Bản án số 478/2024/DS-PT ngày 27/08/2024 của TAND tỉnh Đồng Tháp về tranh chấp hợp đồng mượn tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 478/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 478/2024/DS-PT ngày 27/08/2024 của TAND tỉnh Đồng Tháp về tranh chấp hợp đồng mượn tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng mượn tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đồng Tháp
Số hiệu: 478/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 27/08/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Trần Thị B - Nguyễn Tấn Đ
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH ĐỒNG THÁP Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 478/2024/DS-PT
Ngày: 27/8/2024
V/v tranh chấp hợp đồng dân sự hụi
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP
Thành phần Hội đồng xét xử phc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Lê Hồng Nước
Các Thẩm phán: Bà Nguyễn Huỳnh Thị Hương Thủy
Bà Nguyễn Thị Thúy Hằng
Thư phiên tòa: Huỳnh Thị Ngọc Trang Thư Tòa án nhân dân
tỉnh Đồng Tháp.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháptham gia phiên tòa:
Trần Thị Điểu - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 20 tháng 8 và ngày 27 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Tòa án
nhân dân tỉnh Đồng Tháp, tiến hành xét xử phúc thẩm vụ án dân sthụ số
276/2024/TLPT-DS ngày 05 tháng 6 năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng
dân sự hụi”.
Do Bản án dân sthẩm số 43/2024/DS-ST ngày 04 tháng 4 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện Tháp Mười bị kháng cáo bị Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân huyện Tháp Mười kháng nghị;
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 429/2024/QĐXXPT
DS ngày 02/7/2024 Quyết định hoãn phiên tòa số 488/2024/QĐPT-DS ngày
29/7/2024, của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Trần Thị B, sinh năm 1963.
Địa chỉ: Ấp C, xã M, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.
Người đại diện theo ủy quyền của bà B: ChThị Cẩm T, sinh năm 1996.
Địa chỉ: Ấp C, xã M, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.
2
- Bị đơn:
1. Ông Nguyễn Tấn Đ (thường gọi là L), sinh năm 1977;
2. Bà Huỳnh Thị Cẩm V, sinh năm 1984.
Cùng địa chỉ: Ấp C, xã M, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Đ, bà V: Chị Nguyễn Thị Thanh T1,
sinh năm 1990;
Địa chỉ: Tổ E, Khóm D, Phường B, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Đ, bà V: Luật sư Hồ Thị
Xuân H, Thị T2 Văn phòng L1 Chi nhánh thành phố C thuộc Đoàn Luật
sư tỉnh Đ.
Chị T, chị T1, luật sư T2 có mặt tại phiên tòa; luật sư H vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trn Th B có ch Lê Th Cm T đại din theo y quyn trình bày:
Nguyên trước đây bà thành lập tổ hùn vốn xoay vòng (gọi hụi) do
chính bà làm tổ trưởng, bà có cho vợ chồng ông Đ (tên thường gọi và trong giấy
hụi là L) và vợ là bà Huỳnh Thị Cẩm V tham gia 21 dây hụi:
- Dây thứ nhất: Khui ngày 20/4/2017 (âm lịch), hụi 5.000.000đ (Năm triệu
đồng), 01 năm khui 03 lần, gồm 17 người tham gia, vợ chồng ông Đ (tên trong
giấy hụi L) tham gia một phần. Vợ chồng ông L (Đ) đóng được 02 lần hụi sống,
đến lần thứ 03 thì vợ chồng ông L hốt, số tiền bà B đã đưa cho vợ chồng ông L là
48.400.000đ (Bốn mươi tám triệu bốn trăm nghìn đồng) có biên nhận. Sau khi hốt
hụi xong vợ chồng ông L đóng cho B được 11 lần hụi chết với số tiền
55.000.000đ (Năm mươi lăm triệu đồng), nhưng đến nay vụ Đông Xuân 2022 vợ
chồng ông L không đóng tiền hụi chết cho B 5.000.000đ (Năm triệu đồng)
và cố tình không đóng cho B làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bà. Hụi còn 03
lần nữa mãn với số tiền còn nợ bà B là 15.000.000đ (Mười triệu đồng).
- Dây hụi thứ hai: Khui ngày 20/4/2017 (âm lịch), hụi 3.000.000đ (Ba triệu
đồng), 01 năm khui 03 lần, gồm 17 người tham gia, vợ chồng ông Đ (tên trong
giấy hụi là L) tham gia 01 phần. Vợ chồng ông L (Đ) đóng được 03 lần hụi sống,
đến lần thứ 04 thì vợ chồng ông L hốt, số tiền B đã giao cho vợ chồng ông L
32.800.000đ (Ba mươi hai triệu tám trăm nghìn đồng), biên nhận. Sau khi
3
hốt hụi xong vợ chồng ông L đóng được cho B được 10 lần hụi chết với số tiền
30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng), nhưng đến vụ Đông Xuân 2022 vợ chồng
ông L không đóng tiền hụi chết cho B 3.000.000đ (Ba triệu đồng) và cố tình
không đóng cho B làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bà. Hụi còn 03 lần nữa
mãn hụi với số tiền còn nợ B là 9.000.000đ (Chín triệu đồng).
- Dây hụi thứ 3: Khui ngày 28/4/2018 (âm lịch), hụi 5.000.000đ (Năm triệu
đồng), 01 năm khui 03 lần, gồm 15 người tham gia, vợ chồng ông Đ (tên trong
giấy hụi là L) tham gia 01 phần. Vợ chồng ông L (Đ) đóng được 01 lần hụi sống,
đến lần thứ 02 thì vợ chồng ông L hốt, số tiền B đã giao cho vợ chồng ông L
là 40.550.000đ (Bốn mươi triệu năm trăm nghìn đồng), biên nhận. Sau khi hốt
hụi xong vợ chồng ông L đóng được cho B được 9 lần hụi chết với số tiền
45.000.000đ (Bốn mươi lăm triệu đồng), nhưng đến vụ Đông Xuân 2022 vợ chồng
ông L không đóng tiền hụi chết cho B 5.000.000đ (Năm triệu đồng). Hụi còn
04 lần nữa mãn hụi (Mãn hụi vào vĐ năm 2023) với số tiền còn nợ B
20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng).
- Dây hụi thứ 4: Khui ngày 28/4/2018 (âm lịch), hụi 3.000.000đ (Ba triệu
đồng), 01 năm khui 03 lần, gồm 15 người tham gia, vợ chồng ông Đ (tên trong
giấy hụi là L) tham gia 01 phần. Vợ chồng ông L (Đ) đóng được 02 lần hụi sống,
đến lần thứ 03 thì vợ chồng ông L hốt, số tiền B đã giao cho vợ chồng ông L
26.700.000đ (Hai mươi sáu triệu bảy trăm nghìn đồng), có biên nhận. Sau khi
hốt hụi xong vợ chồng ông L đóng được cho bà B được 8 lần hụi chết với số tiền
24.000.00(Hai mươi bốn triệu đồng), nhưng đến vụ Đông Xuân 2022 vợ
chồng ông L không đóng tiền hụi chết cho B 3.000.000đ (Ba triệu đồng).
Hụi còn 04 lần nữa mãn hụi (Mãn hụi vào vụ Đ năm 2023) với số tiền còn nợ bà
B là 12.000.000đ (Mười hai triệu đồng).
- Dây hụi thứ 5: Khui ngày 28/8/2018 (âm lịch), hụi 3.000.000đ (Ba triệu
đồng), 01 năm khui 03 lần, gồm 16 người tham gia, vợ chồng ông Đ (tên trong
giấy hụi là L) tham gia 01 phần. Vợ chồng ông L (Đ) đóng được 02 lần hụi sống,
đến lần thứ 03 thì vợ chồng ông L hốt, số tiền B đã giao cho vợ chồng ông L
là 28.500.000đ (Hai mươi tám triệu năm trăm nghìn đồng), có biên nhận. Sau khi
hốt hụi xong vchồng ông L đóng được cho B 7 lần hụi chết với số tiền
21.000.000đ (Hai mươi mốt triệu đồng), nhưng đến vụ Đông Xuân 2022 vchồng
ông L không đóng tiền hụi chết cho bà B là 3.000.000đ (Ba triệu đồng). Hụi còn
06 lần nữa mãng (Mãng hụi vào vụ 3 năm 2023) với số tiền còn nợ B
4
18.000.000đ (Mười tám triệu đồng).
- Dây hụi thứ 6: Khui ngày 28/12/2018 (âm lịch), hụi 5.000.000đ (Năm
triệu đồng, 01 năm khui 03 lần, gồm 14 người tham gia, vợ chồng ông Đ (tên
trong giấy hụi L) tham gia 01 phần. Vợ chồng ông L (Đ) đóng được 02 lần hụi
sống, đến lần thứ 03 thì vợ chồng ông L hốt, stiền B đã giao cho vợ chồng
ông L 39.190.000đ (Ba mươi chín triệu một trăm chín mươi nghìn đồng),
biên nhận. Sau khi hốt hụi xong vợ chồng ông L đóng được cho bà B được 6 lần
hụi chết với stiền là 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng), nhưng đến nay vụ Đông
Xuân 2022 vợ chồng ông L không đóng tiền hụi chết cho B 5.000.000đ (Năm
triệu đồng). Hụi còn 05 lần nữa mãng (Mãng vụ Thu năm 2023) với số tiền
còn nợ bà B là 25.000.000đ (Hai mươi lăm triệu đồng).
- Dây hụi thứ 7: Khui ngày 10/8/2019 (âm lịch), hụi 5.000.000đ (Năm triệu
đồng, 01 năm khui 03 lần, gồm 15 người tham gia, vợ chồng ông Đ (tên trong
giấy hụi là L) tham gia 01 phần. Vợ chồng ông L (Đ) đóng được 01 lần hụi sống,
đến lần thứ 02 thì vợ chồng ông L hốt, số tiền B đã giao cho vợ chồng ông L
40.550.000đ (Bốn mươi triệu năm trăm năm mươi nghìn đồng), biên nhận.
Sau khi hốt hụi xong vợ chồng ông L đóng được cho B được 5 lần hụi chết với
số tiền là 25.000.000đ (Hai mươi lăm triệu đồng), nhưng đến nay vụ Đông Xuân
2022 vợ chồng ông L không đóng tiền hụi chết cho B 5.000.000đ (Năm triệu
đồng). Hụi n 08 lần nữa mãn với số tiền còn nợ B 40.000.000đ (Bốn mươi
triệu đồng).
- Dây hụi thứ 8: Khui ngày 25/11/2019 (âm lịch), hụi 3.000.000đ (Ba triệu
đồng), 01 năm khui 03 lần, gồm 15 người tham gia, vợ chồng ông Đ (tên trong
giấy hụi là L) tham gia 01 phần. Vợ chồng ông L (Đ) đóng được 02 lần hụi sống,
đến lần thứ 03 thì vợ chồng ông L hốt, số tiền B đã giao cho vợ chồng ông L
là 25.380.000đ (Hai mươi lăm triệu ba trăm tám mươi nghìn đồng), biên nhận.
Sau khi hốt hụi xong vợ chồng ông L đóng được cho B được 3 lần hụi chết với
số tiền 9.000.000đ (Chín triệu đồng), nhưng đến nay vụ Đông Xuân 2022 vợ
chồng ông L không đóng tiền hụi chết cho B 3.000.000đ (Ba triệu đồng).
Hụi còn 09 lần nữa mãn với số tiền còn nợ B 27.000.000đ (Hai mươi bảy
triệu đồng).
- Dây hụi thứ 9: Khui ngày 30/4/2020 (âm lịch), hụi 5.000.000đ (Năm triệu
đồng, 01 năm khui 03 lần, gồm 15 người tham gia, vợ chồng ông Đ (tên trong
5
giấy hụi là L) tham gia 01 phần. Vợ chồng ông L (Đ) đóng được 01 lần hụi sống,
đến lần thứ 02 thì vợ chồng ông L hốt, số tiền B đã giao cho vợ chồng ông L
38.600.000đ (Ba mươi tám triệu sáu trăm nghìn đồng), biên nhận. Sau khi
hốt hụi xong vợ chồng ông L đóng được cho bà B được 3 lần hụi chết với số tiền
15.000.000đ (Mười lăm triệu đồng), nhưng đến nay vụ Đông Xuân 2022 vợ
chồng ông L không đóng tiền hụi chết cho bà B là 5.000.000đ (Năm triệu đồng).
Hụi còn 10 lần nữa mãn với số tiền còn nợ B là 50.000.000đ (Năm mươi lăm
triệu đồng).
- Dây hụi thứ 10: Khui ngày 25/7/2020 (âm lịch), hụi 5.000.000đ (Năm
triệu đồng, 01 năm khui 03 lần, gồm 16 người tham gia, vợ chồng ông Đ (tên
trong giấy hụi L) tham gia 01 phần. Vợ chồng ông L (Đ) đóng được 01 lần hụi
sống, đến lần thứ 02 thì vợ chồng ông L hốt, stiền B đã giao cho vợ chồng
ông L 42.420.000đ (Bốn mươi hai triệu bốn trăm hai mươi nghìn đồng), không
biên nhận. Sau khi hốt hụi xong vợ chồng ông L đóng được cho B được 2
lần hụi chết với stiền 10.000.00(Mười triệu đồng), nhưng đến nay vụ Đông
Xuân 2022 vợ chồng ông L không đóng tiền hụi chết cho B 5.000.000đ (Năm
triệu đồng). Hụi còn 12 lần nữa mãn với số tiền còn nợ bà B là 60.000.000đ (Sáu
mươi triệu đồng). Đến thời điểm này nợ 30.000.000 đồng.
- Dây hụi thứ 11: Khui ngày 25/12/2020 (âm lịch), hụi 5.000.000đ (Năm
triệu đồng, 01 năm khui 03 lần, gồm 14 người tham gia, vchồng ông Đ (tên
trong giấy hụi là L) tham gia 02 phần. +Phần 1: Vợ chồng ông L hốt đầu, số tiền
B đã giao cho vợ chồng ông L 40.750.000đ (Bốn mươi triệu bảy trăm năm
mươi nghìn đồng). +Phần 2: Vợ chồng ông L (Đông) đóng được 01 lần hụi sống,
đến lần thứ 02 thì vợ chồng ông L hốt, số tiền B đã giao cho vợ chồng ông L
là 39.500.000đ (Ba mươi chín triệu năm trăm nghìn đồng), có biên nhận. Sau khi
hốt 02 phần hụi xong vợ chồng ông L đóng được cho B được 1 lần hụi chết với
số tiền là 10.000.000đ (Mười triệu đồng), nhưng đến nay vụ Đông Xuân 2022 vợ
chồng ông L không đóng tiền hụi chết cho B 10.000.00(Mười triệu đồng).
Hụi còn 11 lần nữa mãn với số tiền còn nợ B 110.000.000đ (Một trăm mười
triệu đồng). Đến thời điểm còn nợ 60.000.000 đồng.
- Dây hụi thứ 12: Khui ngày 25/4/2021 (âm lịch), hụi 5.000.000đ (Năm
triệu đồng, 01 năm khui 03 lần, gồm 16 người tham gia, vợ chồng ông Đ (tên
trong giấy hụi L) tham gia 01 phần. Vợ chồng ông L (Đ) đóng được 01 lần hụi
sống, đến lần thứ 02 thì vợ chồng ông L hốt, stiền B đã giao cho vợ chồng
6
ông L 39.900.000đ (Ba mươi chín triệu chín trăm nghìn đồng), không biên
nhận. Sau khi hốt hụi xong vợ chồng ông L không đóng cho B tiền hụi chết
cho B là 5.000.000đ (Năm triệu đồng). Hụi còn 13 lần nữa mãng với số tiền
còn nợ B 65.000.000đ (Sáu ơi lăm triệu đồng). Đến thời điểm n nợ
30.000.000 đồng.
- Dây hụi thứ 13: Khui ngày 06/04/2020 m lịch), hụi 1.000.000đ (Một
triệu đồng), 01 tháng khui 01 lần, gồm 20 người tham gia, vợ chồng ông Đ (tên
trong giấy hụi L) tham gia 02 phần.
+ Phần 1: Vợ chồng ông L đóng được 04 lần hụi sống, lần thứ 5 hốt, số tiền
B đã giao cho vợ chồng ông L 13.850.000đ (Mười ba triệu tám trăm m
mươi nghìn đồng), không có biên nhận.
+ Phần 2: Vợ chồng ông L (Đông) đóng được 07 lần hụi sống, đến lần thứ
08 thì vợ chồng ông L hốt, số tiền B đã giao cho vợ chồng ông L 15.080.000đ
(Mười lăm triệu không trăm tám mươi nghìn đồng), không biên nhận. Như vậy,
một tháng dây hụi này thì vợ chồng ông L đóng cho B số tiền hụi chết
2.000.000đ (Hai triệu đồng). Sau khi hốt 02 phần hụi xong vợ chồng ông L đóng
được cho bà B được 10 lần hụi chết với số tiền 20.000.000đ (Hai mươi triệu
đồng). Hụi đến nay đã mãn nhưng còn 3 lần hụi chết vợ chồng ông L chưa đóng
cho bà B với số tiền là 6.000.000đ (Sáu triệu đồng).
- Dây hụi thứ 14: Khui ngày 10/5/2020 (âm lịch), hụi 1.000.000đ (Một triệu
đồng), 01 tháng khui 01 lần, gồm 20 người tham gia, vợ chồng ông Đ (tên trong
giấy hụi là L) tham gia 02 phần. +Phần 1: Vợ chồng ông L đóng được 02 lần hụi
sống, lần thứ 3 hốt, số tiền B đã giao cho vợ chồng ông L 14.550.000đ (Mười
bốn triệu năm trăm năm mươi nghìn đồng), không biên nhận. +Phần 2: Vợ
chồng ông L (Đông) đóng được 03 lần hụi sống, đến lần thứ 04 thì vợ chồng ông
L hốt, số tiền B đã giao cho vchồng ông L 14.800.00(Mười bốn triệu
tám trăm nghìn đồng), không có biên nhận. Như vậy, một tháng ở dây hụi này thì
vợ chồng ông L đóng cho B số tiền hụi chết 2.000.000đ (Hai triệu đồng).
Sau khi hốt 02 phần hụi xong vợ chồng ông L đóng được cho B được 12 lần
hụi chết với số tiền 26.000.00(Hai mươi sáu triệu đồng). Nhưng đến nay còn
5 lần hụi chết nữa vợ chồng ông L chưa đóng cho B số tiền 10.000.00
(Mười triệu đồng).
- Dây hụi thứ 15: Khui ngày 25/5/2020 (âm lịch), hụi 1.000.000đ (Một triệu
7
đồng), 01 tháng khui 01 lần, gồm 20 người tham gia, vợ chồng ông Đ (tên trong
giấy hụi là L) tham gia 02 phần. +Phần 1: Vợ chồng ông L đóng được 01 lần hụi
sống, lần thứ 2 hốt, số tiền B đã giao cho vợ chồng ông L 13.560.000đ (Mười
ba triệu năm trăm sáu mươi nghìn đồng), không biên nhận. +Phần 2: Vợ chồng
ông L (Đông) đóng được 04 lần hụi sống, đến lần thứ 05 thì vợ chồng ông L hốt,
số tiền bà B đã giao cho vợ chồng ông L 14.150.000đ (Mười bốn triệu một trăm
năm mươi nghìn đồng), không biên nhận. Như vậy, một tháng dây hụi này
thì vchồng ông L đóng cho B stiền hụi chết là 2.000.000đ (Hai triệu đồng).
Sau khi hốt 02 phần hụi xong vchồng ông L đóng được cho bà B được 9 lần hụi
chết với số tiền là 18.000.000đ (Mười tám triệu đồng). Nhưng đến nay còn 6 lần
hụi chết nữa vợ chồng ông L chưa đóng cho B số tiền 12.000.000đ (Mười
hai triệu đồng).
- Dây hụi thứ 16: Khui ngày 25/8/2020 (âm lịch), hụi 1.000.000đ (Một triệu
đồng), 01 tháng khui 01 lần, gồm 23 người tham gia, vợ chồng ông Đ (tên trong
giấy hụi là L) tham gia 05 phần.
+ Phần hụi 1: Vợ chồng ông L hốt đầu, số tiền bà B đã giao cho vợ chồng
ông L là 16.300.000đ (Mười sáu triệu ba trăm nghìn đồng), không có biên nhận.
+ Phần hụi 2: Vợ chồng ông L (Đông) đóng được 03 lần hụi sống, đến lần
thứ 04 thì vợ chồng ông L hốt, số tiền B đã giao cho vchồng ông L
15.460.000đ (Mười lăm triệu bốn trăm sáu mươi nghìn đồng), không biên nhận.
+ Phần hụi 3: Vợ chồng ông L đóng được 05 lần hụi sống, đến lần thứ 06
thì vợ chồng ông L hốt, số tiền bà B đã giao cho vợ chồng ông L 16.250.000đ
(Mười sáu triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng), không biên nhận.
+ Phần hụi 4: Vợ chồng ông L đóng được 07 lần hụi sống, đến lần thứ 08
thì vợ chồng ông L hốt, số tiền bà B đã giao cho vợ chồng ông L 17.300.000đ
(Mười bảy triệu ba trăm nghìn đồng), không biên nhận.
+ Phần hụi 5: Vợ chồng ông L đóng được 08 lần hụi sống, đến lần thứ 09
thì vợ chồng ông L hốt, số tiền bà B đã giao cho vợ chồng ông L 17.320.000đ
(Mười bảy triệu ba trăm hai mươi nghìn đồng), không biên nhận.
Như vậy, một tháng dây hụi này thì vợ chồng ông L đóng cho bà B số
tiền hụi chết là 5.000.000đ (Năm triệu đồng). Sau khi hốt 05 phần hụi xong vợ
chồng ông L đóng được cho B được 4 lần hụi chết với số tiền là 20.000.000đ
(Hai mươi triệu đồng). Nhưng đến nay còn 12 lần hụi chết nữa vợ chồng ông L
chưa đóng cho bà B số tiền là 60.000.000đ (Sáu mươi triệu đồng).
8
- Dây hụi thứ 17: Khui ngày 20/10/2020 m lịch), hụi 1.000.000đ (Một
triệu đồng), 01 tháng khui 01 lần, gồm 18 người tham gia, vợ chồng ông Đ (tên
trong giấy hụi L) tham gia 02 phần.
+ Phần 1: Vợ chồng ông L đóng được 01 lần hụi sống, lần thứ 2 hốt, số
tiền B đã giao cho vợ chồng ông L 12.160.000đ (Mười hai triệu một trăm
sáu mươi nghìn đồng), không có biên nhận.
+ Phần 2: Vợ chồng ông L (Đông) đóng được 03 lần hụi sống, đến lần thứ
04 thì vợ chồng ông L hốt, số tiền B đã giao cho vợ chồng ông L 13.020.000đ
(Mười ba triệu không trăm hai mươi nghìn đồng), không có biên nhận. Như vậy,
một tháng dây hụi này thì vợ chồng ông L đóng cho B số tiền hụi chết
2.000.000đ (Hai triệu đồng). Sau khi hốt 02 phần hụi xong vợ chồng ông L đóng
được cho B được 8 lần hụi chết với số tiền 16.000.000đ (Mười sáu triệu
đồng).
- Dây th18: Khui ngày 15/01/2021 (âm lịch), hụi 1.000.000đ (Một triệu
đồng), 01 tháng khui 01 lần, gồm 19 người tham gia, vợ chồng ông Đ (tên trong
giấy hụi là L) tham gia 02 phần.
+ Phần 1: Vợ chồng ông L đóng được 01 lần hụi sống, lần thứ 2 hốt, số tiền
B đã giao cho vchồng ông L là 13.550.000đ (Mười ba triệu năm trăm năm
mươi nghìn đồng), không có biên nhận.
+ Phần 2: Vợ chồng ông L (Đông) đóng được 02 lần hụi sống, đến lần thứ
03 thì vợ chồng ông L hốt, số tiền B đã giao cho vợ chồng ông L 13.000.000đ
(Mười ba triệu đồng), không có biên nhận. Như vậy, một tháng ở dây hụi này thì
vợ chồng ông L đóng cho B số tiền hụi chết 2.000.000đ (Hai triệu đồng).
Sau khi hốt 02 phần hụi xong vchồng ông L đóng được cho bà B được 6 lần hụi
chết với số tiền là 12.000.000đ (Mười hai triệu đồng). Nhưng đến nay còn 12 lần
hụi chết nữa vợ chồng ông L chưa đóng cho B số tiền 24.000.000đ (Hai
mươi bốn triệu đồng).
- Dây th19: Khui ngày 15/02/2021 (âm lịch), hụi 1.000.000đ (Một triệu
đồng), 01 tháng khui 01 lần, gồm 20 người tham gia, vợ chồng ông Đ (tên trong
giấy hụi là L) tham gia 02 phần.
+ Phần 1: Vợ chồng ông L hốt đầu, số tiền bà B đã giao cho vợ chồng ông
L 14.050.000đ (Mười bốn triệu không trăm m mươi nghìn đồng), không
biên nhận.
+ Phần 2: Vợ chồng ông L (Đông) đóng được 01 lần hụi sống, đến lần thứ
9
02 thì vợ chồng ông L hốt, số tiền B đã giao cho vợ chồng ông L 13.220.000đ
(Mười ba triệu hai trăm hai mươi nghìn đồng), không có biên nhận. Như vậy, một
tháng dây hụi này thì vợ chồng ông L đóng cho bà B số tiền hụi chết
2.000.000đ (Hai triệu đồng). Sau khi hốt 02 phần hụi xong vợ chồng ông L đóng
được cho B được 6 lần hụi chết với số tiền 12.000.00(Mười hai triệu
đồng). Nhưng đến nay còn 14 lần hụi chết nữa vợ chồng ông L chưa đóng cho
B số tiền là 28.000.000đ (Hai mươi tám triệu đồng).
- Dây thứ 20: Khui ngày 20/02/2021 (âm lịch), hụi 1.000.000đ (Một triệu
đồng), 01 tháng khui 01 lần, gồm 18 người tham gia, vợ chồng ông Đ (tên trong
giấy hụi là L) tham gia 03 phần.
+ Phần hụi 1: Vợ chồng ông L đóng được 02 lần hụi sống, đến lần thứ 03
thì vợ chồng ông L hốt, số tiền bà B đã giao cho vợ chồng ông L 10.940.000đ
(Mười triệu chín trăm bốn mươi nghìn đồng), không có biên nhận.
+ Phần hụi 2: Vợ chồng ông L (Đông) đóng được 06 lần hụi sống, đến lần
thứ 07 thì vợ chồng ông L hốt, số tiền B đã giao cho vchồng ông L
13.280.000đ (Mười ba triệu hai trăm tám mươi nghìn đồng), không có biên nhận.
+ Phần hụi 3: Vợ chồng ông L (Đông) đóng được 07 lần hụi sống, đến lần
thứ 08 thì vợ chồng ông L hốt, số tiền B đã giao cho vchồng ông L
12.240.000đ (Mười hai triệu hai trăm bốn mươi nghìn đồng), không biên nhận.
Như vậy, một tháng y hụi này thì vợ chồng ông L đóng cho bà B số tiền hụi
chết là 3.000.000đ (Ba triệu đồng). Sau khi hốt 03 phần hụi xong vợ chồng ông L
không tiếp tục đóng tiền hụi chết cho B, 12 lần hụi chết với số tiền là
36.000.000đ (Ba mươi sáu triệu đồng).
- Dây th21: Khui ngày 10/04/2021 (âm lịch), hụi 1.000.000đ (Một triệu
đồng), 01 tháng khui 01 lần, gồm 22 người tham gia, vợ chồng ông Đ (tên trong
giấy hụi là L) tham gia 02 phần.
+ Phần 1: Vợ chồng ông L đóng được 01 lần hụi sống, lần thứ 2 hốt, số tiền
B đã giao cho vợ chồng ông L 13.940.000đ (Mười ba triệu chín trăm bốn
mươi nghìn đồng), không có biên nhận.
+ Phần 2: Vợ chồng ông L (Đông) đóng được 05 lần hụi sống, đến lần thứ
06 thì vợ chồng ông L hốt, số tiền B đã giao cho vợ chồng ông L 13.600.000đ
(Mười ba triệu sáu trăm nghìn đồng), không có biên nhận. Như vậy, một tháng ở
dây hụi này thì vchồng ông L đóng cho B số tiền hụi chết là 2.000.000đ (Hai
triệu đồng). Sau khi hốt 02 phần hụi xong vợ chồng ông L không tiếp tục đóng
10
hụi chết cho B, 18 lần hụi chết với số tiền 36.000.000đ (Ba ơi sáu triệu
đồng). Đã mãn.
B nhiều lần đến gom tiền hụi thì vợ chồng ông L không đóng cho
trong khi số tiền hụi trên theo tháng, theo mùa lúa rất lớn làm ảnh hưởng đến
quyền lợi của B. Nay, B làm đơn yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Tháp
Mười giải quyết buộc ông Đ (L) và bà V trả cho bà B số tiền 143.000.000đ (Một
trăm bốn mươi ba triệu đồng) và đơn khởi kiện bổ sung 14/8/2023, bà B yêu cầu
ông Đ bà V tiếp tục trả số tiền hụi chết t ngày 22/02/2022 đến nay
392.000.000 đồng (Ba trăm chín mươi hai triệu đồng), tổng cộng: 535.000.000
đồng.
Bị đơn anh Nguyễn Tấn Đ chị Nguyễn Thị Cẩm V1 trình bày: Thừa
nhận có tham gia hụi do bà B làm đầu thảo, nhưng lâu quá không nhớ bao nhiêu
dây, hiện nay còn nhụi chết. Khi tham gia hụi B ghi tên Đ, B giao tiền anh
Đ viết biên nhận, biên nhận nào chữ viết của anh Đ, anh Đ đồng ý trả tiền
hụi chết cho B. Còn ai viết tên L, anh Đ chị V1 không biết, chị V1 không
viết tên L để nhận tiền nên không đồng ý trả tiền hụi chết cho bà B. Hiện nay còn
nợ B dây hụi đầu tiên 15.000.000 đồng, đồng ý trả 15.000.000 đồng nhưng xin
trả dần mỗi tháng 1.000.000 đồng.
Chị V1 không đồng ý cung cấp chữ Lép do chị viết, vì tên chị là V1.
Tại Bản án dân sự thẩm số: 43/2024/DS-ST ngày 04/4/2024, ca Tòa án
nhân dân huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp đã xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị B.
Buộc ông Nguyễn Tấn Đ (L) và Huỳnh Thị Cẩm V trách nhiệm trả
cho Trần Thị B tiền hụi chết của 21 dây hụi là 527.000.000 đồng (Năm trăm
hai mươi bảy triệu đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền
còn phải thi hành án theo lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự
năm 2015.
* Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Ông Nguyễn Tấn Đ (Lép) và Huỳnh Cẩm V phải nộp 25.080.000 đồng
án phí dân sự sơ thẩm;
11
- Hoàn trả cho Trần Thị B 3.575.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp
theo Biên lai thu số 0007620 ngày 18 tháng 3 năm 2022 tại Chi cục thi hành án
dân sự huyện Tháp Mười.
Ngoài ra Bản án dân s thẩm còn tuyên về hướng dẫn thi hành án, thi
hn kháng cáo.
Ngày 19/4/2024, ông Nguyễn Tấn Đ, Huỳnh Thị Cẩm V yêu cầu xét xử
lại toàn bộ Bản án thẩm số: 43/2024/DS-ST ngày 04 tháng 4 năm 2024, của
Tòa án nhân dân huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp.
Ngày 19/4/2024, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Tháp Mười
quyết định kháng nghị đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm
vụ án, sửa bản án theo hướng:
- Chấp nhận mt phần yêu cầu của bà Trần Thị B về việc buộc ông Nguyễn
Tấn Đ (Lép) Huỳnh Thị Cẩm V có trách nhiệm liên đới trả cho bà Trần Thị
B tiền hụi chết của 10 dây hụi mùa (từ dây hụi s1 đến dây hụi số 9 dây hụi
số 11) với tổng số tiền là 237.000.000 đồng, không tính lãi suất.
- Không chấp nhận một phần yêu cầu của bà Trần Thị B về việc buộc ông
Nguyễn Tấn Đ (Lép) và bà Huỳnh Thị Cẩm V trách nhiệm liên đới trả cho bà
Trần Thị B tiền hụi chết của 11 dây hụi (trong đó có 02 dây hụi mùa là dây hụi số
10, số 12 9 dây hụi tháng từ dây 13 đến dây 21) với tổng số tiền 290.000.000
đồng, không tính lãi suất.
Ti phiên tòa phúc thm:
Ông Nguyễn Tấn Đ, Huỳnh Thị Cẩm V vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng
cáo.
Chị T đại diện theo ủy quyền của B không đồng ý theo yêu cầu kháng
cáo của ông Nguyễn Tấn Đ, bà Huỳnh Thị Cẩm V; giữ nguyên Bản án dân sự sơ
thẩm số: 43/2024/DS-ST ngày 04/4/2024 ca Tòa án nhân dân huyện Tháp Mười,
tỉnh Đồng Tháp.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Đ, bà V luật Thị T2
trình bày:
Ông Đ chỉ thừa nhận dây hụi thứ nhất có tham gia, có hốt hụi và còn thiếu
lại 15.000.000 đồng hụi chết, ông Đ đồng ý trả. Còn 20 dây hụi còn lại ông Đ
không thừa nhận tham gia không tên Đ trong giấy hụi những người
12
làm chứng cho bà B chỉ xác định có ông Đ tham gia nhưng không biết tham gia
dây hụi nào, bao nhiêu dây hụi việc lập danh sách hụi cũng không đúng Nghị định
số 19/2019 của Chính phủ về hướng dẫn chơi hụi. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định
về việc V không đồng ý cung cấp chữ viết để giám định chưa phù hợp
nghĩa vụ chứng minh là của B. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu
cầu kháng cáo của ông Đ, bà V sửa Bản án dân sự sơ thẩm.
Đại din Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp phát biểu ý kiến:
V vic tuân theo pháp lut t tng
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán: Thẩm phán đã thực
hiện đúng, đầy đủ quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và các văn bản quy phạm
pháp luật từ khi thụ lý giải quyết vụ việc để xét xử phúc thẩm đến trước thời điểm
nghị án.
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Hội đồng xét xử phúc thẩm, Thư
phiên tòa:
Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng, đầy đủ các quy định
Bộ luật Tố tụng dân sự về trình tự xét xử phúc thẩm.
Về việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng:
Người tham gia tố tụng đã thực hiện quyền và nghĩa vụ đúng theo quy định
của Bộ luật tố tụng dân sự.
V vic gii quyết v án:
Ông Nguyễn Tấn Đ và bà Huỳnh Thị Cẩm V kháng cáo yêu cầu xét xử lại
tòan bộ Bản án dân sự sơ thẩm số: 43/2024/DS-ST ngày 04/4/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Tháp Mười theo hướng là ông Đ và bà V đồng ý trả cho bà B số
tiền nợ hụi là 15.000.000 đồng.
Ngày 19 tháng 4 năm 2024, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện
Tháp Mười ban hành Kháng nghị số 05/QĐ-VKS-DS sửa án sơ thẩm theo hướng:
- Chấp nhận mt phần yêu cầu của bà Trần Thị B về việc buộc ông Nguyễn
Tấn Đ (Lép) Huỳnh Thị Cẩm V có trách nhiệm liên đới trả cho bà Trần Thị
B tiền hụi chết của 10 dây hụi mùa (t dây hụi số 1 đến dây hụi số 9 dây hụi
số 11) với tng s tiền là 237.000.000 đồng, không tính lãi suất.
- Không chp nhn mt phn yêu cu ca bà Trần Thị B v vic buc ông
ông Nguyễn Tấn Đ (Lép) Huỳnh Thị Cẩm V trách nhiệm liên đới trả cho
13
Trần Thị B tiền hụi chết của 11 dây hụi (trong đó có 02 dây hi mùa là dây hụi
số 10, số 12 và 9 dây hi tháng t dây 13 đến dây 21) vi tng s tin
290.000.000 đồng, không tính lãi suất.
Trên cơ sở nghiên cu, xem xét các tài liu chng c có trong h sơ vụ án,
yêu cầu khởi kiện ca các đương s trong v án, yêu cầu kháng cáo của bị đơn
nhận thấy:
Việc cấp thẩm tuyên buộc ông Nguyễn Tấn Đ (Lép) Huỳnh Thị
Cẩm V trách nhiệm liên đới trả cho bà Trần Thị B tiền hụi chết của 10 dây hụi
mùa (t dây hụi số 1 đến dây hụi số 9 dây hụi số 11) với tng s tin
237.000.000 đồng, không tính lãi suất là có căn cứ, đúng pháp luật.
Tuy nhiên, việc cấp thẩm tuyên buộc ông Nguyễn Tấn Đ (Lép) bà
Huỳnh Thị Cẩm V trách nhiệm liên đới trả cho bà Trần Thị B tiền hụi chết của
11 dây hụi (trong đó có 02 dây hi mùa là dây hụi số 10, số 12 và 09 dây hi tháng
t dây hi s 13 đến dây hi s 21) vi tng s tiền là 290.000.000 đồng, không
tính lãi suất là chưa phù hợp quy định pháp luật. Bởi lẽ:
Không có chng c chng minh ông Đ, bà V có tham gia chơi 11 dây hi
này. Tòa án có tiến hành xác minh ghi li khai của 16 người tham gia chơi hụi do
bà B làm ch hi, h đều trình bày C tham gia nhiu dây hi do b B lm ch
hi, trong đ c ông Đ tên thưng gi l L tham gia chơi (nhng dây hi no h
tham gia th đu thy c ông Đ tham gia chơi), nhưng do mn hn lâu nên không
nh c th bao nhiêu dây. Li khai của 16 người làm chng này ch chng minh
ông Đ (tên thường gi L) có tham gia chơi hụi, nhưng chơi chung vi h bao nhiêu
dây, c th nhng dây hi nào thì nhng người làm chng này không th xác định
chính xác đưc.
Không có chng c đ chng minh ông Đ, bà V có ht hi và vic bà B đã
giao nhn tin ht cho ông Đ, bà V ti 11 dây hi này. C th cùng là một người
chơi hụi (là ông Đ, bà V) nhưng 10 dây hi khi giao tin trúng hi có ký biên
nhn, 11 dây hi li không có ký biên nhn. Bà B ni ra vic giao hi và lp biên
bn giao nhn hi là do ch Lê Thị Cẩm T (con bà B) thc hin, khi ch T đi học
xa không th ng dn vic bà B yêu cu v chng ông Đ, bà V viết biên nhn
là không có sở chp nhn. Bi vic yêu cu phía người chơi viết biên nhn giao
tin là mt vic làm thông thường ca ch hi, bà B làm ch hụi đãu, m nhiu
dây hi nên ni ra vic không biết cách yêu cầu người chơi hụi viết biên nhn là
không phù hợp theo quy định pháp luật.
14
Đặc biệt đối vi 02 dây hi mùa là dây s 10 và dây s 12 cùng mt loi
hi mùa như c dây hi mùa khác nhưng lại có 10 dây có biên nhn giao tin hi
cho ông Đ, bà V, li có 02 dây hi không có biên nhn giao tin. Xét v mt thi
gian bà V m các dây hi mùa liên tc, t dây hi mùa s 01 đến dây hi mùa s
09 có làm biên nhn giao tiền, đến dây hụi mùa số 10 không biên nhn giao
tin, dây hi s 11 có biên nhn giao tin, dây hi s 12 li không có biên nhn
dây giao tin là điu không hp lý. Đối vi dây hi mùa s 10 (mãn vào ngày
25/5/2025 DL) và dây hi mùa s 12 (mãn vào ngày 10/6/2025DL) li là nhng
dây hụi chưa mãn.
Qua đối chiếu các dây hi, theo li khai của nguyên đơn nhận thấy: Đối vi
dây hi mùa s 12, bà B khai m hi ngày 05/6/2021 DL, ông Đ, bà V ht hi
ln m hi th hai tc là ngày 05/10/2021 DL và bà B khai đã giao nhn tin trúng
hi cho ông Đ, bà V. Tuy nhiên vào thời điểm ngày 05/10/2021 DL thì ông Đ, bà
V đã bắt đầu vi phm nghĩa v đóng hi chết ti các dây hi th 16 (vi phm ngày
11/9/2021 DL), dây hi th 20 (vi phm ngày 01/10/2021 DL), dây hi th 21 (vi
phm ngày 21/9/2021 DL). Như vậy ông Đ, bà V đã n tin hi chết ti các dây
hi th 16, 20, 21 mà bà B còn cho ông Đ, bà V ht hi và giao luôn tin trúng
hi cho ông Đ, bà V mà không cn tr n hi chết ti các dây hi th 16, 20, 21
là không phù hp.
Riêng đối vi hay hi th 16 nhn thy bà B khai trong 23 phn hi ca dây
hi th 16 có mt phn hi ca một người tên C (là anh ca ông Đ) nhưng ông Đ
đã ht phần hụi này; Do đó bà B yêu cầu ông Đ, bà V có trách nhiệm liên đới trả
n hi chết phn hi ca anh C tham gia chơi mà ông Đ đứng ra hốt. Xét thấy tại
cấp phúc thẩm đã tiến hành lấy lời khai của ông Nguyễn Văn C1 và ông C1 khai
có tham gia chơi 01 dây hụi do bà Trần Thị B làm chủ hụi, ông C1 đã hốt hụi và
đóng hụi đầy đủ cho B. Dây hụi ông C1 tham gia mở ngày nào mãn ngày
nào thì ông C1 không nhớ, hiện ông C1 không còn nợ tiền hụi của bà B.
T nhng phân tích nêu trên nhn thấy cấp thẩm tuyên buc ông Nguyễn
Tấn Đ (Lép) Huỳnh Thị Cẩm V có trách nhiệm liên đới trả cho bà Trần Thị
B tiền hụi chết của 11 dây hụi (trong đó có 02 dây hi mùa là dây hụi số 10, số 12
và 9 dây hi tháng t dây 13 đến dây 21) vi tng s tiền 290.000.000 đồng,
không tính lãi suất là không có căn cứ.
Xét kháng cáo của ông Nguyễn Tấn Đ Huỳnh Thị Cẩm V không
có căn cứ để chấp nhận như nhận định trên.
15
Từ những phân tích trên, căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa một phần bản án sơ thẩm s:
43/2024/DS-ST ngày 04/4/2024 ca Tòa án nhân dân huyện Tháp Mười, tỉnh
Đồng Tháp; không chấp nhận nội dung kháng cáo của ông Nguyễn Tấn Đ
Huỳnh Thị Cẩm V. Chấp nhận Kháng nghị s05/QĐ-VKS-DS ngày 19 tháng 4
năm 2024, của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Tháp Mười.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án được xem
xét tại phiên toà, lời phát biểu của Luật sư và li phát biu ca Kim sát viên tại
phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: ông Nguyễn Tấn Đ, Huỳnh Thị Cẩm V kháng cáo
trong hạn luật định. Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm thụ lý xét xử theo trình tự phúc
thẩm là đúng với Điều 273, 293 Bộ luật tố dân sự năm 2015.
[2] Ông Nguyễn Tấn Đ, Huỳnh Thị Cẩm V yêu cầu xét xử lại toàn b
Bản án sơ thẩm số: 43/2024/DS-ST ngày 04 tháng 4 năm 2024, của Tòa án nhân
dân huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp. Ông Đ, V đồng ý trả cho B
15.000.000 đồng tiền nợ hụi chết.
Hội đồng xét xử xét thấy: Đối với yêu cầu kháng cáo của ông Đ, bà V chỉ
đồng ý trả cho bà B 15.000.000đồng do dây hụi thứ 1 ông Đ có hốt có ký tên nên
đồng ý trả cho bà B còn từ dây hụi thứ 2 đến thứ 9 và dây hụi thứ 11 ông Đ, bà V
không đồng ý ông Đ cho rằng ông tên Đ chkhông phải tên L. Lời trình bày
này của ông Đ và bà V không phợp bởi lẽ: Căn cứ vào lời khai của ông Trần
Văn T3 hiện là Bí thư Chi bộ, Trưởng ấp C xã M, huyện T và những lời khai của
những người tham gia hụi chung đều khẳng định ông Nguyễn Tấn Đ tên gọi
khác là L, mọi người thường gọi L, không gọi tên Đ tại Biên nhận mượn vốn
xoay vòng ngày 10/12/2017, ghi nội dung: Chị G (Lép) mượn vốn xoay
vòng số tiền 48.400.000 đồng ….” Người nhận tên Đ ông Đ, bà V đều
thừa nhận chtrong Biên nhận này. Điều này cho thấy ông Đ, bà V đã thừa
nhận ông Đ còn tên gọi khác “Lép” tên L trong danh sách hụi phù hợp với
tên L là tên thường gọi của ông Đ. Mặt khác, bà B cho rằng chữ ký Lép trong 09
Biên nhận từ dây hụi thứ 2 đến dây hụi thứ 9 và dây hụi thứ 11 là do bà V ký tên
Lép, còn V cho rằng chữ tên L không phải do ký, nhưng V không
đồng ý cung cấp chữ viết Lép do tự viết để giám định. Do đó Tòa án cấp
16
thẩm buộc ông Nguyễn Tấn Đ (Lép) Huỳnh Thị Cẩm V có trách nhiệm liên
đới trả cho Trần Thị B tiền hụi chết của 10 dây hụi mùa (t dây hụi số 1 đến
dây hụi số 9 và dây hụi số 11) vi tng s tiền 237.000.000 đồng, không tính
lãi suất là phù hợp.
- Tòa án cấp thẩm buộc ông Nguyễn Tấn Đ (Lép) bà Huỳnh Thị Cẩm
V trách nhiệm liên đới trả cho bà Trần Thị B tiền hụi chết của 11 dây hi (trong
đó có 02 dây hi mùa là dây hụi số 10, s 12 và 09 dây hi tháng t dây hi s 13
đến dây hi s 21) vi tng s tiền 290.000.000 đồng, không tính lãi suất
chưa phù hợp. Bởi lẽ: Đối vi dây hi mùa s 12, bà B khai m hi ngày 05/6/2021
DL, ông Đ, bà V ht hi ln m hi th hai tc là ngày 05/10/2021 DL và bà B
khai đã giao nhn tin trúng hi cho ông Đ, bà V. Tuy nhiên vào thời điểm ngày
05/10/2021 DL thì ông Đ, bà V đã bt đầu vi phm nghĩa v đóng hi chết ti các
dây hi th 16 (vi phm ngày 11/9/2021 DL), dây hi th 20 (vi phm ngày
01/10/2021 DL), dây hi th 21 (vi phm ngày 21/9/2021 DL). Như vy ông Đ,
bà V đã n tin hi chết ti các dây hi th 16, 20, 21 mà bà B còn cho ông Đ, bà
V ht hi và giao luôn tin trúng hi cho ông Đ, bà V mà không cn tr n hi
chết ti các dây hi th 16, 20, 21 là không phù hợp. Đồng thời bà B cũng không
có chng c chng minh ông Đ, bà V có tham gia chơi 11 dây hi này. Trong
danh sách hụi B tự ghi tên L, ông Đ (Lép) không tên hoặc điểm chỉ vào
danh sách hụi không phù hợp tại Điều 5 của Nghị định số 19/CP của Chính ph
hướng dẫn thi hành về hụi theo Bộ luật dân sự; Mặt khác khi bà B giao hụi cho Đ
cũng không có biên nhận giao nhận tiền. Đối với dây hụi thứ 16 có một phần hụi
tên C1 (anh của ông Đ) B cho rằng ông Đ hốt dây hụi này. Tuy nhiên tại giai
đoạn phúc thẩm Tòa án lấy lời khai của ông C1, ông C1 trình bày ông C1 tham
gia hụi do bà B làm đầu thảo, hụi đã mãng, dây hụi này ông C1 tự hốt và đã đóng
hụi chết cho bà B xong, do đó lời trình bày của B là không có căn cứ.
Từ những nhận định nêu trên xét thấy kháng cáo của ông Nguyễn Tấn Đ,
Huỳnh Thị Cẩm V là không có căn cứ nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.
[3]. Xét thấy Quyết định kháng nghị số 05/QĐ -VKS - DS ngày 19/4/2024,
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Tháp Mười đề nghị Tòa án nhân
dân tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm vụ án, sửa Bản án theo hướng: Chấp nhận
một phần yêu cầu của bà Trần Thị B về việc buộc ông Nguyễn Tấn Đ (Lép) và bà
Huỳnh Thị Cẩm V trách nhiệm liên đới trả cho bà Trần Thị B tiền hụi chết của
10 dây hụi mùa (từ dây hụi số 1 đến dây hụi số 9 dây hụi số 11) với tổng số
17
tiền 237.000.000 đồng, không tính lãi suất. Không chấp nhận một phần yêu
cầu của Trần Thị B vviệc buộc ông Nguyễn Tấn Đ (Lép) Huỳnh Thị
Cẩm V trách nhiệm liên đới trả cho bà Trần Thị B tiền hụi chết của 11 dây hụi
(trong đó có 02 dây hụi mùa là dây hụi số 10, số 12 và 9 dây hụi tháng từ dây 13
đến dây 21) với tổng số tiền là 290.000.000 đồng, không tính lãi suất căn cứ
nên chấp nhận.
[4]. Do chấp nhận Quyết định kháng nghị số 05/QĐ -VKS - DS ngày
19/4/2024, của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Tháp Mười nên sửa
Bn án dân sự thm s 43/2024/DS-ST ngày 04 tháng 04 năm 2024, của Tòa
án nhân dân huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp.
[5]. Xét lời trình bày của Luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông
Đ, bà V là không có căn cứ nên không chấp nhận như đã nhận định.
[6]. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp đề nghị Hội đồng xét
xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Tấn Đ và Huỳnh
Thị Cẩm V; chấp nhận Kháng nghị số 05/QĐ-VKS-DS ngày 19 tháng 4 năm 2024,
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Tháp Mười; Sửa một phần Bản án
dân sự thẩm s: 43/2024/DS-ST ngày 04/4/2024, ca Tòa án nhân dân huyện
Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp căn cứ, phù hợp pháp luật nên chấp nhận như
đã nhận định.
[7]. Do sửa một phần Bản án dân sự thẩm s: 43/2024/DS-ST ngày
04/4/2024, ca Tòa án nhân dân huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp nên sửa lại
án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
[8]. V án phí dân s phúc thẩm: Do sửa án dân sự thẩm nên ông Nguyễn
Tấn Đ, Huỳnh Thị Cẩm V không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy
định pháp luật.
[9]. Các phn khác ca Bn án dân s sơ thẩm s 43/2024/DS-ST ngày 04
tháng 04 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp Tháp
không có kháng cáo, kháng ngh có hiu lc pháp lut k t ngày hết thi hn
kháng cáo, kháng ngh.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
18
Căn cứ khoản 2 Điều 308, khoản 2 Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 ca y ban Thường V Quc
Hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhn yêu cu kháng cáo ca ông Nguyễn Tấn Đ, Huỳnh
Thị Cẩm V.
2. Chấp nhận Quyết định kháng nghị số 05/QĐ-VKS-DS ngày 19 tháng 4
năm 2024, của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng
Tháp.
3. Sửa một phần Bản án dân sự thẩm số 43/2024/DS-ST ngày 04 tháng
04 năm 2024, của Tòa án nhân dân huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp.
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị B.
Buộc ông Nguyễn Tấn Đ (L) và Huỳnh Thị Cẩm V trách nhiệm liên
đới trả cho bà Trần Thị B tiền hụi với tổng số tiền là 237.000.000đồng (Hai trăm
ba mươi bảy triệu đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của stiền
còn phải thi hành án theo lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự
năm 2015.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Trần Thị B được miễn tiền án phí dân sự thẩm. Hoàn trả cho
Trần Thị B 3.575.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số
0007620 ngày 18 tháng 3 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tháp
Mười.
- Ông Nguyễn Tấn Đ (L) Huỳnh Cẩm V phải nộp 11.850.000 đồng
án phí dân sự sơ thẩm;
5. Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Nguyễn Tấn Đ, Huỳnh Thị Cẩm V
không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả cho ông Nguyễn Tấn Đ,
Huỳnh Thị Cẩm V 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã np theo biên lai thu s
0005677 ngày 02 tháng 5 năm 2024, của Chi cục Thi hành án dân s huyện Tháp
Mười, tỉnh Đồng Tháp.
19
6. Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại
Điều 2 Luật Thi hành án dân sự sửa đi, b sung năm 2014 thì người được thi
hành án, người phải thi hành án quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu
thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định
tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9 Luật Thi hành ánn sự sửa đi, b sung năm 2014;
thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi
hành án dân sự sửa đổi b sung năm 2014.
7. Các phn khác ca Bn án dân s sơ thẩm s 43/2024/DS-ST ngày 04
tháng 04 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp không
có kháng cáo, kháng ngh có hiu lc pháp lut k t ngày hết thi hn kháng cáo,
kháng ngh.
8. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Phòng KTNV và THA;
- VKSND Tỉnh;
- TAND huyện Tháp Mười;
- Chi Cục THADS huyện Tháp Mười;
- Đương sự;
- Lưu: VT, HSVA, TDS (Trang).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đã ký tên đóng dấu
Lê Hng Nưc
Tải về
Bản án số 478/2024/DS-PT Bản án số 478/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 478/2024/DS-PT Bản án số 478/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất