Bản án số 46/2019/HS-ST ngày 26/08/2019 của TAND huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định về tội mua bán trái phép chất ma túy
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 46/2019/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 46/2019/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 46/2019/HS-ST ngày 26/08/2019 của TAND huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định về tội mua bán trái phép chất ma túy |
---|---|
Tội danh: | 251.Tội mua bán trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Nam Trực (TAND tỉnh Nam Định) |
Số hiệu: | 46/2019/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 26/08/2019 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN N
TỈNH NAM ĐỊNH
Bản án số: 46/2019/HS-ST
Ngày: 26 - 8 - 2019
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N TỈNH NAM ĐỊNH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Bùi Văn Biền.
Các hội thẩm nhân dân:
Ông Lê Văn Chỉnh.
Ông Nguyễn Văn Quang.
- Thư ký phiên toà: Ông Vũ Quang Hải – Thư ký Toà án nhân dân huyện N.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N tham gia phiên toà: Ông Hà
Viết Chinh – Kiểm sát viên.
Ngày 13 tháng 8 năm 2019 tại Toà án nhân dân huyện N, tỉnh Nam Định xét
xử sơ thẩm công khai lưu động vụ án hình sự thụ lý số 46/2019/TLST- HS ngày 29
tháng 7 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 43/2019/QĐXXST-HS
ngày 02 tháng 8 năm 2019 đối với:
* Bị cáo: Dương Văn M - Sinh năm: 1976.
Nơi cư trú: Xóm 15, xã Nghĩa Th, huyện N, tỉnh Nam Định; quốc tịch: Việt
Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học
vấn: 6/12; giới tính: Nam; họ và tên cha: Không xác định; họ tên mẹ: Dương Thị
B, sinh năm 1953, hiện đang làm ruộng tại xóm 15, xã Nghĩa Th, huyện N, tỉnh
Nam Định; có vợ là Hoàng Thị Ph, sinh năm 1979, hiện đang làm ruộng tại xóm
15, xã Nghĩa Th, huyện N, tỉnh Nam Định; có 03 con: Con lớn nhất sinh năm
1999, con nhỏ nhất sinh năm 2011; tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày
12/03/2013, bị Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Nam Định xử phạt 02 năm tù về tội:
“Tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo Dương Văn M bị bắt, tạm giữ
từ ngày 17/06/2019 đến ngày 20/06/2019 chuyển tạm giam tại Nhà tạm giữ Công
an huyện N; có mặt.
* Người bào chữa cho bị cáo: Bà Đặng Thị Anh Thư – Trợ giúp viên pháp
lý, trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước, Sở tư pháp tỉnh Nam Định; có mặt.
* Người làm chứng:
2
1. Anh Đồng Văn Nghĩa, sinh năm 1991; nơi cư trú: Xóm 3, xã Nghĩa Th,
huyện N, tỉnh Nam Định; vắng mặt.
2. Anh Đàm Văn Ro, sinh năm 1963; nơi cư trú: Xóm 15, xã Nghĩa Th,
huyện N, tỉnh Nam Định; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ
án được tóm tắt như sau: Khoảng 13 giờ ngày 17/6/2019, Dương Văn M đi xe bus
lên khu vực chân cầu Đò Quan, thành phố Nam Định mua của một người đàn ông
không biết tên tuổi, địa chỉ 600.000 đồng được 01 gói heroine và 250.000 đồng
được 01 gói ma túy đá. Sau đó M bắt xe bus đi về nhà và chia gói heroine vừa mua
được thành 02 gói nhỏ và cất giấu trong túi áo ngực bên phải M đang mặc; còn gói
ma túy đá M cất giấu trong hòm sắt trên gác xép. Khoảng 18 giờ cùng ngày, M
đang ở nhà thì Đồng Văn Nghĩa đến hỏi mua 200.000 đồng heroine. M đồng ý. Khi
M và Nghĩa đang mua bán ma tuý thì bị tổ công tác Công an huyện N phát hiện bắt
quả tang. Thu giữ trên tay phải của Nghĩa 01 gói nhỏ, vỏ gói là giấy màu vàng bên
trong chứa chất bột dạng cục màu trắng (Được niêm phong ký hiệu M), Nghĩa khai
nhận đó là gói heroine vừa mua của Dương Văn M với giá 200.000 đồng, thu giữ
tại túi quần trước bên phải của Dương Văn M số tiền 200.000 đồng gồm 01 tờ tiền
mệnh giá 100.000 đồng và 02 tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng có số sê ri lần lượt là:
DX 12622603, XZ 17892186 và DN 14497050, M khai nhận đó là tiền vừa bán 01
gói heroine cho Đồng Văn Nghĩa mà có. Ngoài ra tổ công tác Công an huyện N
còn thu giữ tại túi áo ngực bên phải của M 01 gói nhỏ, vỏ gói bằng túi ni lông màu
trắng, bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng (Được niêm phong ký hiệu M1),
M khai nhận đó là gói heroine, M cất giấu để bán kiếm lời. Quá trình khám xét thu
giữ trong hòm sắt trên gác xép 01 gói nhỏ, vỏ gói là túi ni lông màu trắng, bên
trong chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng (Được niêm phong ký hiệu K), M khai
nhận đó là gói ma túy đá, M cất giấu để bán kiểm lời.
Tại bản kết luận giám định số 611/GĐKTHS ngày 18/06/2019 của phòng kỹ
thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định, kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng trong
02 phong bì được niêm phong ký hiệu M và M1 gửi đến giám định đều là ma túy.
Loại ma túy: Heroine. Khối lượng mẫu M: 0,049 gam; khối lượng M1: 1,244 gam.
Mẫu rắn dạng tinh thể màu trắng trong 01 gói nhỏ, vỏ gói là túi ni lông màu trắng,
được niêm phong ký hiệu K gửi giám định là ma túy. Loại ma túy:
Methamphetamine. Khối lượng mẫu K: 0,863 gam.

3
Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N, Dương Văn M đã khai nhận
hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.
Bản cáo trạng số 48/CT-VKS ngày 29/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân
huyện N đã truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 1
Điều 251 Bộ luật Hình sự. Tại phiên toà hôm nay Đại diện Viện kiểm sát nhân dân
huyện N giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo như tội danh và điều luật đã
nêu. Sau khi đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân
thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề
nghị áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt
Dương Văn M từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù; đề nghị không áp dụng hình
phạt bổ sung đối với bị cáo; Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106
Bộ luật Tố tụng hình sự để xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm
phong số 611/GĐKTHS ngày 18/6/2019, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh
Nam Định hoàn trả sau giám định; Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 200.000
đồng là tiền M bán ma túy mà có; đề nghị áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng
hình sự và Điều 6; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12
năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc để tuyên án phí hình sự sơ thẩm đối với bị
cáo.
Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo: Nhất trí với bản luận tội của vị đại
diện VKS. Đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, ăn năn
hối cải và hoàn cảnh kinh tế gia đình bị cáo khó khăn (điểm s khoản 1, khoản 2
Điều 51 BLHS) để tuyên bị cáo với mức thấp nhất mà vị Đại diện VKS đề nghị.
Tại phiên toà hôm nay qua xét hỏi và tranh luận bị cáo đã khai nhận toàn bộ
hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã nêu. Bị cáo nói lời sau cùng: Bị
cáo thừa nhận hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem
xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được
tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an
huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá
trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định
của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bào
chữa cho bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; người làm chứng không có khiếu

4
nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của
người làm chứng và các tài liệu đã được xác lập có trong hồ sơ vụ án cũng như bản
cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố bị cáo ra trước phiên toà
hôm nay. Như vậy đã đủ cơ sở xác định: Khoảng 18 giờ ngày 17/6/2019, tại nhà ở
của mình, Dương Văn M có hành vi bán trái phép 0,049 gam heroine cho Đồng
Văn Nghĩa với giá 200.000 đồng thì bị Công an huyện N bắt quả tang. Ngoài ra
Dương Văn M còn cất giấu 1,244 gam heroine và 0,863 gam Methamphetamine
với mục đích để bán kiếm lời. Tổng khối lượng chất ma túy Dương Văn M có hành
vi mua bán trái phép là 2,156 gam heroine và Methamphetamine. Đối chiếu với Bộ
luật hình sự thấy đủ cơ sở kết luận bị cáo đã phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma
tuý” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.
Hành vi đó của bị cáo đã xâm phạm trật tự trị an, an toàn xã hội trong khu
vực, làm ảnh hưởng đến nếp sống văn hoá của dân tộc. Bị cáo là người có đầy đủ
năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ được hành vi của mình là vi phạm pháp
luật nhưng cố ý thực hiện. Vì vậy việc đưa bị cáo ra xét xử công khai, lên án xử lý
nghiêm M là cần thiết nhằm góp phần vào việc đấu tranh phòng chống tội phạm.
[3] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối
với bị cáo thì thấy: Bị cáo là người có nhân thân xấu: : Ngày 12/03/2013, bị Tòa án
nhân dân huyện N, tỉnh Nam Định xử phạt 02 năm tù về tội: “Tàng trữ, mua bán
trái phép chất ma túy”. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Trong vụ án
này bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại
Điều 52 Bộ luật Hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy: Trong
quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn
năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định
tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Từ những phân tích, đánh giá nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết
phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, tập chung cải tạo đối với bị cáo nhằm trừng
trị, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
[4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên
không áp dụng hình bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.
[5] Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 phong bì niêm phong số
611/GĐKTHS ngày 18/6/2019 (bên trong phong bì có 0,015 gam mẫu M; 1,202
gam mẫu M1 và 0,820 gam mẫu K, cùng vỏ bao gói mẫu M, M1, K), Phòng kỹ
thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định hoàn trả sau giám định, cần tịch thu tiêu huỷ;
5
Số tiền 200.000 đồng (gồm 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng và 02 tờ tiền mệnh
giá 50.000 đồng có số sê ri lần lượt là: DX 12622603, XZ 17892186 và DN
14497050), cần tịch thu sung quỹ nhà nước.
[6] Đối với Đồng Văn Nghĩa là người mua heroine của Dương Văn M
nhưng khối lượng nhỏ và chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự nên
Công an huyện N ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Đồng Văn
Nghĩa là phù hợp.
Đối với người đàn ông bán ma túy cho Dương Văn M ngày 17/06/2019 tại
khu vực chân cầu Đò Quan, thành phố Nam Định hiện chưa xác định được tên,
tuổi, địa chỉ cụ thể. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N tiếp tục điều tra,
xử lý sau.
[7] Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 6, Điều 23 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội: Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 47 của Bộ luật
Hình sự.
Căn cứ vào Điều 106; Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự
và Điều 6, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm
2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
1. Tuyên bố bị cáo Dương Văn M phạm tội “Mua bán trái phép chất ma
tuý”;
2. Xử phạt bị cáo Dương Văn M 03 (ba) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn tù
tính từ ngày 17/6/2019.
3. Xử lý vật chưng: Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong số
611/GĐKTHS ngày 18/6/2019 (bên trong phong bì có 0,015 gam mẫu M; 1,202
gam mẫu M1 và 0,820 gam mẫu K, cùng vỏ bao gói mẫu M, M1, K), Phòng kỹ
thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định hoàn trả sau giám định.
Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 200.000 đồng (gồm 01 tờ tiền mệnh giá
100.000 đồng và 02 tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng có số sê ri lần lượt là: DX
12622603, XZ 17892186 và DN 14497050).
Vật chứng của vụ án đang được quản lý tại Chi cục thi hành án dân sự huyện
N theo như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện N và Chi cục thi
hành án dân sự huyện N lập ngày 31/7/2019.
6
4. Án phí: Buộc bị cáo Dương Văn M phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự
sơ thẩm.
5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ
ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người phải thi hành án và người được thi hành án có quyền thoả thuận
thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng
chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự;
thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân
sự.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Nam Định;
- VKSND huyện N;
- Trại giam + CA;
- Bị cáo; Người bào chữa.
- UBND xã Nghĩa Th;
- Cơ quan Thi hành án;
- Án văn + lưu hồ sơ;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
(Đã ký)
Bùi Văn Biền
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 15/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 29/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 21/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 06/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 06/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 02/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 02/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 02/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 01/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 31/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 26/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 26/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 26/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 25/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 25/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 25/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Bản án số 04/2024/HS-ST ngày 23-01-2024 của TAND tỉnh Hà Nam về về tội mua bán trái phép chất ma túy
Ban hành: 23/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 23/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 23/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 23/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm