Bản án số 47/2023/HS-ST ngày 27/07/2023 của TAND huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa về tội gây rối trật tự công cộng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 47/2023/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 47/2023/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 47/2023/HS-ST ngày 27/07/2023 của TAND huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa về tội gây rối trật tự công cộng |
---|---|
Tội danh: | 245.Tội gây rối trật tự công cộng (Bộ luật hình sự năm 1999) |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Thọ Xuân (TAND tỉnh Thanh Hóa) |
Số hiệu: | 47/2023/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 27/07/2023 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Hoàng Văn Đạt - Gây rối trật tự công cộng |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỌ XUÂN, TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 47/2023/HS-ST NGÀY 27/07/2023 VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG
Ngày 27 tháng 7 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh T; xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 43 /2023/TLST-HS ngày 10 tháng 7 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2022/QĐXXST- HS ngày 12 tháng 7 năm 2022;Đối với bị cáo:
Hoàng Văn Đ; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 22 tháng 10 năm 1986; Nơi cư trú: Thôn H, xã T, huyện T, tỉnh T; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Bố: Hoàng Văn Đ (Đã chết); Mẹ: Nguyễn Thị H, sinh năm: 1965. Gia đình có 02 người con, bị cáo là con thứ nhất; Vợ: Lê Thị L, sinh năm: 1988; Con: Hoàng Lê M, sinh năm: 2014. Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/3/2023 đến ngày 15/5/2023 thay thế biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh.
- Người bào chữa cho bị cáo Hoàng Văn Đ : Ông Trịnh Đình H - Trợ giúp viên pháp lý, Chi nhánh trợ giúp pháp lý số 6, Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh T; Vắng mặt.
- Người làm chứng:
1. Ông Lê Xuân L, sinh năm 1963; vắng mặt
2. Ông Hoàng Văn C, sinh năm 1953; vắng mặt
3. Bà Phạm Thị L1, sinh năm 1954; vắng mặt
4. Anh Nguyễn Ngọc Nh, sinh năm 1989; vắng mặt
Đều trú tại: thôn H, xã T, huyện T, T
5. Chị Phạm Thị Diệu L2, sinh năm 1992; vắng mặt Địa chỉ: thôn 2 Y, xã Th, huyện T, T
6. Anh Phùng Sỹ T, sinh năm 1979; vắng mặt Địa chỉ: khu 5 thị trấn T, huyện T, T
7. Chị Hà Thị G, sinh năm 1985; vắng mặt Địa chỉ: thôn V, xã Th, huyện T, T
8. Anh Trần Văn H, sinh năm 1974; vắng mặt Địa chỉ: khu 6 thị trấn T, huyện T, T
9. Ông Nguyễn Đức Th, sinh năm 1961; vắng mặt Địa chỉ: thôn 5 xã Xuân Trường, huyện T, T
10. Chị Phạm Thị Á, sinh năm 1994 Địa chỉ: thôn 5 xã X, huyện T, tỉnh T; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20 giờ 15 phút ngày 15 tháng 03 năm 2023, Hoàng Văn Đ nghe tin ông Hoàng Văn C (sinh năm 1953; trú tại thôn H, xã T, huyện T) là bác ruột của Đ bị tai nạn giao thông phải vào Bệnh viện đa khoa huyện T điều trị. Đ một mình điều khiển xe mô tô Yamaha Nouvo biển số 29X2-G3 đến trước cổng Bệnh viện gửi xe rồi đi vào trong khoa ngoại. Lúc này ông C được vợ là bà Phạm Thị L (sinh năm 1954) và cháu ruột bà L là Nguyễn Ngọc Nh (sinh năm 1989; trú tại thôn H, xã T, huyện T) đưa vào phòng khám của khoa ngoại để kiểm tra và làm thủ tục nhập viện. Cán bộ y tế trực khoa là Điều dưỡng viên Phùng Sỹ T thăm khám ban đầu cho ông C. Hoàng Văn Đ vào tới phòng khám trong tình trạng say rượu nên ôm lấy ông C làm anh T không thăm khám được nên có nhắc nhở Đ tránh ra để làm việc nhưng Đ vẫn ôm ông C. Bà L nhắc nhở thì Đ mới để anh T khám cho ông C. Sau đó ông C được chuyển lên phòng 205 để tiếp tục theo dõi, điều trị. Một lúc sau, bác sỹ Phạm Thị Diệu L đến thăm khám cho ông C thì Đ yêu cầu bác sỹ khám “tử tế” cho ông C và to tiếng chửi bới, nói xen ngang làm ảnh hưởng đến việc khám, chữa bệnh của bác sỹ L. Anh Phùng Sỹ T đang ở phòng hành chính của khoa nghe ồn ào, đoán là Đ say rượu gây rối nên đã gọi cho bảo vệ Bệnh viện là ông Lê Xuân L (sinh năm 1963; trú tại thôn H, xã T, huyện T) đến để can thiệp. Ông L đến đứng trước cửa phòng 205 nhắc nhở và yêu cầu Đ rời khỏi bệnh viện. Đ to tiếng chửi bới ông L và tiến đến dùng tay túm cổ áo ông L xô đẩy gây ồn ào làm ảnh hưởng đến các bệnh nhân ở phòng khác bên cạnh. Mọi người can ngăn thì ông L đi xuống sân bệnh viện. Sau đó, Đ đi đến nơi để xe mô tô của mình ở cổng bệnh viện mở cốp xe lấy 01 dao tự chế dạng kiếm (dài 74cm) để sẵn trong cốp xe và cầm dao đi vào bên trong Bệnh viện. Thấy ông L tại khu vực lối đi vào khoa ngoại thì Đ chạy đến đứng đối diện, cầm dao vung chém ba đến bốn cái về phía ông L. Ông L né được và lao vào khống chế, tước dao từ Đ. Lúc này, mọi người can ngăn nên Đ đi ra phía khu vực cổng Bệnh viện tiếp tục chửi bới ông L. Khi lực L Công an thị trấn T đến Bệnh viện đa khoa huyện T thì Đ đang tiếp tục chửi bới tại khu vực căng - tin ở cổng Bệnh viện nên đã khống chế, bắt giữ Đ và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang về hành vi Gây rối trật tự công cộng, thu giữ các đồ vật tài liệu có liên quan.
C quan điều tra tiến hành xem dấu vết trên thân thể ông Lê Xuân L và Hoàng Văn Đ, không phát hiện dấu vết thương tích gì.
C quan điều tra đã tiến hành trích xuất camera khu vực nơi xảy ra sự việc và tiến hành giám định: Tại bản kết luật giám định số 2190/KL-KTHS ngày 12 tháng 6 năm 2023 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh T kết luận:
- Không phát hiện dấu hiệu chỉnh sửa, cắt ghép nội dung hình ảnh trong 03 tệp video của 01 (một) đĩa DVD gửi giám định.
- Trích xuất 08 ảnh trong 04 trang giấy khổ A4.
* Về đồ vật, tài liệu thu giữ:
- 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 29X2-G3, 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe, 01 (một) giấy chứng minh nhân dân của Hoàng Văn Đ không liên quan đến hành vi phạm tội nên đã trả lại cho Đ theo quy định * Về xử lý vật chứng của vụ án:
- 01 một) con dao tự chế, dài 74 cm; lưỡi dao bằng kim loại dài 54 cm, loại một lưỡi sắc, mũi nhọn, bản rộng 03cm; cán dao bằng gỗ dài 20cm hiện đang được quản lý theo quy định của pháp luật - 01 (một) đĩa DVD chứa clip ghi lại nội dung vụ việc được đưa vào hồ sơ vụ án.
Tại bản cáo trạng số 50/CT-VKSTX ngày 07/7/2023 Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh T đã truy tố bị cáo Hoàng Văn Đ về tội “ Gây gối trật tự công cộng” theo quy định tại điểm b,đ khoản 2 Điều 318 Bộ luật hình sự;
Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Hoàng Văn Đ thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố.
Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hoàng Văn Đ phạm tội "Gây rối trật tự công cộng" và đề nghị:
- Áp dụng: điểm b,d khoản 2 Điều 318; Điều 38; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Hoàng Văn Đ từ 24 (Hai mươi bốn ) tháng đến 30 ( Ba mươi ) tháng tù.
Về trách nhiệm dân sự: không xem xét.
Về vật chứng đề nghị: Áp dụng Điều 106 Bộ luật hình sự. Tịch thu tiêu hủy toàn bộ vật chứng do không có giá trị sử dụng: là 01 một) con dao tự chế, dài 74 cm; lưỡi dao bằng kim loại dài 54 cm, loại một lưỡi sắc, mũi nhọn, bản rộng 03cm; cán dao bằng gỗ dài 20cm.
Về án phí: đề nghị buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định.
Người bào chữa cho bị cáo vắng mặt tại phiên tòa, gửi bản luận cứ bào chữa cho bị cáo đề nghị HĐXX áp dụng điểm b,đ khoản 2 Điều 218; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự cho Bị cáo được hưởng án treo cải tạo tại địa phương để tiếp tục hòa nhập cuộc sống cộng đồng, trở thành người có ích cho xã hội.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận với luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng bị cáo nhận tội và xin được hưởng khoan hồng của pháp luật, được giảm nhẹ mức hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của C quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; Không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của C quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của C quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh: Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại C quan điều tra, người làm chứng, Biên bản khám nghiệm hiện trường, dữ liệu hình ảnh, vật chứng thu giữ được và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đủ C sở kết luận:
Bị cáo Đ là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự; thực hiện hành vi gây rối trật tự tại Bệnh viện Đa khoa huyện T, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; bị cáo Đ có hành vi “ Dùng hung khí” và “ Hành hung người can thiệp bảo vệ trật tự công cộng”. Do đó bị cáo Đ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “ Gây rối trật tự công cộng” theo quy định tại điểm b,đ khoản 2 Điều 318 Bộ luật hình sự; Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến an toàn và trật tự công cộng; Hiện nay tại những nơi công cộng trong việc sinh hoạt, giao tiếp, ứng xử, đi lại, làm việc... xu hướng sử dụng bạo lực để giải quyết mâu thuẫn cá nhân ngày càng gia tăng, gây nên tâm lý hoang mang bất bình trong nhân dân, đồng thời gây mất trật tự trị an, làm ảnh hưởng đến sự an toàn xã hội. Do đó, cần phải xử lý vụ án nghiêm minh, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tương xứng với hành vi của bị cáo mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo, cũng như đáp ứng yêu cầu đấu tranh, phòng ngừa tội phạm nói chung.
[4] Về nhân thân: bị cáo Hoàng Văn Đ phạm tội lần đầu.
[5] Về tình tiết tăng nặng nhiệm hình sự:
[6] Bị cáo Đ không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo Đ đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, bản thân Đ có thời gian 02 năm tham gia phục vụ trong Quân đội nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do đó xem xét giảm cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật, yên tâm cải tạo.
[8] Về hình phạt: Từ những phân tích, đánh giá nêu trên Hội đồng xét xử, xét thấy: cần thiết phải xử phạt bị cáo Hoàng Văn Đ bằng hình phạt tù như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp, thời gian bị cáo Đ bị tạm giam được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt.
[9] Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy:
- 01 một) con dao tự chế, dài 74 cm; lưỡi dao bằng kim loại dài 54 cm, loại một lưỡi sắc, mũi nhọn, bản rộng 03cm; cán dao bằng gỗ dài 20cm hiện đang được quản lý theo quy định của pháp luật.
[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[11] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào điểm b,đ khoản 2 Điều 318; Điều 17; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 106; Điều 107; Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, 1. Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn Đ, phạm tội “ Gây rối trật tự công cộng”.
- Xử phạt bị cáo Hoàng Văn Đ 24 ( Hai mươi bốn ) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ đi thời gian tạm giữ, tạm giam, từ ngày 16/3/2023 đến ngày 15/5/2023. .
2. Về trách nhiệm dân sự: không xem xét.
3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy:
- 01 một) con dao tự chế, dài 74 cm; lưỡi dao bằng kim loại dài 54 cm, loại một lưỡi sắc, mũi nhọn, bản rộng 03cm; cán dao bằng gỗ dài 20cm không còn giá trị sử dụng.
4. Về án phí:
Bị cáo Hoàng Văn Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo:
Bị cáo Hoàng Văn Đ có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!