Bản án số 51/2025/DS-ST ngày 25/09/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 10 - Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 51/2025/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 51/2025/DS-ST ngày 25/09/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 10 - Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân khu vực 10 - Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ
Số hiệu: 51/2025/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 25/09/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Bản án DSST Lê Văn C - Nguyễn Văn P và Lê Thị T tranh chấp quyền sử dụng đất
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ
TOÀ ÁN NHÂN DÂN KHU VỰC 10
Bản án số: 51/2025/DS-ST
Ngày 25 tháng 9 năm 2025
“V/v Tranh chấp ranh giới quyền sử dụng
đất”
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh Phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN KHU VỰC 10 - PHÚ THỌ
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Nguyễn Thị Hải
c Hội thẩm nhân dân: Nguyễn Thị Thanh Hương
Vũ Thị Phương Thuý
- Thư phiên tòa: Nguyễn Thị Oanh - Thẩm tra viên Tòa án nhân
dân Khu vực 10 - Phú Thọ.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Khu vực 10-Phú Thọ tham gia phiên
tòa: Trần Thị Hồng Nhung - Kiểm sát viên.
Ngày 25 tháng 9 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân Khu vực 10 - Phú
Thọ xét xử thẩm công khai vụ án Dân sự thụ số 143/2024/TLST- DS ngày
04 tháng 11 năm 2024 về việc “Tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất” theo
Quyết định đưa ván ra xét xử s76/2025/QĐXXST- DS ngày 05 tháng 5 năm
2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Lê Văn C sinh năm: 1963; Địa chỉ: Thôn P, xã T, tỉnh
Phú Thọ (Vắng mặt);
Người đại diện theo uỷ quyền của ông Lê Văn C: Ông Phạm Văn K sinh
năm 1996; Địa chỉ: Số C, N, phường V, tỉnh Phú Thọ, (Có mặt);
- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn P sinh năm 1980, Thị T sinh năm
1980; Cùng địa chỉ: Thôn P, xã T, tỉnh Phú Th, (Ông P vắng mặt, bà T có mặt);
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Nguyễn Thị T1 - Sinh năm 1962; Địa chỉ: Thôn P, T, tỉnh Phú
Thọ, (vắng mặt)
Ông Hồng P1 - Sinh năm 1987; Địa chỉ: Chung T, phường K,
thành phố Hà Nội, (Có mặt)
2
Thị L - Sinh năm 1989; Địa chỉ: Thôn P, T, tỉnh Phú Thọ, (Có
mặt);
Ông Văn L1 - Sinh năm: 1992; Địa chỉ: Thôn P, T, tỉnh Phú Thọ,
(Vắng mặt);
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trong đơn khởi kiện đề ngày 17 tháng 10 năm 2024 những lời khai
tiếp theo tại phiên tòa người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn ông Phạm
Văn K trình bày: Gia đình ông Văn C quyền sử dụng thửa đất số 512, tờ
bản đồ số 06, diện tích 300m
2
(tương ứng thửa đất số 519, tờ bản đồ số 11,
diện tích 250,1m
2
theo bản đồ hệ tọa độ VN2000), địa chỉ tại: Thôn P, xã T,
huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc (Nay xã T, tỉnh Phú Thọ) đã được cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số U 491313 ngày 30/11/2001 mang tên hộ ông Lê Văn
C. Tại thời điểm ngày 30/11/2001 hộ ông Lê Văn C gồm 05 thành viên: Văn
C, Nguyễn Thị T1, Hồng P1, Lê Thị L, Văn L1. Vừa qua, gia đình ông C
đã thực hiện thủ tục cấp đổi giấy chứng nhận nêu trên thì phát hiện diện tích đất
nhà ông C đang sử dụng khoảng 250m
2
, tức thiếu khoảng 50m
2
so với Giấy
chứng nhận đã cấp. Bên cạnh đấy, vợ chồng ông Nguyễn Văn P, Thị T
đang sử dụng thửa đất số 505, tbản đồ số 11, diện tích khoảng 192,5m
2
theo
bản đồ hệ tọa độ VN2000 (tương ứng thửa đất số 501, tbản đồ số 06, diện
tích 140m
2
theo bản đồ 299) liền kề với thửa đất của gia đình ông C, thửa đất
này được ông P, T nhận chuyển nhượng của Thị N (con gái K1).
Trước đây K1 sử dụng thửa đất này diện tích khoảng 140m
2
, tức hiện nay
vợ chồng ông P, T đang sử dụng tăng thêm khoảng 52,5m
2
so với thời điểm
K1 sử dụng. Ông C cho rằng vợ chồng ông P, bà T sử dụng diện tích đất tăng
thêm khoảng 52,5m
2
so với thời điểm K1 sử dụng do lấn chiếm sang thửa
đất của gia đình ông C, cụ thể lấn chiếm sâu vào cạnh phía Bắc của thửa đất gia
đình ông C khoảng 3,6m. Ngày 15/01/2025 Toà án đã về kiểm tra xem xét thẩm
định tại chỗ đối với diện tích đất tranh chấp giữa hai gia đình đã xác định chiều
về phía Bắc, đất của gia đình ông C đã làm nhà, xây tường chưa hết đất, khi đào
một phần đất đã xác định được móng nhà của gia đình K1 đã từ trước,
sau khi đo đạc xác định đất của gia đình ông diện tích đất thực tế đo đạc
265,4m
2
(bao gồm cả diện tích đất đang tranh chấp 10,9m
2
) và gia đình
ông P, T là 180,3m
2
(có đồ chi tiết kèm theo). Tại đơn khởi kiện ngày
17/10/2024, gia đình ông C đề nghị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường giải
3
quyết: Buộc ông Nguyễn Văn P, Thị T trả lại diện tích đất 50m
2
đã lấn
chiếm sang thửa đất số 512, tờ bản đồ số 06, địa chỉ tại: Thôn P, T, huyện
V, tỉnh Vĩnh Phúc của gia đình ông C. Tuy nhiên sau khi kiểm tra hiện trạng
thực tế thửa đất thì gia đình ông C xin thay đổi một phần nội dung khởi kiện, cụ
thể: Ông C đnghị buộc ông Nguyễn Văn P, Thị T trả lại diện tích đất
10.9m
2
đã lấn chiếm sang thửa đất số 512, tờ bản đồ số 06, địa chỉ tại: Thôn
P, xã T, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc của gia đình ông C (theo sơ đồ hiện trạng thửa
đất đo vẽ ngày 15/01/2025. Hiện nay trên đất vẫn để trống, hai bên gia đình
không xây dựng công trình gì.
- Bị đơn Thị T trình bày: Gia đình quyền sử dụng thửa đất số
505 tờ bản đồ số 11 diện tích 192,5 m
2
ở địa chỉ tại: Thôn P, xã T, huyện V, tỉnh
Vĩnh Phúc (nay là xã T, tỉnh Phú Thọ). Nguồn gốc đất là do vợ chồng bà mua lại
của Trần Thị N1 (con gái cụ Trần Thị K1 đã chết năm 2015) từ cuối năm
2017, đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên vợ chồng bà
Nguyễn Văn P Lê Thị T. Thửa đất vợ chồng bà đang sử dụng một
chiều tiếp giáp với thửa đất thổ của nhà ông Văn C, con gái ông C chị
Thị L giới thiệu tôi mua thửa đất đó. Khi vợ chồng nhận chuyển nhượng
quyền sử dụng đất như thế nào thì vẫn sử dụng như vậy, không lấn chiếm
đất của ai. Năm 2019 vợ chồng làm nhà xây cấp bốn trên thửa đất trên, khi
làm nhà thì vợ chồng vẫn để lại phần đất trống giữa hai gia đình, không liên
quan đến nhau. Nay nhà ông C khởi kiện đối với vchồng thì quan điểm
không đồng ý yêu cầu khởi kiện của ông C do gia đình không lấn
chiếm đất của ai.
Tại phiên toà bị đơn ông Nguyễn Văn P vắng mặt nhưng tại biên bản ly
lời khai ngày 29/12/2024 ông Nguyễn Văn P trình bày như Thị T đã trình
bày. Quan điểm ông nhất trí như vợ ông đã trình bày. Ông không đồng ý với yêu
cầu khởi kiện của gia đình ông C do vợ chồng ông nhận chuyển nhượng
quyền sử dụng đất như thế nào thì sdụng như vậy, không lấn chiếm đất của
ai.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
Tại Bản tự khai ngày 04/11/2024 chị Lê Thị L, anh Lê Hồng P1 và anh Lê
Văn L1 trình bày: Các anh chị là con trai và con gái của ông Lê Văn C. Gia đình
các anh chị có thửa đất số 512, tờ bản đồ số 06 diện tích 300m
2
đã được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bố các anh chị là hộ ông Lê Văn C ngày
4
30/11/2001. Khi bố các anh chị có nhu cầu muốn làm thủ tục cấp đổi giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất nên đã phát hiện ra thửa đất của gia đình chỉ còn lại
diện tích theo hiện trạng 250m
2
, tức thiếu khoảng 50m
2
so với Giấy chứng
nhận đã cấp. Trong khi đó, vchồng ông Nguyễn Văn P, Thị T đang sử
dụng thửa đất số 505, tờ bản đồ số 11, diện tích khoảng 192,5m
2
theo bản đồ hệ
tọa độ VN2000 (tương ứng thửa đất số 501, tbản đsố 06, diện tích 140m
2
theo bản đồ 299) liền kề với thửa đất của gia đình anh chị, trước đây chủ sử
dụng thửa đất này diện tích khoảng 140m
2
, do vậy bố các anh chị đã đơn
khởi kiện đề nghị Toà án giải quyết: Buộc ông Nguyễn Văn P, Thị T trả
lại diện tích đất 50m
2
đã lấn chiếm sang thửa đất số 512, tờ bản đồ số 06, địa
chỉ tại: Thôn P, T, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc (Nay T, tỉnh Phú Thọ) của
gia đình anh chị. Quan điểm các anh chị hoàn toàn nhất trí theo như yêu cầu
khởi kiện của bố các anh chị, không có ý kiến thắc mắc gì.
Tại Bản tự khai ngày 04/11/2024 Nguyễn Thị T1 trình bày: vợ
của ông Văn C. Về quá trình sử dụng đất nguồn gốc đất trình bày theo
như chồng con đã trình bày trên. Về quan điểm cũng nhất trí yêu cầu
khởi kiện của ông C đã khởi kiện, bà không bổ sung gì thêm.
Xác minh tại UBND xã T (nay là xã T) ngày 09/5/2025 cho biết: Gia đình
ông Văn C thửa đất số 512, tờ bản đồ số 06, diện tích 300m
2
thôn P,
T, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc (Nay là T, tỉnh Phú Thọ) đã được cấp chứng
nhận quyền sử dụng đất số U491313 số vào sổ cấp giấy 00546 QSDĐ do UBND
huyện V cấp ngày 30/11/2001 mang tên hộ ông Văn C. n gia đình ông
Nguyễn Văn P và bà Lê Thị T có thửa đất số 505 tờ bản đồ số 11 diện tích 192,5
m
2
thôn P, xã T, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc đã được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đứng tên vợ chồng ông Nguyễn Văn P Thị T. Căn cứ theo
sổ mục lưu tại UBND thể hiện: quyển số 01 năm 2000 trang số 145 số
thửa số 501 tờ bản đồ số 6 diện tích 140m
2
đứng tên chủ sử dụng đất Trần Thị
K1. Thửa số 512 tờ bản đồ số 6 diện tích 300m
2
đứng tên Văn C. Căn cứ sổ
địa chính lưu tại UBND xã thể hiện: Quyển số 6 tại trang số 27 tên chủ sử dụng
hộ Trần Thị K1 chồng Văn M thôn P đăng sử dụng thửa đất số 501
tờ bản đồ 06 diện tích 140m
2
(sdụng ổn định). Quyển số 02 trang 259 tên chủ
sử dụng Văn C sử dụng thửa đất số 512 tờ bản đồ 06 diện tích 300m
2
(trong
đó 200m
2
đất làm nhà 100m
2
đất làm vườn). Căn cứ sổ cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất lưu tại UBND thể hiện: Tại trang số 43 số thứ tự
0546 chủ sử dụng Lê Văn C diện tích 300m
2
thửa số 512 tờ bản đồ 06. Tại trang
5
số 92 số thứ tự 01194 tên chủ sử dụng đất Trần Thị K1 diện tích 140m2 thửa số
501 tờ bản đồ 06. Theo bản đồ 299 thể hiện: số thửa số 501 tờ bản đồ số 6 diện
tích 140m
2
thửa số 512 tờ bản đồ số 6 diện tích 300m
2
. Theo sổ mục đo
đạc tạm thời được lập năm 2012 quyển số 01 trang số 136 thể hiện thửa đất số
519, tờ bản đồ số 11, diện tích 250,1m
2
đứng tên chủ sử dụng đất hộ ông
Văn C Nguyễn Thị T1 thửa số 505 tờ bản đồ 11 diện tích 196,4m
2
đứng
tên hộ ông Lê Thanh B bà Kim Thị L2. Hiện nay thửa đất số 505 tờ bản đồ số 11
diện tích 192,5m
2
do vợ chồng ông Nguyễn Văn P Thị T đang s
dụng, do nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của bà Trần Thị N1
(con gái cụ Trần Thị K1 đã chết) từ cuối năm 2017. Khi vợ chồng ông Nguyễn
Văn P Thị T nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của Trần Thị
N1 tgia đình N1 đã được cấp đổi GCNQSD đất theo VN với diện tích
192,5 m
2
. Các bên đã ký mốc giới quyền sử dụng đất. Về phía UBND xã đã tiến
hành xác minh công khai diện tích thông báo trên loa phát thanh của xã, các
bên không có ý kiến thắc mắc gì về mốc giới và diện tích thửa đất trong đó có sự
nhất trí của hộ gia đình ông Lê Văn C.
Qua kiểm tra hiện trạng thửa đất của 2 gia đình ngày 15/01/2025 thể hiện:
Đối với diện tích đất gia đình ông Văn C, theo giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất năm 2001 diện tích 300 m
2
, qua đo đạc thực tế diện tích là
265,4m
2
trong đó cả bao gồm phần diện tích đất đang tranh chấp
10,9m
2
; Đối với diện tích đất gia đình ông Nguyễn Văn P Thị T, theo
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2001 diện tích 192,5 m
2
, qua đo
đạc thực tế có diện tích là 180,3m
2
; Phần đất tranh chấp giữa 02 gia đình có diện
tích 10,9 m
2
. Về schênh lệch diện tích thực tế với diện tích đất ghi trong giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất của hai gia đình là do tại thời điểm cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất căn cứ vào bản đồ 299 nên số liệu đo đạc không
chính xác, hơn nữa các hộ tự khai nên sự sai số nhất định. Đối với diện
tích đất cấp đổi của hộ ông P, bà T khi UBND xã tiến hành cấp đổi đã công khai
diện tích thông báo cho gia đình ông C được biết, gia đình ông C đã giáp
ranh và không có thắc mắc gì. Việc tranh chấp ranh giới đất giữa hai hộ gia đình
đã được U nhiều lần nhưng không thành. Đến nay các bên có tranh chấp về ranh
giới quyền sử dụng đất. Nay căn cứ theo hiện trạng cũng như thực tế sử dụng
đất, xác định về ranh giới đất của hai gia đình cần tôn trọng mốc giới đã t
trước nên địa phương đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết theo quy định pháp
luật.
6
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân khu vực 10 - Phú Thọ
phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ
Điều 166, Điều 175, 176 Bộ luật dân sự 2015; Điều 95, 166, 167, 203 Luật đất
đai; Điều 147, 157, 244 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Nghị quyết 326 đề nghị xử:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Văn C về việc buộc gia đình
ông P phải trả lại phần diện tích 10,9m
2
tại xã T, tỉnh Phú Thọ.
Về án phí, chi phí tố tụng: Đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn ông Văn C đơn khởi kiện yêu cầu bị
đơn là ông Nguyễn Văn P và bà Lê Thị T phải trả lại diện tích đất lấn chiếm nên
được xác định quan hệ tranh chấp về ranh giới quyền sử dụng đất theo quy định
tại khoản 2 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn có hộ khẩu thường trú tại
T, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc (Nay là T, tỉnh Phú Thọ), tài sản đang tranh
chấp tại T, huyện V (N T, tỉnh Phú Thọ). Do vậy, theo quy định ti
Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án nhân dân Khu vực 10 - Phú Thọ.
Về sự vắng mặt của các đương sự bị đơn ông Nguyễn Văn P những
người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng đã được Toà án triệu tập hợp lệ
đến lần thứ hai vẫn vắng mặt. vậy căn cứ vào Điều 227 Điều 228 của
Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị đơn
những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là đúng quy định pháp luật.
[2]. Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử thấy:
Gia đình ông Văn C thửa đất số 512, tờ bản đồ số 06, diện tích
300m
2
thôn P, T, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc đã được cấp chứng nhận quyền
sử dụng đất số U491313 số vào sổ cấp giấy 00546 QSDĐ do UBND huyện V
cấp ngày 30/11/2001 đứng tên hộ ông Lê Văn C, hiện nay đất chưa được cấp đổi
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà vẫn giữ nguyên hiện trạng.
Gia đình ông Nguyễn Văn P Thị T có thửa đất số 505 tờ bản đồ
số 11 diện tích 192,5 m
2
thôn P, T, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc đã được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CL 319784 cấp ngày 30/10/2017 đứng
tên vợ chồng ông Nguyễn Văn P Thị T, nguồn gốc đất do vợ chồng
ông Phú T2 nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của Thị N ông
7
Trần Văn P2 (Theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày
29/9/2017). Căn cứ theo sổ mục lưu tại UBND T thể hiện: quyển số 01
năm 2000 trang số 145 số thửa số 501 tờ bản đồ số 6 diện tích 140m
2
đứng tên
chủ sử dụng đất là Trần Thị K1. Căn cứ sổ địa chính lưu tại UBND xã T thể
hiện: Quyển số 6 tại trang số 27 tên chủ sử dụng hộ Trần Thị K1 chồng
Văn M thôn P đăng sử dụng thửa đất số 501 tờ bản đồ 06 diện tích 140m
2
.
Trước khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho vợ chồng Phú T2, năm 2015
gia đình bà Thị N đã làm thủ tục xin cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất đối thửa đất nêu trên, UBND xã T (nay là xã T) đã làm các thủ tục hồ sơ cấp
đổi bao gồm: Xác minh nguồn gốc diện tích đất thổ cư của gia đình Lê Thị N
đề ngày 08/6/2015 (BL 82-84), lấy ý kiến khu dân cư đề ngày 08/8/2015(BL 80-
81), lập biên bản kiểm tra hiện trạng đề ngày 05/6/2015 (BL79). Trong tất cả các
văn bản đều thể hiện thửa đất sử dụng ổn định, không tranh chấp về mốc
giới đất với các hộ xung quanh. Qua kiểm tra hiện trạng thửa đất của hộ
Trần Thị K1 (đã chết) do con gái Thị N sử dụng sự thay đổi về hình
dạng và kích thước thửa đất dẫn đến việc tăng diện tích đất. Lý do tăng diện tích
là do sai số trong tính toán và nhẫm lẫn trong quá trình đo đạc vì mốc giới thửa
đất giữa các hộ vẫn để lại cây duối làm cõi giữa các bên hộ giáp ranh”. Bản
thân ông Văn C chủ đất đã vào Xác minh nguồn gốc diện tích đất thổ
của gia đình Thị N đề ngày 08/6/2015 biên bản kiểm tra hiện trạng
đề ngày 05/6/2015 do UBND xã lập. Ngoài ra, xác minh tại UBND xã cũng như
lời trình bày của các đương sự đều cho biết: Khi vợ chồng ông Nguyễn Văn P
Thị T nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của Trần Thị N1 thì gia
đình bà N1 đã được cấp đổi GCNQSD đất theo VN với diện tích 192,5 m
2
.
Các bên đã mốc giới quyền sử dụng đất. Về phía UBND T đã tiến hành
xác minh công khai diện tích thông báo trên loa phát thanh của xã, các bên
không ý kiến thắc mắc về mốc giới diện tích thửa đất trong đó sự
nhất trí của hộ gia đình ông Lê Văn C.
Về thực tế sử dụng đất: Qua xem xét thẩm định tại chỗ, phần diện tích
tranh chấp 10,9m² hiện để trống, chưa công trình xây dựng. Vtrí mốc giới
giữa hai gia đình được giữ ổn định từ trước. Do đó, không căn cứ xác định
vợ chồng ông P, T đã hành vi lấn chiếm đất của gia đình ông C như yêu
cầu khởi kiện. Căn cứ tài liệu, chứng cứ, lời khai của các bên kết quả xem
8
xét thẩm định, Hội đồng xét xử thấy yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn C không
có cơ sở để chấp nhận.
[3]. Về chi phí tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án người đại diện
theo uỷ quyền của nguyên đơn có yêu cầu thành lập Hội đồng định giá tài sản và
xem xét, thẩm định tại chỗ đối với tài sản có tranh chấp, nguyên đơn đã tạm nộp
chi phí số tiền 7.000.000đồng. Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn không
được chấp nhận nên nguyên đơn phải chịu chi phí tố tụng nói trên. Xác nhận
nguyên đơn đã nộp đủ số tiền chi phí tố tụng.
[4] Về án phí: Ông Lê Văn C là người cao tuổi nên được miễn nộp tiền án
phí dân sự sơ thẩm.
Về quan điểm giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nên
cần được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào các Điều 166, Điều 170 Điều 175 Bộ luật Dân sự năm
2015; Điều 166, Điều 170 Điều 203 Luật Đất đai năm 2013; Điều 26, Điều
35, Điều 39, Điều 147, Điều 244, Điều 227 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015; Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12
năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:
Tuyên xử: Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
ông Văn C vviệc buộc ông Nguyễn Văn P Thị T phải trả lại diện
tích 10,9 m² đất cho gia đình ông C.
2. Về án phí dân sự thẩm: Ông Văn C người cao tuổi nên không
phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt có quyền kháng cáo Bản án
trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo
bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được
niêm yết theo quy định của pháp luật.
Nơi nhận:
- VKSND Khu vực 10;
- Phòng THADS Khu vực 10;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
(Đã ký)
Nguyễn Thị Hải
9
Tải về
Bản án số 51/2025/DS-ST Bản án số 51/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 51/2025/DS-ST Bản án số 51/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất