy định về việc giao nhà
cho thuê.
Anh N không đồng ý kháng cáo của bị đơn và đề nghị giữ nguyên bản án
thẩm.
7
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Về thủ tục tố tụng: Tại giai đoạn phúc thẩm,
Thẩm phán, Hội đồng xét xử, các đương sự đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật
Tố tụng dân sự, quyền lợi của đương sự được bảo đảm.
Về nội dung giải quyết vụ án: Toà án cấp thẩm cho rằng đơn phản t ca
ch H chưa đủ điu kiện để làm căn cứ cho vic th đơn phản t t đó yêu cầu
ch H sửa đổi, b sung đơn phản tnp tài liu, chng c (lần 2) không đúng
với quy định khoản 1 điều 96, khon 4 điều 189 điều 202 B lut T tng dân
s 2015. Sau đó Toà án cấp sơ thẩm căn cứ vào đim e khoản 1 Điu 192, khon 2
Điều 193 BLTTDS để tr lại đơn phn t ca ch H đã làm thu hẹp phm vi xem
xét gii quyết v án, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyn li ích hp pháp ca
đương sự.
Mc yêu cu phn t v vic hy giy chng nhn quyn s dụng đất s
DK 130354 ngày 09/8/2023 ca Văn phòng đăng đất đai tỉnh N cp cho anh N
ch N1 không được Toà án cấp thẩm th tuy nhiên bản án thẩm cũng
nhận định v tính hp pháp ca Hợp đồng chuyển nhượng quyn s dụng đất,
quyn s hu nhà và tài sn khác gn lin vi thửa đất 110 t bản đồ s 68. Cùng
vi li trình bày và các tài liu chng c chị H giao nộp sao các giao dịch
chuyển khoản của số tài khoản 0931861986 của Ngân hàng TMCP S chi nhánh
N4, giấy sang nhượng nhà đất ngày 13/8/2022 gia anh T3 ch H, căn cứ khon
6 điều 68 B lut T tng dân s năm 2015 cần đưa anh Trn Ngc T3 và anh Bùi
Quang T1, Công chng viên Nguyn Duy H1 tham gia t tng với cách ngưi
quyn lợi nghĩa v liên quan đ tiến hành ly lời khai, đối cht làm các
tình tiết trong v án. Vic Tòa án cấp sơ thẩm không đưa anh Trn Ngc T3 và anh
Bùi Quang T1, Công chng viên Nguyn Duy H1 tham gia t tụng để tiến hành
ly lời khai, đi cht làm các tình tiết trong v án dn ti vic thu thp tài liu,
chng c ca v án không đầy đủ, ảnh hưởng nghiêm trọng đến vic gii quyết v
án.
Nhiu tình tiết mâu thun trong v án chưa đưc xác minh làm rõ. C th:
Mâu thun trong li khai của các đương s v thời điểm cách thc ký hợp đng
chuyển nhượng quyn s dụng nhà đt tha 197 V. Vic tr tin thuê nhà gia anh
N và ch H, vic tr tiền mua căn nhà s A V.
Căn cứ khoản 3 điều 308 B lut T tng dân s 2015, Ngh quyết
326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 ca UBTV Quc hi chp nhn kháng cáo
ca ch H, hy bản án sơ thẩm s19/2025/DS-ST ngày 29/4/2025 ca TAND thành
ph Nam Định (nay TAND khu vc 7 tnh Ninh Bình) chuyn h vụ án cho
Toà án cấp thẩm gii quyết li theo th tục thẩm; án phí đương sự phi chu
theo quy định ca pháp lut.
8
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
toà, căn cứ vào lời trình bày của đương sự và căn cứ vào kết quả tranh luận tại
phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Đơn kháng cáo của chị Trần Mộng H được làm trong thời hạn luật định
phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 272; khoản 1 Điều 273; Điều 276 BLTTDS
nên được chấp nhận xem xét giải quyết theo trình tự tố tụng phúc thẩm.
[2] Theo Điều 202 BLTTDS năm 2015 quy định: Thủ tc yêu cu phn t
hoc yêu cầu độc lập được thc hiện theo quy định ca B lut này v th tc khi
kin của nguyên đơn”. Ngày 19-11-2024 chị Trần Mộng H nộp đơn phản tố đề
ngày 18-11-2024 đề nghị Tòa án bác yêu cầu khởi kiện của anh Bùi Ngọc N; yêu
cầu hủy giấy chứng nhận quyền sdụng đất số DK 130354 ngày 09-8-2023 do
Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh N cấp cho anh Bùi Ngọc N và chị Vũ Bảo N1; yêu
cầu Văn phòng đăng đất đai tỉnh Nam Định trả lại Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, thửa đất số 110 tờ bản đồ 68 tại địa chỉ tổ A, phường L, thành phố N
đăng trở lại quyền sử dụng thửa đất này cho chị Trần Mộng H. Cấp thẩm
nhận thấy đơn phản tố của chị H yêu cầu không thuộc thẩm quyền giải quyết
của Toà án nên ngày 25/11/2024 TAND thành ph Nam Định đã ra thông báo số
32A/TB-TA "Sửa đổi b sung đơn phn t np b sung tài liu chng c"
đúng quy định ca pháp lut. Đến ngày 03/12/2024 ch H np trc tiếp "đơn đề
ngh sửa đổi, b sung đơn phản tố" đề ngày 03/11/2024. Cấp thm xét thy
"đơn đ ngh sửa đổi, b sung đơn phản tố" đề ngày 03/11/2024 ca ch H ch ghi
duy nhất tên người làm đơn nên không đúng quy đnh v hình thc, ni dung khi
kiện theo quy định ti khoản 4 Điều 189 B lut t tng dân s. Ngày 09/12/2024
TAND thành ph Nam Định đã ra thông báo s 32B/TB-TA "Sa đổi b sung đơn
phn t np b sung tài liu, chng c (lần 2)" đối với "đơn đ ngh sửa đổi, b
sung đơn phản tố" đề ngày 03/11/2024 ca ch H nhưng chị H không thc hiện. Đã
hết thi hn 15 ngày k t ngày niêm yết thông báo s 32B/TB-TA "Sửa đổi b
sung đơn phản t và np b sung tài liu, chng c (lần 2)" nhưng chị H không sa
đổi b sung đơn phản t. Ngày 05/02/2025 TAND thành ph Nam Định ra thông
báo 32C/TB-TA thông báo tr lại đơn phản t ca ch H. Ch H không có khiếu ni
gì v vic tr lại đơn phản t ca cấp sơ thẩm, trước khi cấp sơ thm m phiên hoà
gii công khai chng c, ch H vẫn không đưa ra yêu cu phn t. Vic Toà án
cấp sơ thẩm không th lý yêu cu phn t ca ch H là đúng quy định khoản 1 Điều
5 Bộ luật tố tụng dân sự "Đương sự quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu
Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự".
[3] Anh Bùi Ngọc N đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc chị Trần Mộng
H chấm dứt hợp đồng thuê nhà, trả lại nhà cho vợ chồng anh. Chứng cứ anh N giao
9
nộp cho Toà án gồm hợp đồng thuê nhà giữa anh và chị Trần Mộng H ngày
02-8-2023 không có công chứng, chứng thực; giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số DK 130354 ngày 09-8-2023
do Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Nam Định-Sở tài nguyên môi trường tỉnh N
cấp mang tên Bùi Ngọc N Bảo N1 đối thửa đất số 110 tờ bản đồ 68 tại địa
chỉ A V, phường L, thành phố N, tỉnh Nam Định. Toà án cáp sơ thẩm đã thụ lý vụ
án số 32/2024/TLST-DS ngày 29 tháng 10 năm 2024, xác định quan hệ pháp luật
trong vụ án là "tranh chấp hợp đồng thuê nhà" và chỉ giải quyết trong phạm vi yêu
cầu đó là đúng quy định của khoản 1 Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự "Tòa án chỉ thụ
lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ
giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó". Việc giải quyết vụ án
"tranh chấp hợp đồng thuê nhà" giữa anh N chị H không liên quan đến quyền
lợi, nghĩa vụ của anh Trần Ngọc T3, anh Bùi Quang T1 công chng viên
Nguyễn Duy H1 nên cấp thẩm không đưa họ vào tham gia tố tụng với cách
người có quyền lơi, nghĩa vụ liên quan là đúng quy định của pháp luật.
[4] Về nội dung kháng cáo:
[4.1] Quá trình giải quyết vụ án, cấp thẩm đã thực hiện đầy đủ các quy
định của Bộ luật Tố tụng dân sự, không có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng,
bảo đảm được quyền và nghĩa vụ tố tụng của các đương sự.
[4.2] Căn cứ Điều 293 Bộ luật tố tụng dân sự: Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xem
xét lại phần của bản án thẩm, quyết định của Tòa án cấp thẩm kháng cáo,
kháng nghị hoặc liên quan đến việc xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị.
Hội đồng xét xử phúc thẩm chỉ giải quyết mối quan hệ đã được cấp thẩm quyết
định trong bản án sơ thẩm bị kháng cáo là "tranh chấp hợp đồng thuê nhà" giữa chị
H và anh N.
[4.3] Chị Trần Mộng H lời trình bày xác định Hợp đồng thuê nhà ngày
02-8-2023 ký kết giữa chị và anh Bùi Ngọc N chị Vũ Bảo N1 là giả tạo để che giấu
giao dịch vay tiền giữa chị với anh Trần Ngọc T3, địa chỉ C L, phường T, thành
phố N anh Bùi Quang T1; địa chỉ E M, phường V, thành phố N. Anh N yêu
cầu chị ký hợp đồng thuê nhà với thời hạn 01 năm từ ngày 02-8-2023 đến ngày 02-
8-2024 với mục đích làm tin cho việc trả nợ giữa chị với anh Bùi Quang T1, anh
Trần Ngọc T3. Tuy nhiên, trong qtrình giải quyết vụ án tại phiên tòa hôm
nay chị H không cung cấp được tài liệu chứng cứ chứng minh giao dịch vay tiền
giữa chị với anh T3, anh T1 có liên quan đến Hợp đồng thuê nhà ký kết ngày 02-8-
2023 giữa chị với anh N. Chị H đã có lời khai tại biên bản lấy lời khai ngày 25-11-
2024 “Việc tôi vay nợ giữa tôi anh T3, giữa tôi anh T1 không liên quan
đến việc mua bán nhà đất giữa tôi với vợ chồng anh Bùi Ngọc N”. Tại phiên tòa sơ
thẩm, chị H trình bày giao dịch vay tiền giữa chị với anh Trần Ngọc T3, anh i
10
Quang T1 không liên quan đến Hợp đồng thuê nhà giữa chị với anh Bùi Ngọc N.
Lời trình bày trên của chị H cùng với lời trình bày chị ký vào hợp đồng thuê nhà là
hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc. Từ những đánh giá và phân tích như trên,
Hội đồng xét xử sơ thẩm thấy không có đủ cơ sở để chấp nhận lời trình bày của chị
Trần Mộng H về việc xác định Hợp đồng thuê nhà ngày 02-8-2023 ký kết giữa chị
và anh Bùi Ngọc N là sai và giả tạo là có căn cứ.
[4.4] Về tính hợp pháp của hợp đồng thuê nhà: Anh Bùi Ngọc N chị Vũ Bảo
N1 được Văn phòng đăng đất đai Sở tài nguyên môi trường tỉnh N cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền
với đất số DK 130354 đứng tên anh chị. Như vậy, anh N chị N1 chủ shữu
hợp pháp đối với căn nhà trên thửa đất 110 tờ bản đồ số 68 tại địa chỉ A V, phường
L, thành phố N. Ngày 02-8-2023 anh Bùi Ngọc N hợp đồng thuê nhà với chị
Trần Mộng H với nội dung anh N cho chị H thuê căn nhà số A V, phường L, thành
phố N; mục đích thuê để sinh hoạt gia đình, diện tích sử dụng là 143,1m
2
, tài sản
gồm có 01 bộ bàn ghế gỗ, 01 sập gỗ và 02 tủ gỗ. Hai bên thỏa thuận thời gian thuê
kể từ ngày 02-8-2023, giá thuê 5.000.000 đồng/tháng, đình kỳ 3 tháng trả 1 lần.
Ngoài ra, hai bên còn thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ của các bên, thời gian báo
trước khi chấm dứt hợp đồng thuê 30 ngày. Hợp đồng thuê nđược lập bằng
văn bản chữ ghi họ tên của anh Bùi Ngọc N chị Trần Mộng H. Tại
thời điểm kết anh N và chị H đầy đủ năng lực hành vi dân sự theo quy định
của Bộ luật dân snăm 2015 điểm b khoản 1 Điều 119 của Luật nhà năm
2014 (sửa đổi bổ sung năm 2022). Đối tượng của hợp đồng căn nhà số A V,
phường L đáp ứng đầy đủ điều kiện để tham gia giao dịch theo quy định tại điểm a
khoản 1 Điều 118 của Luật nhà năm 2014 (sửa đổi bổ sung năm 2022). Chị H
được xem lại Hợp đồng thuê nhà ngày 02-8-2023, thừa nhận chữ ký, chữ viết
Trần Mộng H trong hợp đồng thuê nhà của chị, chị đọc nội dung t
nguyện ký. Chị trình bày tại thời điểm ký hợp đồng thuê nhà anh Trần Ngọc T3 nói
với chị ký vào bản trống để làm tin cho việc trả nợ giữa chị với anh T3. Chị H giao
nộp bản phô hình ảnh chụp trang đầu tiên của Hợp đồng thuê nhà. Tài liệu thể
hiện bản đánh máy để trống thông tin về ngày tháng năm, họ tên bên cho thuê
nhà bên thuê nhà, các thông tin về điều khoản hợp đồng thuê nhưng không thể
hiện chữ chữ viết của chị H trên tài liệu này nên không đủ căn cứ xác định
việc chị H vào bản để trống của Hợp đồng thuê nhà. Do vậy, căn cứ vào Điều
385, Điều 401; Điều 422; Điều 472 của Bộ luật dân sự năm 2015 bản án thẩm
xác định Hợp đồng thuê nhà ngày 02-8-2023 giữa anh Bùi Ngọc N chị Trần
Mộng H là đúng quy định nên có hiệu lực pháp luật là có căn cứ.
[4.5] Về yêu cầu chấm dứt hợp đồng thuê nhà: Sau khi ký hợp đồng thuê nhà
ngày 02-8-2023 chị Trần Mộng H sử dụng căn nhà A V, phường L, thành phố N
11
đến tháng 8-2024 thì anh Bùi Ngọc N yêu cầu chị H chấm dứt hợp đồng thuê nhà
với do chị H không thanh toán tiền thuê nhà từ tháng 5-2024 cho đến nay. Tại
đơn phản tố đề ngày 18-11-2024 và tại phiên tòa thẩm chị H cũng trình bày từ
tháng 8-2024 đến nay N nhiều lần đến nhà chị yêu cầu chị giao lại nhà. Chị H
anh N đã ký bản cam kết trong thời hạn 30 ngày từ ngày 05-8-2024 đến ngày 05-9-
2024 chị H trách nhiệm chứng minh quyền sử dụng của mình đối với nhà đất,
tuy nhiên hết thời hạn chị H không chứng minh được cũng không trả lại lại nhà
đất cho anh N. Hiện tại chị H vẫn đang quản lý và sử dụng nhà đất tại địa chỉ A V,
phường L, thành phố N. Như vậy, chị H đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo hợp
đồng, do đó anh N khởi kiện yêu cầu chị Trần Mộng H chấm dứt hợp đồng thuê
nhà ngày 02-8-2023 để trả lại nhà đất cho vợ chồng anh là có căn cứ.
[4.6] Hợp đồng thuê nhà ngày 02-8-2023 không quy định cụ thể về đặc
điểm, kết cấu căn nhà tại thời điểm cho thuê chỉ ghi diện tích sử dụng
143,1m
2
(diện tích của thửa đất), trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số DK 130354 ngày 09-8-2023 thể
hiện trên đất nhà tông 2 tầng. Anh Bùi Ngọc N trình bày tại thời điểm cho
chị H thnhà tông 3 tầng, tầng 3 lợp mái tôn. Tòa án thẩm đã tiến hành
xem xét thẩm định tại chỗ đối với tài sản tranh chấp vào ngày 02-4-2025 nhưng chị
H không có mặt nên Tòa án lập biên bản không tiến hành được việc xem xét, thẩm
định tại chỗ. Ghi nhận từ bên ngoài, trên thửa đất số 110 tờ bản đồ số 68 tại địa chỉ
tổ A, phường L, thành phố N xây dng 01 căn nhà bê tông 3 tầng, cổng, sân lát
gạch đỏ, tường bao, không xác định được diện tích căn nhà. Do đó, bản án sơ thẩm
buộc chị Trần Mộng H phải trả lại cho anh Bùi Ngọc N chị Vũ Bảo N1 căn nhà
tông 3 tầng cùng các tài sản khác gắn liền với thửa đất số 110 tờ bản đồ 68 tại
địa chỉ tổ A (nay là A V), phường L, thành phố N, tỉnh Nam Định là có căn cứ.
[4.7] Về việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Tại phiên tòa
sơ thẩm, anh Bùi Ngọc N xin rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc buộc chị Trần
Mộng H phải thanh toán tiền thuê nhà từ tháng 5-2024 đến khi chấm dứt hợp đồng
thuê với số tiền theo thỏa thuận trong hợp đồng thuê 5.000.000 đồng/tháng, anh
không yêu cầu Tòa án giải quyết. Xét thấy, việc rút một phần yêu cầu khởi kiện
của anh N hoàn toàn tnguyện, không trái quy định pháp luật nên căn cứ vào
khoản 2 Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử sơ thẩm đình chỉ xét
xử đối với yêu cầu này là đúng pháp luật.
[4.8] Từ các nhận định trên xét thấy kháng cáo của chị Trần Mộng H không
căn cứ nên không được chấp nhận. Hội đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên bản
án sơ thẩm.
[5] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên chị H
phải nộp án phí phúc thẩm được trừ vào số tiền đã nộp tạm ứng án phí.
12
[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng ngh
hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị cấp phúc
thẩm không xem xét giải quyết.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308; Điều 148; Điều 293 Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường
vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí
Tòa án;
1. Không chấp nhận kháng cáo của chị Trần Mộng H.
2. Giữ nguyên bản án dân sự thẩm số: 19/2025/DS-ST ngày 29/4/2025
của Toà án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định nay Toà án nhân n
khu vực 7 - Ninh Bình.
3. Về án phí phúc thẩm: chị Trần Mộng H phải nộp 300.000 đồng được trừ
vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp đã nộp theo Biên lai thu số 0002825 ngày
15/5/2025 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định. Chị
H đã nộp xong án phí dân sự phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án và người phải thi hành án có quyền thoả
thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng
chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a 9 Luật Thi hành án dân sự;
thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án
dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND khu vực 7
- VKSND tỉnh Ninh Bình;
- Phòng THADS khu vực 7;
- Các đương sự;
- Lưu án văn.
T/M. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
(Đã ký)
Nguyễn Thành Công
Tải về
Bản án số 52/2025/DS-PT Bản án số 52/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 52/2025/DS-PT Bản án số 52/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất