Bản án số 450/2024/DSPT ngày 21/11/2024 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp về hụi, họ, biêu, phường
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 450/2024/DSPT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 450/2024/DSPT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 450/2024/DSPT
Tên Bản án: | Bản án số 450/2024/DSPT ngày 21/11/2024 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp về hụi, họ, biêu, phường |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về hụi, họ, biêu, phường |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Cà Mau |
Số hiệu: | 450/2024/DSPT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 21/11/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Không chấp nhận kháng cáo |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
Bản án số: 450/2024/DS-PT
Ngày 21 – 11 – 2024
V/v tranh chấp hụi
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Dương Hùng Quang
Các Thẩm phán: Bà Châu Minh Hoàng
Bà Đinh Cẩm Đào
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Trọng Bằng - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Cà Mau.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên toà: Bà Lê
Thị Màu – Kiểm sát viên.
Ngày 21 tháng 11 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 345/2024/TLPT-DS ngày 08 tháng 10
năm 2024, về việc “Tranh chấp hụi”
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 80/2024/DS-ST ngày 28 tháng 8 năm 2024 của Tòa
án nhân dân huyện Năm Căn bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 289/2024/QĐ-PT ngày
21 tháng 10 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Phan Thị Thanh T, sinh năm 1982 (Có mặt).
Địa chỉ cư trú: Khóm G, thị trấn N, huyện N, tỉnh Cà Mau
- Bị đơn: Chị Trần Thu T1, sinh năm 1973 (Có mặt).
Địa chỉ cư trú: Khóm B, thị trấn N, huyện N, tỉnh Cà Mau.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Trần Văn Đ, sinh năm 1977
(Vắng mặt).
Địa chỉ cư trú: Khóm G, thị trấn N, huyện N, tỉnh Cà Mau
- Người kháng cáo: Chị Trần Thu T1 là bị đơn vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Nguyên đơn chị Phan Thị Thanh T trình bày: Chị làm chủ 01dây hụi
10.000.000 đồng, có 30 chân, 01 tháng khui 01 lần, khui ngày 13/10/2020, chị
2
Trần Thu T1 tham gia 01 chân, hốt vào kỳ thứ 23, chị giao tiền hụi cho chị T1
ngày 24/8/2022 số tiền 214.000.000 đồng (đã trừ tiền huê hồng 6.000.000 đồng),
có làm biên nhận. Trong khi giao tiền hụi cho chị T1 thì xảy ra mâu thuẫn trong
việc chị trừ lại 07 kỳ đóng hụi chết dẫn đến cự cải, chị T1 cào cấu chị được Công
an thị trấn N mời 02 bên làm việc, sau đó chị T1 đăng Facebook xúc phạm chị, làm
đơn gửi vào đơn vị chị đang công tác nhằm hạ uy tín chị. Từ mâu thuẫn này nên
lần khui hụi tiếp theo thì anh Đ (chồng chị) có đến nhà chị T1 01 lần để lấy tiền hụi
chết nhưng chị T1 không đóng nên các lần khui hụi tiếp theo chị nhắn tin đòi tiền
nhưng chị T1 vẫn không đóng. Dây hụi này khui đến kỳ thứ 27 thì đình hụi nhưng
chị vẫn thực hiện đầy đủ nghĩa vụ cho 03 chân hụi sống còn lại. Chị kiện yêu cầu
chị T1 giao trả lại 70.000.000 đồng tiền đóng thay 07 kỳ hụi chết và tính lãi suất
chậm trả theo quy định là 20%/năm từ tháng 3/2023 đến tháng 4/2024 là
14.000.000 đồng; tổng số tiền yêu cầu hoàn trả bằng 84.000.000 đồng. Tại phiên
toà chị T xin rút lại việc tính lãi suất, không yêu cầu chị T1 trả lãi suất 14.000.000
đồng và yêu cầu trả 70.000.000 đồng tiền vốn.
- Bị đơn Chị Trần Thu T1 trình bày: Chị và chị T là chỗ quen biết nên chị có
tham gia chơi 01 chân hụi của dây hụi 10.000.000 đồng mở năm 2020, chị T nói
hụi gồm 20 chân, không giao giấy hụi cho chị. Chị đóng hụi sống được 20 kỳ
nhưng vẫn chưa được hốt hụi chót, chị hỏi chị T thì chị T nói còn mấy chân nữa
mới mãn nên chị đóng đến kỳ thứ 22 vẫn chưa mãn, buộc lòng chị bỏ thăm
10.000.000 đồng để hốt hụi vào kỳ thứ 23 thu lại tiền hụi chị đã góp. Khi chị T
chung hụi thì nói còn 07 kỳ nữa mới mãn nên buộc chị đắp đuôi, từ đó xảy ra cự
cải và đánh nhau được Công an thị trấn mời giải quyết. Sau đó chị T giao tiền hụi
cho chị gồm 70 triệu đồng chuyển khoản và một số tiền mặt, có trừ tiền huê hồng,
tiền nợ và chị có ký biên nhận tiền hụi với chị T. Sau khi nhận được tiền, chị có
hứa mỗi kỳ hụi sẽ đóng lại cho chị T hụi chết nên mỗi kỳ chị T đến gom hụi thì chị
đóng đủ cho chị T, không có làm biên nhận. Nếu chị còn nợ thì sau khi hụi mãn chị
T đã khởi kiện ngay, chị không hiểu nay lại đi kiện chị. Nay chị yêu cầu Toà án
bác đơn khởi kiện của chị T.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Trần Văn Đ trình bày: Anh có
chỡ chị T đến nhà chị T1 để chung hụi. Trong thời điểm này chị T đình nhiều dây
hụi khác, nên khi chung hụi sợ chị T1 không đóng lại hụi chết nên chị T trừ đắp
đuôi 70.000.000 đồng tiền hụi chết, chị T1 không đồng ý nên giữa chị T1 và chị T
xảy ra cự cải, chị T1 đánh chị T được Công an thị trấn giải quyết. Từ đó chị T
không dám đến nhà chị T1 để gom hụi. Sau đó, anh có trực tiếp đến nhà chị T1
gom hụi thì chị T1 từ chối không đóng hụi và anh biết chị T1 sẽ không đóng lại hụi
chết hàng tháng nên tháng nào chị T cũng nhắn tin nhắc nhỡ, chị T1 im lặng vì cho
rằng hụi chỉ có 23 chân. Do đó, việc chị T1 cho rằng đã góp đủ 7 kỳ hụi chết là
không có cơ sở.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 80/2024/DS-ST ngày 28 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Năm Căn quyết định:
3
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phan Thị Thanh T. Buộc chị Trần Thu
T1 có nghĩa vụ thanh toán cho chị Phan Thị Thanh T số tiền 70.000.000 đồng (Bảy
mươi triệu đồng).
Án phí dân sự sơ thẩm chị Trần Thu T1 phải chịu 3.500.000 đồng.
Hoàn trả lại cho chị Phan Thị Thanh T số tiền tạm ứng án phí 2.100.000
đồng theo biên lai thu tiền số 0014015 ngày 10/5/2024 tại Chi cục thi hành án dân
sự huyện Năm Căn khi án có hiệu lực pháp luật.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về lãi suất chậm thi hành và quyền kháng cáo của
các đương sự.
Ngày 29/8/2024, Chị Trần Thu T1 kháng cáo nội dung kháng cáo chị đã
đóng lại hụi chết đầy đủ nay không còn nợ chị T.
Tại phiên tòa phúc thẩm.
Bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm sửa toàn
bộ bản án không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.
Nguyên đơn yêu cầu giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên toà phát biểu:
Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án; của Hội
đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng tại phiên tòa
đúng quy định pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của
Bộ luật tố tụng dân sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án
dân sự sơ thẩm số 80/2024/DS-ST ngày 28/8/2024 của Tòa án nhân dân huyện
Năm Căn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Xét kháng cáo của chị Trần Thu T1 còn trong hạn luật định.
[1] Về nội dung vào ngày 13/10/2020, chị T có mở dây hụi 10.000.000
đồng gồm 30 chân, 01 tháng khui 01 lần. Chị Trần Thu T1 tham gia 01 chân, hốt
vào kỳ thứ 23, khi hốt bỏ 10.000.000 đồng. Tổng số tiền 214.000.000 đồng, việc
giao tiền hụi được chứng minh từ “Giấy giao hụi” ngày 24/8/2022 do chị T1 ký
nhận.
Khi dây hụi khui đến kỳ thứ 27 thì đình hụi, nhưng chị T là chủ hụi nên
phải có nghĩa vụ của mình đối với hụi viên có chân hụi sống (03 chân). Do đó, có
chứng cứ chứng minh chị T1 sau khi hốt hụi thì phải có trách nhiệm góp hụi chết
lại hàng tháng, mỗi tháng 10.000.000 đồng. Tổng cộng 07 tháng (kỳ) số tiền
70.000.000 đồng. Như vậy vấn đề các bên tranh chấp là sau khi hốt hụi bị đơn đã
đóng lại hụi chết hay chưa.
[2] Quá trình chơi hụi chị T1 nhận số tiền hốt hụi thì giữa chị T1 và chị T có
ký nhận và có xảy ra mâu thuẫn, cự cải, xô xác nhau, được hai bên thừa nhận. Chị
T xác định sau khi mâu thuẫn cự cải anh Đ chồng chị T đến gom hụi chết, nhưng
chị T1 không đóng và từ đó chị nhắn tin đòi tiền hụi hàng tháng nhưng chị T1
không đóng, đến khi hụi mãn tháng 3/2023. Qua kiểm tra tin nhắn trong điện thoại
4
di động của chị T số 0796.500.993, thể hiện có nhiều tin nhắn nhắn tin qua điện
thoại di động của chị T1 số 0919.737.666, đòi tiền hụi hàng tháng và khi hụi mãn
có chốt nợ hụi 07 kỳ bằng 70.000.000 đồng vào ngày 30/4/2023; điện thoại di động
của chị T1 số 0919.737.666 không có tin nhắn của chị T.
Chị T1 trình bày trong thời gian này chị T có nhắn tin, điện thoại quấy rối
chị nên chị không bắt máy, không trả lời, không quan tâm. Như vậy, có chứng cứ
chứng minh chị T có đòi tiền hụi chết hàng tháng đối với chị T1. Chị T cũng không
có phản ứng gì về tin nhắn của chị T1, nếu thật sự chị T1 có đóng hụi lại thì chị
phải phản hồi đối với tin nhắn của chị T.
[3] Hơn nữa thời điểm chị T1 hốt hụi hai bên đã phát sinh mâu thuẫn, xung
đột nên chị T giao tiền hụi thì chị T1 có ký nhận, đến khi chị T1 đóng lại tiền hụi
chết của 07 kỳ, mỗi kỳ đóng số tiền 10.000.000 đồng thì không có ký nhận. Trong
khi hai bên đã xảy ra mâu thuẫn, mất lòng tin nhau nhưng khi đóng hụi chị T1
không cho chị T ký nhận là chưa phù hợp, chưa có tính thuyết phục đối với lời
trình bày của chị T1. Trong khi chị T không thừa nhận chị T1 đã đóng 70.000.000
đồng, chị T1 phải có trách nhiệm cung cấp chứng cứ chứng minh là đã đóng hụi
cho chị T 70.000.000 đồng. Do chị T1 không chứng minh được nên án sơ thẩm
buộc chị T1 tiếp tục trả cho chị T là phù hợp.
[4] Chị T1 cho rằng nếu còn nợ hụi thì sau khi hụi mãn chị T không khởi
kiện mà đến nay mới khợi kiện. Chị T xác định do thời điểm này chị bị bể hụi nên
chưa làm thủ tục khởi kiện chị T1. Hơn nữa hụi mãn vào tháng 3/2023 đến năm
2024 chị T khởi kiện đòi tiền hụi cũng không ảnh hưởng đến thời hiệu hay thời
gian khởi kiện.
Tại phiên tòa người kháng cáo không cung cấp thêm tài liệu chứng cứ gì
mới để chứng minh cho việc kháng cáo nên không có cơ sở chấp nhận kháng cáo
[5] Ý kiến đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận
yêu cầu kháng cáo của bị đơn là phù hợp với các phân tích, nhận định trên.
Án phí dân sự sơ thẩm và phúc thẩm: Chị T1 phải chịu theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308, của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí
Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của chị Trần Thu T1.
Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số: 80/2024/DS-ST ngày 28 tháng 8 năm
2024 của Tòa án nhân dân huyện Năm Căn.
Tuyên xử:
5
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phan Thị Thanh T. Buộc chị Trần Thu
T1 có nghĩa vụ thanh toán cho chị Phan Thị Thanh T số tiền 70.000.000 đồng (Bảy
mươi triệu đồng).
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, người có
nghĩa vụ thi hành án không tự nguyện thi hành xong, thì phải trả thêm khoản lãi
phát sinh theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự
tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành.
Án phí dân sự sơ thẩm: Chị Trần Thu T1 phải chịu 3.500.000 đồng. Chị
Phan Thị Thanh T không phải chịu. Ngày 10/5/2024 chị T đã dự nộp tạm ứng án
phí số tiền 2.100.000 đồng (lai 0014015) tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Năm
Căn được nhận lại.
Án phí dân sự phúc thẩm: Chị Trần Thu T1 phải chịu 300.000 đồng. Ngày Ngày
29/8/2024, chị T1 đã dự nộp số tiền 300.000 đồng (lai số 0014143) tại Chi cục Thi
hành án dân sự huyện Năm Căn được chuyển thu.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật
thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau;
- Tòa án nhân dân huyện Năm Căn;
- Chi cục THADS huyện Năm Căn;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ;
- Lưu án văn;
- Lưu VT(TM:TANDTCM).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Dương Hùng Quang
6
Tải về
Bản án số 450/2024/DSPT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 450/2024/DSPT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 04/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Bản án số 470/2024/DS-PT ngày 29/11/2024 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp về hụi, họ, biêu, phường
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Bản án số 468/2024/DS-PT ngày 29/11/2024 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp về hụi, họ, biêu, phường
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Bản án số 461/2024/DS-PT ngày 28/11/2024 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp về hụi, họ, biêu, phường
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 04/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 31/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 16/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 04/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 04/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm