Bản án số 433/2025/DS-PT ngày 25/04/2025 của TAND TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng thuê nhà

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 433/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 433/2025/DS-PT ngày 25/04/2025 của TAND TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng thuê nhà
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng thuê nhà
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Hồ Chí Minh
Số hiệu: 433/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 25/04/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: thuê nhà
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 433/2025/DS-PT
Ngày: 25/4/2025
V/v Tranh chấp hợp đồng thuê
nhà.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa:
Bà Nguyễn Thị Tuyết Minh
Các Thẩm phán:
Bà Nguyễn Thị Thoa
Ông Nguyễn Tiến Dũng
- Thư ký phiên tòa:
Bà Nguyễn Thị Lưu
Thư ký Tòa án nhân dân Thành phố Hồ C
Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên
tòa:
Bà Mai Thị Thanh Hòa – Kiểm sát viên.
Ngày 25 tháng 4 năm 2025, tại Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh,
đã mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân s thụ số
1138/2024/TLPT-DS ngày 27 tháng 12 năm 2024 về việc “Tranh chp hợp đồng
thuê nhà”.
Do Bản án dân sự thẩm số 2110/2024/DS-ST ngày 25 tháng 9 năm
2024 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh bkháng
cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1147/2025/QĐ-PT
ngày 10 tháng 3 năm 2025 Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số
4062/2025/QĐ-PT ngày 31 tháng 3 năm 2025 của Tòa án nhân dân Thành phố
Hồ Chí Minh, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: ông Bùi Quốc T.
Địa ch: B Tập thể T, phường T, quận B, Tnh phố Hà Nội.
Người đại diện theo ủy quyền: ông Nguyễn Hữu H, sinh năm 1972 (có
mặt)
2
Địa ch: Số A đường P, phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
(theo Giấy ủy quyền scông chứng 7827, quyển số 05/2023/TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 23/5/2023 lập tại Văn phòng C2, Thành phố Hồ Chí Minh).
2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Ngọc T1, sinh năm 1985 (có mặt).
Địa ch: 3 đường B, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Nguyễn Lệ D, sinh năm 1948.
Địa ch: I N, Phường C, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần An N, sinh năm 1993
(có mặt).
Địa ch liên lạc: A P, Phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
(theo Giấy ủy quyền số công chứng 16440, quyển số
09/2024/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 06/9/2024 lập tại Văn phòng C2, Thành phố
Hồ Chí Minh).
3.2. Lợi Hồng D1, sinh năm 1973 (xin xét xử vắng mặt).
Địa ch: I N, Phường C, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
3.3. Ông Trần Hoàng V, sinh năm 1979 (có mặt);
3.4. Trần Thị Trúc L, sinh năm 2006 (xin xét xử vắng mặt).
ng địa ch: 3 B, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Người kháng cáo: Bà Nguyễn Thị Ngọc T1 Bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Tại đơn khởi kiện đề ngày 17/5/2023, trong qtrình giải quyết vụ án
tại phiên tòa thẩm, ông Nguyễn Hữu H đại diện theo ủy quyền của
nguyên đơn trình bày:
Ông Bùi Quốc TLợi Hồng D1 là chủ sở hữu đối với căn nhà tại địa
ch: 3 B, phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. Giấy chứng nhận QSDĐ
số CG 951080, số vào sổ cấp GCN: CH03613 do UBND quận B, Thành phố Hồ
Chí Minh cấp ngày 06/02/2017.
Vào ngày 24/12/2019 tại Văn phòng C3, Thành phố Hồ Chí Minh ông T
D1 đã lập Hợp đồng ủy quyền s công chứng 043937, quyển số 12
TP/CC-SCC/HĐGD ngày 24/12/2019, theo nội dung của Hợp đồng ủy quyền thì
Nguyễn Lệ D được quyền thay mặt ông T D1 hợp đồng cho thuê
nhà tại địa ch 3 B, phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 05 tháng 03 năm 2021, giữa bà Nguyễn Lệ D và Nguyễn Thị
Ngọc T1 Hợp đồng thuê nhà ngày 20/04/2021 (Do T1 xin D cho 46
ngày để vào sắp đặt đồ đạc). Theo hợp đồng thuê: Đối tượng hợp đồng thuê
3
căn nhà 03 tầng tại địa ch 3 B, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh;
Mục đích thuê để kinh doanh; Thời hạn thuê là 05 năm kể từ ngày 20 tháng
04 năm 2021 đến ngày 20 tháng 05 năm 2026; Số tiền đặt cọc theo thỏa thuận là
03 tháng tiền thuê nhà (tương đương 45.000.000 đồng chẵn); Tiền thuê nhà
được chia làm 2 giai đoạn: 36 tháng đầu kể từ ngày hợp đồng, tiền thuê nhà
mỗi tháng là 15.000.000 đồng/tháng (Mười lăm triệu đồng); 24 tháng còn lại của
thời hạn hợp đồng, tiền thuê được điều chnh tăng thêm 5% so với tiền thuê giai
đoạn đầu; Thanh toán tiền thuê nhà vào đúng ngày 20 hàng tháng; Bên thuê còn
có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật khi thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Do bà T1 xin nhận nhà sớm hơn 1 tháng (cụ thể là 46 ngày) để sắp xếp đồ
đạc kinh doanh. Nên ngày 05/3/2021 D đã giao chìa khóa nhà cho T1
(Bà D viết biên bản bàn giao nhà ngày 05/03/2021, nhưng do dịch bệnh nên
không gặp trực tiếp được bà T1 để cùng vào biên bản bàn giao nhà, do đó
D đã gửi vào Zalo cho bà T1 coi và bà T1 cũng thống nhất với biên bản đó.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện hợp đồng, bên thuê nhà là bà Nguyễn
Thị Ngọc T1 đã liên tục vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo thỏa thuận tại mục 5
của hợp đồng thuê nhà. Trong suốt quá trình thuê đến nay, bên thuê ch duy nhất
02 lần trả đúng tiền nhà, còn lại tháng nào cũng trả thiếu, cụ thể:
+ Thanh toán tiền cọc thiếu 15.000.000 đồng (Thỏa thuận 45 triệu,
nhưng T1 ch đóng được 30.000.000 đồng nợ lại 15.000.000 đồng hẹn
20/8/2021 đóng nhưng sau đó vẫn không chuyển trả). Nội dung này T1 có
xác nhận vào phía sau của Hợp đồng giao cho bà D giữ.
+ Tháng 04/2021: bà T1 thanh toán đủ 15.000.000 đồng;
+ Tháng 05/2021: bà T1 thanh toán đủ 15.000.000 đồng;
+ Tháng 06/2021: T1 không thanh toán; còn n 7.500.000 đng; (Do
dch covid là 50%)
+ Tháng 07/2021: T1 thanh toán 5.500.000 đồng; còn thiếu 2.000.000
đồng; (Do dch covid là 50%)
+ Tháng 08/2021: T1 thanh toán 5.000.000 đồng; còn thiếu 2.500.000
đồng; (Do dch covid là 50%)
+ Tháng 09/2021: T1 không thanh toán; còn n 7.500.000 đng; (Do
dch covid là 50%)
+ Tháng 10/2021: bà T1 thanh toán 5.000.000 đng; còn thiếu 10.000.000
đồng;
4
+ Tháng 11/2021: bà T1 không thanh toán; còn n 15.000.000 đồng;
+ Tháng 12/2021: T1 thanh toán 7.500.000 đồng; còn thiếu 7.500.000
đồng;
+ Tháng 01/2022: T1 thanh toán 7.500.000 đồng; còn thiếu 7.500.000
đồng;
+ Tháng 02/2022: T1 thanh toán 7.500.000 đồng; còn thiếu 7.500.000
đồng;
+ Tháng 03/2022: T1 thanh toán 7.500.000 đồng; còn thiếu 7.500.000
đồng;
+ Tháng 04/2022: T1 thanh toán 7.500.000 đồng; còn thiếu 7.500.000
đồng;
+ Tháng 05/2025: T1 thanh toán 7.500.000 đồng; còn thiếu 7.500.000
đồng;
+ Tháng 06/2022: T1 thanh toán 7.500.000 đồng; còn thiếu 7.500.000
đồng;
+ Tháng 07/2022: T1 thanh toán 7.500.000 đồng; còn thiếu 7.500.000
đồng;
+ Tháng 08/2022: T1 thanh toán 7.500.000 đồng; còn thiếu 7.500.000
đồng;
+ Tháng 08/2022: T1 thanh toán 7.500.000 đồng; còn thiếu 7.500.000
đồng;
+ Tháng 09/2022: T1 thanh toán 7.500.000 đồng; còn thiếu 7.500.000
đồng;
+ Tháng 10/2022: T1 thanh toán 7.500.000 đồng; còn thiếu 7.500.000
đồng;
+ Tháng 11/2022: T1 thanh toán 7.500.000 đồng; còn thiếu 7.500.000
đồng;
+ Tháng 12/2022: T1 thanh toán 7.500.000 đồng; còn thiếu 7.500.000
đồng;
+ Tháng 01/2023: T1 thanh toán 7.500.000 đồng; còn thiếu 7.500.000
đồng;
5
+ Tháng 02/2023: T1 thanh toán 7.500.000 đồng; còn thiếu 7.500.000
đồng;
+ Tháng 03/2022: T1 thanh toán 7.500.000 đồng; còn thiếu 7.500.000
đồng;
+ Từ tháng 04/2023 đến ngày 16/7/2024: T1 không thanh toán tin
thuê nhà; mi tháng còn thiếu 15.000.000 đồng;
Tổng số tiền đến tính đến ngày 16/7/2024, T1 đã thanh toán
165.500.000 đồng tổng số tiền còn thiếu lại tính đến ngày 16/07/2024
352.500.000 đồng (Ba trăm năm mươi hai triệu năm trăm nghìn đồng);
Tổng số tiền lãi chậm trả tiền thuê các tháng còn thiếu do chưa thanh toán
với lãi suất 10%/năm 39.956.526 đồng (Ba mươi chín triệu, chín trăm năm
mươi sáu nghìn, năm trăm hai mươi sáu đồng).
Từ tháng 7 năm 2021, Bên cho thuê đã nhiều lần gửi thông báo qua điện
thoại, Z, văn bản để nhắc nhở về việc Bên thuê vi phạm nghĩa vụ thanh toán, cụ
thể: Thông báo lần 1 ngày 01/11/2021 nguyên đơn soạn văn bản và gửi qua Zalo
cho T1; Thông báo vi phạm hợp đồng ngày 22/6/2022; Lần thứ 3 thông báo
vi phạm hợp đồng ngày 06/07/2022; Thông báo lần 4 ngày 14/09/2022. Tất các
các lần thông báo bên cho thuê đều nhắc nhở bên thuê về việc vi phạm điều
khoản thanh toán, yêu cầu bà T1 nghiêm túc thực hiện đúng, đủ nghĩa vụ trả tiền
thuê nhà để tiếp tục thực hiện hợp đồng còn không thì phải trả lại nhà cho Bên
cho thuê, nhưng T1 vẫn không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ còn thách thức
Nguyên đơn kiện ra Tòa án. Đặc biệt, từ tháng 4/2023 đến nay, T1 không h
thanh toán bất kỳ khoản tiền thuê nhà nào cho bên cho thuê nhà là ông Bùi Quốc
T.
Do bị đơn vi phạm nghĩa vụ thanh toán kéo dài làm ảnh hưởng nghiêm
trọng đến quyền lợi của nguyên đơn. Đặc biệt trong quá trình thuê nhà bên thuê
nhà gây mất an ninh trật tự tại địa phương, bị chính quyền mời cả 2 bên lên làm
việc, làm hỏng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tài sản thuê, để tường nhà bị
nứt, sụt lún, bong tróc. Chủ nhà đã đến để kiểm tra đề nghị được sửa chữa
nhưng bà T1 ngăn cản không cho vào nhà để kiểm tra.
Do đó, Nguyên đơn buộc phải khởi kiện đến Tòa án quận Bình Thạnh đề
yêu cầu Toà án xem xét giải quyết như sau:
1. Đề nghị chấm dứt hợp đồng thuê nhà đã ngày 20/4/2021. Buộc
Nguyễn Thị Ngọc T1 dọn hết đồ đạc ra khỏi nhà bàn giao nhà lại cho ông
Bùi Quốc T.
6
2. Buộc Nguyễn Thị Ngọc T1 trả tiền thuê nhà còn thiếu tính từ ngày
01/12/2021 đến hết ngày 15/07/2024 với tổng số 352.500.000 đồng (Ba trăm
năm mươi hai triệu năm trăm nghìn đồng);
3. Buộc T1 phải thanh toán số tiền lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ
thanh toán, tính từ 01/12/2021 đến hết ngày 15/7/2024 39.967.151 đồng (Ba
mươi chín triệu, chín trăm sáu mươi bảy nghìn, một trăm năm mươi mốt đồng).
* Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn, đại diện nguyên đơn ông Nguyễn
Hữu H trình bày:
Do bị đơn trong quá trình thuê nhà đã thường xuyên vi phạm nghĩa vụ
thanh toán làm ảnh hưởng đến quyền lợi của chủ sở hữu. Do đó, bị đơn phản tố
là không có căn cứ. Do đó, nguyên đơn không đồng ý đối với các nội dung phản
tố của bị đơn.
Ngoài ra, nguyên đơn ch cho thuê nhà trống, do đó đề nghị khi bà T1 khi
bàn giao nhà phải tháo dỡ toàn bộ những tài sản đã gắn vào trong nhà và trả lại
nguyên trạng nhà cho chủ sở hữu như lúc nhận bàn giao nhà.
* Tại các bản tự khai, Biên bản làm việc, Biên bản hòa giải bị đơn
Nguyễn Thị Ngọc T1 trình bày:
Sau nhiều ngày thương lượng thỏa thuận tgiữa Nguyễn Lệ
D có ký hợp đồng thuê nhà số C B, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh
(Bà D được sự ủy quyền của chủ nhà ông Bùi Quốc T). Qua quá trình trao
đổi, xin D cho dọn vào trước hơn tháng để sửa chữa lắp đặt
một số vật dụng trong nhà. D đã đồng ý nên giao chìa khóa bàn giao nhà
cho bà vào ngày 05/03/2021, nhưng Hợp đồng thuê nhà để ngày 20/04/2021, với
các nội dung sau:
Bên A (ông Bùi Quốc T Lợi Hồng D1) đồng ý cam kết cho bên
B (Nguyễn Thị Ngọc T1) thuê căn nhà số C B, Phường A, quận B, Thành phố
Hồ Chí Minh.
+ Thời hạn thuê n 5 năm (kể từ ngày 20/4/2021 đến ngày
20/05/2026.
+ Số tiền đặt cọc nhà 03 tháng (45.000.000đ Bốn mươi lăm triệu
chẵn).
+ Trong đó 36 tháng đầu 15.000.000đ (mười lăm triệu); 24 tháng kế
tiếp là tăng 5% hợp đồng.
7
* Trong trường hợp ông T muốn lấy lại nhà hoặc bất cứ trường hợp nào
trước thời hạn hợp đồng thì phải bồi thường những chi phí thất thoát về trang bị
cho quán, nhà theo hai bên thỏa thuận và gấp đôi số tiền đặt cọc nhà.
+ Bên A đồng ý cho bên B trổ cửa sổ phòng kính và thay cửa sắt- nhôm bị
hư hỏng trước đó.
+ Bên A đồng ý cho bên B cho mướn hoặc kinh doanh, theo nhu cầu
riêng, miễn sao không vi phạm pháp luật.
+ Bên A phải kịp thời sửa chữa những hư hỏng do hao mòn theo thời gian
hoặc thấm dột do mưa, trần nhà.
* Trong trường hợp bất khả kháng như: nhà hư hỏng do bão lụt, thiên tai,
dịch bệnh, covid... (bị giãn cách xã hội không cho buôn bán, bị đóng cửa thì bên
A ch lấy 50% tiền nhà đến khi hết giãn cách).
+ Bên B cam kết đóng tiền đầy đđúng ngày 20 hàng tháng không
buôn bán quán nhậu, đại lý ga, dịch vụ internet, bắn cá, cờ bạc.
Ngoài ra, còn quy định về đóng tiến điện nước thanh lý, giải quyết
tranh chấp hợp đồng lẫn nhau.
Khi thuê nhà cọc cho D số tiền 10 triệu vào ngày 04/3/2021; ngày
05/03/2021 chuyển khoản tiếp 10 triệu; trong ngày 05/03/2021, đưa trực
tiếp cho bà D số tiền 45 triệu, bảo 30 triệu tiền cọc và 15 triệu tiền nhà của tháng
4 năm 2021. Bà D đã ký xác nhận vào phía sau hợp đồng do bà giữ.
Từ ngày 05/03/2021, D đã đồng ý giao chìa khóa nhà cho để dọn
vào gắn nội thất. Đến ngày 18/03/2021, B chồng là ông Trần Hoàng V em
trai bà có dọn đến ở và kinh doanh, khoảng giữa tháng 5 năm 2021, thì bà đưa 4
người con về ở và kinh doanh tại căn nhà trên.
Trước khi hợp đồng giữa D thỏa thuận, D bàn giao nhà
cho bà vào ngày 05/03/2021 (Không biên bản bàn giao nhà, nhưng sau đó
khoảng 10 ngàyD có chụp cho bà Biên bản bàn giao nhà qua Z) và đồng ý để
bà sửa chữa một số hạng mục tại căn nhà thuê gồm: thay cửa nhôm kính thông
gió tại 3 phòng vệ sinh; Lắp máy lạnh, vòi sen, đi đường ống nước tại vị trí nấu
ăn, lắp L1, kệ chén tại 3 phòng lầu 1, 2, 3, gắn zèm che nắng mưa tại lầu 3, thay
laphong tại lầu 3 đsau này cho thuê phòng trọ. Chi phí bỏ ra lúc đó
130 triệu.
Trong quá trình thuê nhà, Từ ngày 02 tháng 5 đến ngày 18 tháng 5 năm
2021, do trời mưa dẫn đến nhà bị dột làm hỏng một số chỗ nên đã kêu
8
thợ đến thay tôn máng xối tại tầng lửng do mưa nước tràn xuống tầng lửng,
đục lỗ máng xối, thay đường ng thoát nước từ máng xối xuống đất; Thay 18
bóng đèn led tại tầng lửng tầng trệt; Thay kính cường lực tại tầng lửng hết
tổng chi phí là 42.500.000 đồng, bà có nhắn tin, gọi điện báo cho D, bà D nói
với bà là đừng lăn tăn, cứ sửa đi rồi tính sau. Việc sửa chữa này không
hợp đồng, Mua đồ để sửa chữa thì hóa đơn, tiền công thợ không hóa đơn
chứng từ.
Khoảng tháng 2, 3 năm 2022, do nhà bị tốc mái tôn tại tầng trệt (góc nhà
vệ sinh), có kêu thợ đến bắn tôn, chát keo, chám tường bị nứt, chám xi măng
tại vị trí bị nứt, tổng chi phí hết 12.500.000 đồng. Không hóa đơn chứng từ,
nhưng gọi điện báo cho D nhà bị nứt tường, tốc mái yêu cầu chủ nhà
sửa chữa, nhưng bà D nói thôi không nói nữa tôi mệt rồi.
Ngoài ra, trong quá trình ký hợp đồng thuê nhà với bà Nguyễn Lệ D thì từ
tháng 6 đến tháng 10 năm 2021, bà không kinh doanh, buôn bán được do bị
ảnh hưởng bởi lệnh Giãn cách xã hội của Cơ quan nhà nước vì dịch Covid – 19.
Do đó, căn cứ vào nội dung trong hợp đồng, trong quá trình thuê nhà
đã thực hiện đầy đủ cam kết theo hợp đồng và đóng tiền nhà đầy đủ nhưng bà D
gia đình luôn gây khó khăn cho và không muốn tiếp tục thực hiện hợp
đồng nên vào tháng 3 năm 2023 đã yêu cầu D thanh lý hợp đồng, yêu cầu
D bồi thường theo hợp đồng cho với tổng stiền trên 1.985.000.000
đồng, cụ thể như sau:
+ Cọc tiền thuê nhà: 50.000.000 đồng;
+ Chi phí setup quán: 480.000.000 đồng;
+ Tiền thuê nhà đã đóng: 180.000.000 đồng;
+ Sửa nhà: 130.000.000 đồng;
+ Đồ gia dụng, ghế, võng bị hư: 170.000.000 đồng;
+ Tiền thuê nhân viên bảo vệ: 225.000.000 đồng;
+ L2 02 vợ chồng và chi phí thất thoát do D làm ảnh hưởng không
đăng ký tạm trú: 750.000.000 đồng.
Nhưng bà D không đồng ý và luôn tạo áp lực cho bà, nên từ ngày
01/04/2023, đã không đóng tiền thuê nhà trong nhà từ đó cho đến ngày
16/07/2024, khi bị ông Bùi Quốc T đến cưỡng chế đuổi gia đình bà và khuôn đồ
đạc của bà ra khỏi nhà thuê.
9
Đối với việc thanh toán tiền thuê nhà nguyên đơn trình bày, xác
nhận đóng tiền thuê nhà tháng 4 với số tiền 15.000.000 đồng chứ không
phải không đóng như nguyên đơn trình bày. Tháng 5 đóng 15.000.000 đồng.
Tuy nhiên, vào ngày 22/05/2021, do thông báo từ quan nhà nước vviệc
giãn cách hội, không cho buôn bán từ ngày 22/05/2021, nên nhắn tin
cho D căn cứ vào hợp đồng thì tiền ntháng 5 của 7.500.000 đồng
đã chuyển khoản 15.000.000 đồng, nên tiền thuê nhà tháng 5 còn dư
7.500.000 đồng, đề nghị bà D chuyển qua đóng tháng 6, nên tháng 6 bà không
chuyển tiền thuê nhà. Đối với tháng 7 đóng 5.500.000 đồng, tháng 8 bà đóng
là 5.000.000 đồng, nhưng bà có nhắn xin cô D là do dịch bệnh C nặng quá và bà
cũng đang khó khăn nên xin D đóng số tiền như vậy đã được D nhắn
tin Uh gửi đi.
Tháng 9 năm 2021 bà không đóng tiền nhà vì cả nhà bà bị mắc Covid nên
không ra khỏi nhà, nhắn tin cho D xung quanh toàn người mắc
Covid. Do D không gặp nhau được nên không lấy được số tiền 8,6
triệu đồng (là tiền điện, nước, tiền sửa ống nước, tiền chống dột do D nói
ứng trước thanh toán để trả cho thợ và bà có nói bà D sẽ trừ vào tiền nhà tháng 9
nhưng bà D không nói gì, tháng 10 chuyển khoản 5 triệu đồng, tháng 11, do
D thương lượng lại sẽ đóng tiền thuê nhà vào ngày 01 đến ngày 05 hàng
tháng, nên còn 10 ngày của tháng 11 bà xin bà D miễn đóng.
Từ tháng 12 năm 2021 đến tháng 3 năm 2023 ch chuyển khoản thanh
toán tiền nsố tiền 7.500.000đ/tháng do từ tháng 4 năm 2021 nhà D bị
hư, cụ thể: hư tôn lót tại tầng lửng; đường ống nước tầng trệt bị bể, sửa cầu
thang bị mục nát; thay ống máng xối; thay kính bbể tại tầng lửng; thay bóng
đèn bị chập điện do mưa ngấm vào đường điện; thay la phông với tổng số tiền là
42.000.000 đồng. báo với D nhưng D không đồng ý còn nói
thì phải bảo trì. Căn cứ vào hợp đồng thì do nhà hư hỏng nên ch đóng 50%
tiền thuê nhà.
T1 xác nhận từ tháng 4 năm 2023 đến nay không thanh toán tiền
thuê nhà cho nguyên đơn. Lý do bà D có đơn ngăn chặn tạm trú, không đưa giấy
tờ nhà sao y của chủ sở hữu để T1 đi đăng kinh doanh, việc này m hạn
chế đến việc kinh doanh của bà.
Ngoài ra, T1 xác nhận xác nhận nhận các thông báo trên Zalo từ
D Các văn bản thông báo Thông báo vi phạm hợp đồng ngày 22/6/2022; Lần
thứ 3 thông báo vi phạm hợp đồng ngày 06/07/2022; Thông báo lần 4 v vi
phạm của bên thuê yêu cầu nghiêm túc thực hiện đúng, đủ nghĩa vụ trả tiền
10
nhà. Nhưng cũng giải thích với D về tình trạng nhà bị hỏng nặng nên
ch đồng ý thanh toán tiền thuê nhà cho D 50% tiền thuê nhà. Sau đó mỗi
tháng bà đều chuyển khoản 50% tiền thuê nhà, tương đương 7.500.000 đồng cho
phía gia đình D không thấy phía gia đình bà D ý kiến gì. Sau gần 1
năm, khi bà đi xin Giấy tạm tvà Giấy phép kinh doanh thì mới được công an
phường cho biết D đơn gửi C4 đăng tạm trú thời hạn 02 năm trước
đó đối với gia đình bà. Và bà D cũng không gửi cho bà bản sao y giấy tờ nhà để
tự đi đăng tạm trú với giấy phép kinh doanh. Do đó, không kinh doanh
được như mong muốn.
Do đó, không đồng ý với các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về
việc thanh toán tiền thuê ncòn thiếu tiền lãi phát sinh do chậm thực hiện
nghĩa vụ thanh toán tiền nhà như nguyên đơn đã trình bày ở trên.
Vào ngày 16/07/2024, ông T đã đến cưỡng chế lấy lại nhà. Từ ngày
16/07/2024, bà và gia đình không còn vào được căn nhà trên. Đối với tài sản mà
bà đầu tư vào căn nhà thuê ông T cho người đưa ra ngoài đã bị hư hỏng nặng (bà
có lập vi bằng và đã giao nộp cho Tòa án vào ngày 30/7/2024). Việc hư hỏng tài
sản do hành vi cưỡng chế của ông Bùi Quốc T để lấy lại nhà không yêu cầu
Tòa án giải quyết trong vụ án này. Nếu sau này thu thập được bằng chứng sẽ
khởi kiện bằng một vụ án khác. Ngoài ra, một số tài sản ca hiện vẫn còn
đang để ở trong nhà, bà chưa lấy đi được.
* Tại Đơn phản tố ngày 05/10/2023 và các bản tự khai, biên bản hòa giải,
người có yêu cầu phản tố là bà Nguyễn Thị Ngọc T1 trình bày:
Trong quá trình thuê nhà tại số C B, Phường A, quận B, Tp.Hồ Chí Minh,
đã bỏ tiền đầu tư, sét up lại quán mua sắm trang thiết bị để phục vụ cho
việc kinh doanh quán cafe và cho thuê phòng trọ tại căn nhà trên gồm:
1. Tivi Sony 43inch (Siêu thị Đ);
2. Dàn loa sub vi tính 06 loa (Viện máy tính P);
3. Loa hát nhạc A (B) 350W (Điện máy N);
4. 100 bóng đèn led tron MPE loại 5W (Cửa hàng B1);
5. 20 bóng đèn tròn la phông (Cửa hàng B1);
6. 02 cuộc dây đèn chớp (Cửa hàng B1);
7. 01 cuộn dây đèn led (Cửa hàng B L);
8. 16 quạt Senko (Cửa hàng B1);
11
9. 03 quạt công nghiệp Senko (Cửa hàng B1);
10. 04 camera (Shopee);
11. 01 giường sắt 02 tầng 1,2m (Cửa hàng tại B);
12. 01 nệm Kymdan 180cmx200cmx10cm (Đại lý K);
13. 01 nệm cao su non V1;
14. 08 kệ chén inox + 03 kệ chén nhựa (Cửa hàng tại B);
15. 02 thảm 1,6m
16. 100 ly cà phê (In tại cơ sở in);
17. 100 ly trà đá;
18. 100 muỗng cafe lớn nhỏ (Chợ C5);
19. 05 bình siêu tốc 1,8 lít (Điện máy N);
20. 04 kệ để ly nhựa;
21. 2000 ly nhựa và ly giấy (Chợ B2);
22. 20 bàn gỗ (Mua tại G);
23. 04 ghế xếp dây lưng cao (Mua tại G);
24. 05 bàn tròn sắt màu vàng (Mua tại G);
25. 10 ghế gỗ;
26. 50 ghế xếp inox;
27. 01 bộ bàn nhung 04 ghế;
28. 01 bộ ghế sofa (kèm 04 gối tựa lưng);
29. 10 cái mền;
30. 04 ghế nhựa lưng cao;
31. 01 bàn gỗ hình chữ nhật 1,2mx0,8m;
32. 20 võng dù;
33. 20 võng lưới;
34. 30 khung võng;
35. 01 tủ mát Coca 600 lít;
36. 01 tủ trưng bày cafe hạt và trà;
37. 01 tủ điện thoại di động 1,6mx1,1m;
12
38. 01 tủ trà sữa 1,5mx0,7mx2,2m;
39. 01 tủ thuốc lá;
40. 01 tủ quầy cafe 1,8mx1,1m;
41. 01 tủ lạnh LG (500 lít);
42. 01 tủ đựng ly 1,5m;
43. Máy pha cafe;
44. Máy xay cafe;
45. Máy xay sinh tố (Điện máy N);
46. Máy ép cam;
47. Máy xay đá;
48. Máy ép miệng ly;
49. Máy ép trái cây;
50. 01 máy giặt LG (9kg);
51. 03 máy giặt Electrolux (7kg);
52. 02 máy sấy quần áo Candy (8kg) (Điện máy Tự do);
53. 01 máy lọc nước 10 lỏi Karofi;
54. 01 máy nước nóng;
55. 04 máy lạnh (1,5 lít);
56. 50 tô, dĩa, chén các loại;
57. 100 đũa nĩa các loại;
58. 03 bếp từ.
Do trong quá trình thuê đkinh doanh, ncủa ông T bị dột làm hư
hỏng các tài sản của bà, bà phải bỏ tiền ra sửa chữa. Do đó, việc ông T muốn lấy
lại nhà trước thời hạn ảnh hưởng đến quyền lợi của bà. Do đó, bà có đơn phản tố
đề nghị Tòa án buộc nguyên đơn ông Bùi Quốc T phải thanh toán lại cho bà các
chi phí như sau:
1/ Thanh toán toàn bộ số tiền sửa chữa nhà bị đơn đã bỏ ra sửa chữa
sau khi hợp đồng thuê nhà do nhà bị thấm đột do mưa là: 42.500.000 đồng
(Bốn mươi hai triệu năm trăm nghìn đồng).
13
2/ Bồi thường toàn bộ số tiền đối với những vật dụng bị hư, bể do mưa
bão làm tốc mái gồm: 03 máy giặt, 02 máy sấy, 01 ghế sofa, võng, bóng đèn
điện, cửa kính cường lực bị bể, đèn chớp một số vật dụng khác ước tính
170.000.000 đồng (Một trăm bảy mươi triệu đồng).
3/ Thanh toán lại tiền lắp đặt nội thất và sửa, thay cửa nhôm kính trang bị
vật dụng cho thuê phòng trọ bản 130.000.000 đồng (Một trăm ba mươi
triệu đồng) có sự đồng ý của cô D trong Điều (2) của Hợp đồng thuê nhà.
4/ Thanh toán lại chi psét up quán cafe 480.000.000 đồng (Bốn trăm
tám mươi triệu đồng) bao gồm tất cả trang thiết bị vật dụng dành cho quán
cafe võng 24h và điểm tâm nhẹ.
5/ Bồi thường thiệt hại về quyền lợi, lợi ích từ kinh doanh mua bán và cho
thuê lại bị đơn được hưởng từ hợp đồng mang lại : 975.000.000 đồng
(Chín trăm bảy mươi lăm triệu đồng).
6/ Tiền cọc nhà 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng), bồi thường
gấp đôi cọc là 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng).
Tổng số tiền của 06 yêu cầu trên là 1.897.500.000 đồng (Một tỷ tám trăm
chín mươi bảy triệu năm trăm nghìn đồng).
* Tại bản tự khai, Đơn tường trình quyền lợi nghĩa vụ liên quan
Nguyễn Lệ D trình bày:
Bà xác nhận căn nhà số C B, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh
thuộc quyền sở hữu của ông Bùi Quốc T theo Giấy chứng nhận NQSDĐ số CG
951080, số vào sổ cấp GCN: CH03613 do UBND Quận B, Thành phố Hồ Chí
Minh cấp ngày 06/02/2017.
Vào ngày 24/12/2019, tại Văn phòng C3, Thành phố Hồ Chí Minh, ông
Bùi Quốc T đã lập Hợp đồng ủy quyền công chứng số 043937, quyển số 12
TP/CC-SCC/HĐGD ủy quyền cho bà Nguyễn Lệ D được quyền thay mặt chủ sở
hữu hợp đồng cho thuê nhà tại địa ch: 3 B, Phường A, quận B, Thành phố
Hồ Chí Minh.
Vào tháng 11 năm 2020, gia đình thuê thợ để sửa lại căn nhà số C B,
Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. Trong quá trình gia đình sửa
nhà thì T1 thuê trọ gần đó qua lại trao đổi khi nào sửa xong thì cho
T1 thuê.
Đầu tháng 3 năm 2021, gia đình sửa xong nhà thì T1 ngỏ ý muốn thuê
lại căn nhà của ông T đề ở và kinh doanh. Sau khi bà T1 chồng (V) xem toàn
14
bộ nhà, T1 thương lượng hai bên thống nhất tiền thuê nhà mỗi tháng
15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng/tháng) tiền cọc 45.000.000 đồng
(Bốn mươi lăm triệu đồng) tương đương 3 tháng tiền nhà. Ngày 04/3/2021, tại
nhà ông T, T1 đã chuyển khoản cho 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng)
để giữ chỗ. Ngày 05/3/2021 tại nhà ông T, T1 tiếp tục chuyển khoản thêm
10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) cọc nhà. Sau đó bà T1 đưa ra một Hợp đồng
thuê nhà do T1 soạn sẵn đề ngày 20/4/2021 đề nghị ký. thắc mắc
hôm nay ngày 05/3/2021 sao Hợp đồng đề ngày 20/4/2021, T1 nói: "cho
chúng con thời gian để chuyển đồ đạc, sắp xếp công việc chuẩn bị buôn bán,
làm ăn mà cô".
D đã đồng ý với đề nghị của T1, đồng ý vào Hợp đồng thuê nhà
ngày 20/04/2021, giao chìa khóa nhà cho T1 vào ngày 05/03/2021 (tức
46 ngày không thu tiền nhà tính từ ngày 05/3/2021 đến ngày 20/4/2021). Sau khi
Hợp đồng thuê nthì T1 giao tiền mặt cho bà số tiền 25.000.000 đ
(Hai lăm triệu đồng). Tổng cả 3 khoản 45.000.000 đ (Bốn lăm triệu đồng)
đúng bằng số tiền cọc. xác nhận vào phía sau Hợp đồng là: Tôi đã nhận
đủ 30.000.000 đ tiền cọc 15.000.000 đồng tiền nhà tháng 4 năm 2021. Ngày
20/05/2021 đóng tiếp tiền nhà, ghi chú: Tới tháng 8/2021 (20/8 sẽ trả thêm
15.000.000đ để đủ 03 tháng tiền cọc như thỏa thuận.
Sau khi nhận 30.000.000đ tiền cọc 15.000.000đ tiền thuê nhà tháng 4
từ T1, vào ngày ngày 08/3/2021 đã chuyển khoản 45 triệu đồng trên cho
Lợi Hồng D1 (Vợ của ông T). Theo thỏa thuận theo hợp đồng, đến tháng
8/2021 T1 phải trả tiền nhà 7.500.000 đ (Bảy triệu năm trăm nghìn đồng)
đã giảm dịch 50% do dịch bệnh; tiền cọc 15.000.000đ (Mười lăm triệu
đồng). Tuy nhiên, thực tế tháng 8/2021 bà T1 ch chuyển khoản 5.000.000 đ
(năm triêu đồng). Như vậy, bà T1 còn thiếu lại tiền nhà là 2.500.000 đồng.
Suốt năm 2022 gia đình đã liên tục yêu cầu T1 trả tiền thuê nhà
còn thiếu để tiếp tục được thuê nhà. Tuy nhiên, T1 không trả đúng thỏa
thuận, T1 tự ý trừ tiền nhà không trả tiền còn thiếu suốt từ ngày Hợp
đồng. Lúc này số tiền bà T1 nợ tiền thuê nhà lên đến hàng trăm triệu đồng, trong
khi ông T không có thu nhập, gia đình sống bằng tiền cho thuê nhà. Việc T1
không trả tiền thuê nhà đã gây cho ông T gia đình lâm vào cảnh khốn khó.
Không thể đòi được tiền thnhà, ông T đã dùng nhiều biện pháp để T1 trả
tiền thuê nhà nhưng bà T1 vẫn không trả. Năm 2023 ông T đã báo chính quyền
địa phương về việc T1 không trả tiền nhà và nhờ htrợ, nhưng không ai giải
quyết. T1 đã trục lợi trên tài sản của ông T để làm giàu bỏ mặc ông T
15
gia đình rơi vào cảnh khốn khó. Bất lực tớc sự chây ì của T1, ông T đã có đơn
đề nghị chính quyền địa phương dừng đăng ký tạm trú cho đến khi nào T1 trả đủ
tiền thuê nhà. Mặc vậy T1 vẫn không thanh toán tiền thuê nhà cho ông T,
đnh điểm là vào tng 4 năm 2023, T1 tuyên bố không trả tiền nhà nữa,
thách thức ông T đi kiện, điều này buộc ông T phải khởi kiện T1 đến Tòa án
nhân dân quận Bình Thạnh.
Về vấn đề sửa chữa nhà của T1: khẳng định tình trạng nhà lúc
bàn giao cho T1 thuê còn mới không hại gì, nhà mới được gia đình
bà sửa chữa hoàn thiện trước khi cho thuê (điều này thể hiện trong 8 bức ảnh lúc
bàn giao nhà đã cung cấp cho Tòa án lúc khởi kiện và được bị đơn thừa nhận tại
phiên tòa).
- Khi nhận nhà, T1 D ch trao đổi vvấn đề vsinh khi dọn vào
các vấn đề liên quan đến việc chốt số điện, số nước. T1 không hề ý kiến
nào về việc cho rằng nhà “hư hỏng” hay “không sử dụng được”.
Do đó, vvấn đề các chi phí sửa chữa, D đồng ý với quan điểm của
nguyên đơn ông T, không đồng ý toàn bộ các yêu cầu của bị đơn đối với chi phí
sửa chữa này.
Trong quá trình thuê nhà, T1 báo với bà nhà bị dột, cần sửa chữa
báo chi phí 3.900.000 đồng, bà đã đồng ý nên sau đó đã nói con
Lợi Hồng D1 chuyển lại số tiền này cho T1, tuy nhiên do bà D1 chưa chuyển
lại số tiền này nên đề nghị ông T trả lại cho T1 số tiền 3.900.000 đồng.
Đối với những lần sửa chữa khác như bà T1 trình bày do bà T1 không thông báo
cho bà nên không biết và bà không đồng ý với tất cả những yêu cầu phản tố của
T1.
Về vấn đề tạm trú, sau khi Hợp đồng, mỗi bên giữ 01 bản, D ng
đã giao bản sao Giấy tnhà photo cho T1. Đồng thời, yêu cầu T1 cung
cấp giấy tờ tùy thân để đăng tạm trú theo quy định, tuy nhiên bà T1 từ
chối yêu cầu của bà. T1 cho rằng, T1 đã đăng tạm ttại nD B,
phường A rồi, nên không cần thiết phải đăng tạm trú nữa. Nên việc T1
cho rằng không đăng tạm tcho T1 làm ảnh hưởng đến việc kinh doanh
của T1 không đúng. Còn việc sau này T1 không đăng được tạm trú
do bên cho thuê đã nhiều lần nhắc bà thực hiện nghĩa vụ đóng tiền thuê nhà đầy
đủ mà bà không thực hiện.
Vi vậy, hoàn toàn đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu
cầu Tòa án tuyên chấm dứt hợp đồng thuê nhà. Buộc T1 phải trả số tiền thuê
16
nhà chưa thanh toán theo thỏa thuận trong hợp đồng tiền lãi do chậm thực
hiện nghĩa vụ.
* Tại bản tự khai người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Lợi Hồng D1
trình bày:
và ông Bùi Quốc T kết hôn năm 2002. Năm 2016 ông T mua căn nhà
đất tại 3 B, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. Nhà và đất đã được Ủy
ban nhân dân quận B cấp GCN sCH03613, ngày cấp 06/02/2017. Số tiền đ
mua căn nhà này có nguồn gốc từ tài sản riêng của ông T.
Trước đây, năm 2019 ông T làm giấy ủy quyền (có đưa tên bà vào) cho bà
Nguyễn Lệ D được quyền ký hợp đồng cho thuê nhà. Ngày 20/04/2021, bà D
hợp đồng thuê nhà với bà Nguyễn Thị Ngọc T1. Nhiều tháng nayT1 vi phạm
nghiêm trọng Hợp đồng thuê nhà nên ông T khởi kiện T1. Việc ông T tranh
chấp hợp đồng thuê nhà với bên thuê (bà Nguyễn Thị Ngọc T1) là việc riêng của
ông T.
yêu cầu Tòa án không thu thập thêm các tài liệu, chứng cứ nào khác
đối với yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt không thắc mắc khiếu nại
gì.
* Tại các bản tự khai biên bản làm việc, Biên bản hòa giải người
quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Trần Hoàng V trình bày:
Ông chồng Nguyễn Thị Ngọc T1, ông xác nhận cùng bà T1 đi
xem nhà thuê tại địa ch: 3 B, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. Sau
khi xem xét bàn bạc thì T1 thống nhất với bà D Hợp đồng thuê nhà
ngày 20/04/2021.
Do T1 xin nhận nhà trước để vào sắp xếp đồ đạc, vào ngày 18/3/2021
ông các con dọn vào tại căn nhà số C B, Phường A, quận B, Thành phố
Hồ Chí Minh cùng với bà T1.
Việc kinh doanh tại căn nhà thuê trên do một mình vợ ông quyết định.
Ông tham gia phụ vợ buôn bán từ 11h đến 15h. Công việc chính của ông
tài xế.
Ông được biết bà T1 thuê nhà trên để buôn bán nước uống (café võng) tại
chỗ mang đi. Ngoài ra, T1 còn cho thuê 02 phòng trọ, (mỗi tháng được
hơn 7tr) cho ông C1 nhân viên FPT thuê một phần mặt bằng phía trước để
các thiết bị Internet, mỗi tháng 4triệu đồng. Quá trình cho thuê lại ông bà có làm
hợp đồng. Hiện nay những người thuê trên không còn thuê từ ngày 24/05/2024.
17
Trong quá trình ở tại căn nhà trên ông có thấy T1 kêu thợ về sửa chữa:
Chống dột tại tầng lửng, thay mái tôn tầng lửng, làm vách tôn tại lầu 3, gia cố
mái tôn phía sau nhà do bị mưa gió làm tốc mái. Ông là người đi mua vật về
cho thợ làm, chi phí do ông mua nhiều lần nên không nhớ chính xác.
Ngoài ra, trước khi vào vợ chồng ông bỏ tiền ra sửa chữa, thay cửa
nhôm kính tầng 1, 2, 3 hết 130 triệu đkinh doanh cho thuê lại. Việc này
sự đồng ý của D. Do D nói ông thay cửa tsẽ được thuê với giá 15
triệu/tháng, còn không thì giá thuê là 18 triệu/tháng.
Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và yêu cầu phản tố của bị đơn
ông đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.
Ngoài ra, ông V T1 còn trình bày: Các con của ông chtrong
căn nhà trên theo bố mẹ, không can thiệp không tham gia vào quá trình thuê
nhà.
* Tại bản tự khai người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Trần Thị Trúc
L trình bày:
Chị con của ông Trần Hoàng V Nguyễn Thị Ngọc T1, đến
tại căn nhà số C B, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh do bố mẹ
thuê tại đó. Việc tranh chấp giữa ông T và T1 không liên quan đề nghị
Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật và đề nghị được vắng mặt tại các buổi
hòa giải và xét xử.
*Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Lệ D trình bày:
D xác nhận, người đứng ra Hợp đồng thuê nhà ngày
20/04/2021 với Nguyễn Thị Ngọc T1 theo văn bản ủy quyền của ông Bùi
Quốc T. Quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng như bà đã trình bày tại tòa.
Đối với số tiền nhà tiền cọc ch nhận của T1 thông qua chuyển
khoản 2 lần, lần một vào ngày 04/3/2021, lần 2 vào ngày 05/03/2021. cũng
trong ngày 05/03/2021, sau khi T1 hợp đồng T1 đưa cho
25.000.000 tiền mặt. Như vậy, T1 giao cho tổng cộng Tổng cả 3 khoản
45.000.000 đ (Bốn lăm triệu đồng) đúng bằng số tiền cọc. Sau khi nhận
dduwwojc số tiền này ghi xác nhận vào phía sau 02 bản hợp đồng, một
bản bà giữ và 01 bản giao cho bà T1 giữ có nội dung: Tôi đã nhận đủ
30.000.000 đ tiền cọc 15.000.000 đồng tiền nhà tháng 4 năm 2021. Ngày
20/05/2021 đóng tiếp tiền nhà, ghi chú: Tới tháng 8/2021 (20/8 sẽ trả thêm
15.000.000đ để đủ 03 tháng tiền cọc nthỏa thuận. Chứ không phải số tiền
65.000.000 đồng như bà T1 trình bày.
18
Do T1 thiếu lại 15.000.000 đồng, nên tại các tin nhắn trao đổi trên
Zalo, nhiều lần T1 thừa nhận còn thiếu tiền cọc, cụ thể tin nhắn ngày
22/03/2023 nội dung Tiền cọc 15 triệu còn lại con đã trả tiền nước lúc bể
ống và vật tư, công, tiền chống dột và ngăn lưới[Hình ảnh kèm theo, đây là tài
liệu do chính bị đơn cung cấp trong hồ vụ án]; Tin nhắn Zalo ngày
16/09/2022 T1 nhắn rằng: Tiền cọc khi nào muốn lấy cứ ra con viết vào
HĐ có nhận thêm con sẽ đưa”;
Do đó, khẳng định lời trình bày của T1 vtiền cọc việc thanh
toán tiền thuê như bà T2 trình bày là không đúng sự thật.
Về vấn đề các chi phí sửa chữa khẳng địnhT1 tự sửa và không được sự
đồng ý của bà.
D đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn ông Bùi QuốcTrung . không đồng ý toàn bộ các yêu cầu của bị đơn đối
với yêu cầu phản tố.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Trần Hoàng V trình bày:
Ông xác định được T1 nhờ đi mua vật tư về sửa chữa nhà, nhưng
mua nhiều thứ không lấy hóa đơn, nên ông không nhớ tổng tiền mua hết bao
nhiêu. Ông đề nghị Tòa án xử theo quy định pháp luật.
Tòa án đã tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ về tình trạng kinh doanh
của bị đơn tình hình giá cả thuê mặt bằng trong thời gian Covid-19 theo quy
định của pháp luật; Xác minh về việc đăng ký tạm trú tại nhà thuê; Xác minh về
việc xin phép sửa chữa nhà trong giai đoạn thực hiện hợp đồng thuê nhà. Các tài
liệu do đương sự giao nộp Tòa án thu thập được ghi nhận trong Biên bản
kiểm tra việc tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải ngày 30/7/2024.
Tại Bản án dân s thẩm số 2110/2024/DS-ST ngày 25 tháng 9 năm
2024 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết
định:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Bùi Quốc T:
1.1 Tuyên bố Hợp đồng thuê nhà ngày 20/4/2021 giữa bà Nguyễn Lệ D
Nguyễn Thị Ngọc T1 chấm dứt kể từ ngày 16/07/2024.
1.2 Buộc bà Nguyễn Thị Ngọc T1 phải thanh toán cho ông Bùi Quốc T số
tiền thuê nhà còn nợ và tiền lãi do chậm thực hiện nghãi vụ trả tiền thuê nhà
tổng cộng 392.436.526 đồng (Ba trăm m mươi chín triệu bảy trăm m
mươi sáu nghìn năm trăm hai mươi sáu đồng).
19
1.3 Đình ch đối với yêu cầu của ông Bùi Quốc T về việc buộc bà Nguyễn
Thị Ngọc T1 phải dọn hết đồ đạc trong nhà bàn giao lại nhà cho ông Bùi
Quốc T.
1.4 Ghi nhận ý kiến của ông Bùi Quốc T về việc yêu cầu Nguyễn Thị
Ngọc T1 phải đến tháo dỡ toàn bộ những tài sản của bà còn lại trong nhà thuê tại
số C B, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh trong thời hạn 30 ngày, k
từ ngày bản án hiệu lực pháp luật. Hết thời hạn 30 ngày trên, mà Nguyễn
Thị Ngọc T1 không đến tháo dỡ thì ông Bùi Quốc T không trách nhiệm đối
với các tài sản này.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn bà Nguyễn Thị Ngọc
T1:
2.1 Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn về việc buộc nguyên
đơn trả tiền sửa nhà do mưa làm thấm dột với tổng số tiền là 11.530.000 đồng.
2.1 Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn về việc buộc nguyên
đơn trả lại tiền cọc đã đóng là 30.000.000 đồng.
3. Không chấp nhận một phần yêu cầu phản tố đối với các yêu cầu sau:
3.1 Thanh toán toàn bộ số tiền sửa chữa nhà mà bị đơn đã bỏ ra sửa chữa
sau khi ký hợp đồng thuê nhà do nhà bị thấm dột khi mưa là: 30.970.000 đồng;
3.2 Thanh toán toàn bộ số tiền những vật dụng hư, bể do mưa bão làm tốc
mái gồm 03 máy giặt, 02 máy y, 01 ghê sofa, võng, bóng đèn điện, cửa kính
cường lực bị bể, đèn chớp một số vật dụng ước tính 170.000.000 đồng (Một
trăm bảy mươi triệu đồng);
3.3 Thanh toán tiền lắp đặt nội thất sửa, thay cửa nhôm kính trang bị
vật dụng cho thuê phòng trợ bản 130.000.000 đồng (Một trăm ba mươi
triệu đồng);
3.4 Thanh toán chi phí thiết lập quán cafe 480.000.000 đồng (Bốn trăm
tám mươi triệu đồng) bao gồm tât cả trang thiết bị vật dụng dành cho quán
cafe võng 24h và điểm tâm nhẹ.
3.5 Thanh toán lại số tiền 799.700.000 đồng chi phí thiệt hại về quyền
lợi, và lợi ích kinh doanh, buôn bán từ ngày 16/07/2024 đến ngày 20/04/2026
3.6 Thanh toán tiền cọc nhà 15.000.000 đồng, bồi thường gấp đôi tiền
cọc là 45.000.000 đồng. Với tổng số tiền là 60.000.000 đồng.
4. Phương thức thanh toán:
20
Thanh toán làm một lần ngay sau khi bản án hiệu lực pháp luật. Thi
hành tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Nguyên đơn ông Bùi Quốc T phải chịu án phí thẩm 2.076.500 đồng,
nhưng được cấn trừ vào s tiền tạm ứng án phí nguyên đơn đã nộp
5.612.000 đồng theo Biên lai số AA/2023/0027859 ngày 22/05/2023 của Chi
cục Thi hành án dân sự quận Bình Thạnh. H1 lại cho ông T số tiền 3.535.500
đồng.
Bị đơn bà Nguyễn Thị Ngọc T1 phải chịu án phí dân sự thẩm trên yêu
cầu của nguyên đơn được chấp nhận trên số tiền là 392.436.526 đồng
19.621.826 đồng yêu cầu phản tcủa bị đơn không được chấp nhận trên số
tiền 1.670.670.000 đồng 62.120.100 đồng. Tổng số tiền án phí bị đơn
phải nộp 81.741.926 đồng (T3 mươi một triệu bảy trăm bốn ơi mốt nghìn
chín trăm hai mươi sáu đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí
34.462.500 đồng theo biên lai số AA/2023/0028580 ngày 16/10/2023 của Chi
cục Thi hành án dân sự quận Bình Thạnh. T1 còn phải đóng thêm số tiền án
phí 47.279.426 đồng (Bốn mươi bảy triệu hai trăm bảy mươi chín nghìn bốn
trăm hai mươi sáu đồng).
Ngoài ra, bản án thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo, quyền và nghĩa
vụ của đương sự trong giai đoạn thi hành án, thời hạn thi hành án.
Ngày 08/10/2024, bị đơn Nguyễn Thị Ngọc T1 nộp Đơn kháng cáo
toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Các đương sự không tha thuận được v vic gii quyết toàn b v án.
Nguyên đơn vẫn gi nguyên yêu cu khi kiện, đề ngh cp phúc thm
gi nguyên bản án sơ thẩm.
B đơn Nguyn Th Ngc T1 gi nguyên yêu cu kháng cáo, T1
người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị đơn đề ngh Hội đồng xét x phúc
thm hủy án thẩm do vi phm nghiêm trng th tc t tng, c th: Biên bn
xem xét thẩm định ti ch không ghi đầy đủ nội dung theo quy đnh, không ghi
nhn hin trng các tài sn ca b đơn làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyn
li ích hp pháp ca b đơn; Cấp thẩm chưa đánh giá đầy đ toàn din
chng c ca b đơn cung cấp.
21
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý
kiến trong quá trình giải quyết vụ án tại giai đoạn phúc thẩm:
Về tố tụng: Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thụ vụ án đúng
thẩm quyền. Thẩm phán đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng
dân sự trong quá trình giải quyết vụ án: thông báo bằng văn bản cho các
đương sự Viện kiểm sát cùng cấp về việc thụ vụ án, quyết định xét x
cùng hồ sơ vụ án chuyển Viện kiểm sát nghiên cứu đúng thời hạn quy đnh tại
Điều 292 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư
Tòa án, người tham gia ttụng đã thực hiện đầy đủ quyền nghĩa vụ tố
tụng theo quy định pháp luật thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận
yêu cầu kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm
tra tại phiên tòa căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử
nhận định:
[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị Ngọc T1 đã làm
nộp trong hạn luật định, đã nộp tạm ứng án phí theo quy định tại Điều 272,
Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự nên được chấp nhận xem xét theo trình tự phúc
thẩm.
Trần Thị Trúc L đơn xin xét xử vắng mặt nên căn cứ quy định tại
Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2] Về nội dung:
[2.1] Căn cứ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
tài sản khác gắn liền với đất số CG 951080, svào sổ cấp GCN: CH03613 do
UBND quận B, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 06/02/2017 do ông Bùi Quốc
T Lợi Hồng D1 đứng tên. Ngày 24/12/2019 ông T D1 ký hợp đồng
ủy quyền số công chứng 043937, quyển số 12 TP/CC-SCC/HĐGD, theo nội
dung của Hợp đồng ủy quyền thì Nguyễn Lệ D được quyền thay mặt ông T
D1 hợp đồng cho thuê nhà tại địa ch 3 B, phường A, quận B, Thành
phố Hồ Chí Minh.
Do đó hợp đồng thuê nhà ngày 20/4/2021 giữa bà Nguyễn Lệ D và
Nguyễn Thị Ngọc T1 cho bà T1 thuê nhà số C B, Phường A, quận B, Thành phố
Hồ Chí Minh, với các nội dung của Hợp đồng phù hợp với quy định tại các Điều
22
116, 117, 118, 472, 473, 474, 481 của Bộ luật dân sự; các Điều 118, 119, 122
Luật nhà ở năm 2014 nên phát sinh hiệu lực đối với các bên.
[2.2] Các chứng cứ trong hồ sơ thể hiện: Ngày 04 và ngày 05 tháng 3 năm
2021, T1 đã thanh toán bằng hình thức chuyển khoản 20.000.000 đồng
đưa tiền mặt trực tiếp cho D với tổng stiền được xác nhận 45.000.000
đồng; trong đó 30.000.000 đồng 02 tháng tiền cọc 15.000.000 đồng tiền
nhà tháng 4 năm 2021. Sau khi nhận được số tiền trên bà D đã giao chìa khóa và
bàn giao nhà cho T1 (Việc bàn giao nhà lập biên bản gửi qua Zalo cho
bên thuê).
T1 thiếu lại 15.000.000 đồng tiền cọc, hứa sẽ thanh toán vào ngày
20 tháng 8 năm 2021 (thỏa thuận được thể hiện tại phần ghi chú của Hợp đồng
thuê nhà giao cho nguyên đơn giữa).
Tại phiên tòa T1 trình bày đã thanh toán tổng cộng 65.000.000 đồng
không phù hợp nếu 03 tháng tiền cọc 01 tháng tiền nhà thì tổng cộng phải
là 60.000.000 đồng nên có thể xác định bà D ch nhận chuyển khoản và tiền mặt
tổng cộng 45.000.000 đồng sau đó xác nhận vào mặt sau của hợp đồng thuê nhà.
Theo hợp đồng thuê: Đối tượng hợp đồng thuê căn nhà 03 tầng tại địa
ch 3 B, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; Mục đích thuê để kinh
doanh; Thời hạn thuê 05 năm kể từ ngày 20 tháng 04 năm 2021 đến ngày 20
tháng 05 năm 2026; Số tiền đặt cọc theo thỏa thuận 03 tháng tiền thuê nhà
(tương đương 45.000.000 đồng chẵn); Tiền thuê nhà được chia làm 2 giai đoạn:
36 tháng đầu kể từ ngày hợp đồng, tiền thuê nhà mỗi tháng 15.000.000
đồng/tháng (Mười lăm triệu đồng); 24 tháng n lại của thời hạn hợp đồng, tiền
thuê được điều chnh tăng thêm 5% so với tiền thuê giai đoạn đầu; Thanh toán
tiền thuê nhà vào đúng ngày 20 hàng tháng; Bên thuê còn nghĩa vụ tuân thủ
pháp luật khi thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Tháng 4 tháng 5 năm 2021, T1 đóng đủ tiền thuê là 15.000.000
đồng (theo thỏa thuận của các bên trừ 15.000.000 đồng từ tiền đặt cọc để đóng
tiền tháng 4/2021).
Tháng 6, 7, 8, 10 năm 2021 do ảnh hưởng dịch Covid nên bên cho thuê
giảm 50% tiền thuê nhưng bà T1 ch đóng 5.000.000 đồng mỗi tháng.
Tháng 9 và tháng 11 năm 2021 không thanh toán.
Từ tháng 12 năm 2021 đến tháng 3 năm 2023 mỗi tháng T1 ch thanh
toán 7.500.000 đồng, và sau đó không thanh toán nữa.
23
[2.3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vviệc chấm dứt hợp đồng
thuê nhà đã ký ngày 20/4/2021 là có cơ sở chấp nhận, bởi lẽ:
Căn cứ mục số 5 của Hợp đồng thuê tòa nhà ngày 21/4/2021: Bên B (bên
thuê nhà Nguyễn Thị Ngọc T1) cam kết đóng tiền đầy đủ đúng ngày 20 hàng
tháng và không buôn bán quán nhậu, Đ1, dịch vụ Internet, bắn cá, cờ bạc; Phải
thanh toán chi phí điện nước hàng tháng, không gây mất an ninh trật tự an ninh
làm ảnh hưởng xã hội”.
Căn cứ vào Công văn số 3263/UBND-YT ngày 22/8/2023 của Ủy ban
nhân dân quận B phúc đáp như sau:
“Thời gian giãn cách hội do dịch C 19 trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh như sau: Từ 00 giờ 00 phút ngày 09/07/2021 đến ngày 30/09/2021.
Thời gian thực hiện giãn cách hội trên địa bàn Phường A được áp
dụng theo thời gian giãn cách xã hội toàn Thành phố nêu trên.
Trong thời gian thực hiện giãn cách hội, Ủy ban nhân dân Phường A1
áp dụng tạm dừng hoạt động buôn bán, buộc đóng cửa tất cả các địa điểm Kinh
doanh mua bán các hàng hóa không thiết yếu trong đó địa chỉ: 3 B, Phường
A”.
Việc bà T1 cứ viện dẫn lý do dịch bệnh ảnh hưởng T1 cho rằng trời
mưa y dột nhà thiên tai để không thực hiện nghĩa vụ đóng tiền thuê nhà
vi phạm nghĩa vụ của bên thuê. Bên cho thuê đã nhiều lần thông báo chấm dứt
hợp đồng mà T1 không thực hiện trong khi theo chứng cứ T1 cung cấp bà
T1 cho 03 người thuê lại một phần căn nhà mỗi tháng hơn 11 triệu đồng
kinh doanh nước giải khát. Điều này chứng minh T1 cố tình vi phạm hợp
đồng.
Do đó cấp sơ thẩm xchấm dứt hợp đồng thuê nhà đã ngày 20/4/2021
giữa Nguyễn Lệ D (được nguyên đơn ủy quyền) với T1 phù hợp với
quy định khoản 1, Điều 428 Bộ luật dân snăm 2015 Khoản 2, Điều 132
Luật nhà ở năm 2014.
Do hiện nay T1 không còn trong nhà cũng không còn đồ đạc
nên nguyên đơn rút yêu cầu buộc Nguyễn Thị Ngọc T1 dọn hết đồ đạc ra
khỏi nhà bàn giao nhà lại cho nguyên đơn, cấp thẩm đình ch đúng quy
định.
Hiện nay còn một số vật dụng của T1 theo nguyên đơn trình bày 03
cái máy lạnh còn T1 thì không xác định được còn những tài sản không
chứng minh được còn những tài sản trong nhà của ông T nên ghi nhận ý
24
kiến của ông Bùi Quốc T về việc yêu cầu bà Nguyễn Thị Ngọc T1 phải đến tháo
dỡ toàn bộ những tài sản của còn lại trong nhà thuê tại số C B, Phường A,
quận B, Thành phố Hồ Chí Minh trong thời hạn 30 ngày, ktừ ngày bản án
hiệu lực pháp luật. Hết thời hạn 30 ngày trên, Nguyễn Thị Ngọc T1
không đến tháo dỡ thì ông Bùi Quốc T không trách nhiệm đối với các tài sản
này.
[2.4] Đối với yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc Nguyễn Thị Ngọc
T1 trả tiền thuê nhà còn thiếu tính từ ngày 01/12/2021 đến hết ngày 15/07/2024
với tổng số là 352.500.000 đồng, thấy rằng:
Các bên đương sự xác nhận bà T1 không còn ở trong căn nhà thuê từ ngày
16/7/2024.
Bản thân bà T1 có cho thuê lại một phần căn nhà và thu tiền thuê
11.000.000 đồng mỗi tháng thì hơn ai hết T1 phải biết nghĩa vụ của người
thuê nhà phải thanh toán đầy đủ tiền thuê nhà theo sự thỏa thuận trong hợp
đồng, nhưng bà T1 cứ lấy do mưa bão, nhà dột, ảnh hưởng dịch bệnh để cố ý
không thanh toán tiền thuê nhà cho nguyên đơn, mặc dù đã được nguyên đơn
nhắc nhở thường xuyên. Việc bị đơn không thực hiện đầy đnghĩa vụ của bên
thuê nhà đã làm ảnh hưởng đến quyền lợi của nguyên đơn. Do đó, buộc T1
phải có nghĩa vụ thanh toán cho nguyên đơn tiền thuê nhà còn thiếu tổng cộng là
352.500.000 đồng là phù hợp với quy định tại Điều 481 Bộ luật dân sự.
[2.5] Xét yêu cầu buộc bị đơn phải thanh toán tiền lãi do chậm thực hiện
nghĩa vụ của nguyên đơn. Như đã phân tích trên, do bị đơn vi phạm nghĩa vụ
thanh toán nên phải chịu tiền lãi theo quy định. Cấp thẩm buộc bị đơn thanh
toán tổng cộng là: 39.756.526 đồng là phù hợp.
[3] Xét yêu cầu phản tố của bị đơn yêu cầu nguyên đơn thanh toán các
khoản sau:
[3.1] Đối với yêu cầu thanh toán toàn bộ số tiền sửa chữa nhà bị đơn
đã bỏ ra sửa chữa sau khi hợp đồng thuê nhà do nhà bị thấm dột do a
42.500.000 đồng. Bị đơn không cung cấp các chứng cứ chứng minh, nhưng
nguyên đơn thừa nhận và đồng ý hoàn trả số tiền 11.530.000 đồng. Cấp sơ thẩm
ghi nhận và chấp nhận một phần là phù hợp.
[3.2] Đối với yêu cầu bồi thường toàn bộ số tiền đối với những vật dụng
bị hư, bể do mưa bão làm tốc mái gồm: 03 máy giặt, 02 máy sấy, 01 ghế sofa,
võng, bóng đèn điện, cửa nh cường lực bị bể, đèn chớp và một số vật dụng
khác ước tính 170.000.000 đồng.
25
Chứng cứ mà bà T1 cung cấp không chứng minh được mối quan hệ nhân
quả về việc mưa bão làm hư hỏng đồ đạc và tài sản bà sử dụng thì phải có nghĩa
vụ bảo quản. cũng không cung cấp được các tài liệu, chứng cứ phục vụ cho
việc giám định. Trong khi trước khi thuê nhà T1 được đến xem nhà
không bhạn chế. Do đó cấp thẩm không chấp nhận yêu cầu này của bị đơn
là phù hợp.
[3.3] Đối với yêu cầu thanh toán lại tiền lắp đặt nội thất sửa, thay cửa
nhôm kính trang bị vật dụng cho thuê phòng trọ bản 130.000.000 đồng
sự đồng ý của D trong Điều (2) của Hợp đồng thuê nhà. Cụ thể T1 đã
Thay cửa nhộm kính, lắp thiết bị vệ sinh (gồm thay cửa nhôm kính tại 3 phòng
vệ sinh; Lắp máy lạnh, vòi sen, đi đường ông nước tại vị trí nấu ăn, lắp L, kệ
chén tại 3 phòng lầu 1, 2, 3, gắn zèm che nắng a tại lầu 3, thay laphong tại
lầu 3 để sau này bà cho thuê phòng trọ.
Các hạng mục này hai bên không thỏa thuận trong hợp đồng nguyên
đơn không thừa nhận. Do đó không có căn cứ chấp nhận.
[3.4] Đối với yêu cầu thanh toán lại chi phí thiết kế, trang trí quán cafe
480.000.000 đồng bao gồm tất cả trang thiết bị vật dụng dành cho quán cafe
võng 24h và điểm tâm nhẹ.
Các chứng từ không đảm bảo tính hợp pháp để xem xét, các thiết bị này
thể tháo di dời nhưng khi T1 biết việc ông T đến tháo các thiết bị này
nhưng bà T1 không mang đi dẫn đến hỏng nên không sở xem xét yêu
cầu này của bà T1.
[3.5] Đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại về quyền lợi, lợi ích từ kinh
doanh mua bán cho thuê lại mà bị đơn được hưởng từ hợp đồng mang lại
799.700.000 đồng.
Như đã phân tích trên, bà T1 vi phạm nghiêm trọng nghĩa vcủa bên
thuê nhà, gây ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của nguyên đơn nên việc nguyên
đơn lấy lại nhà trước thời hạn do lỗi hoàn toàn của bị đơn về việc không thực
hiện đầy đủ nghĩa vụ thanh toán nên yêu cầu này của bị đơn là không thỏa đáng,
và không có căn cứ pháp lý nên cấp sơ thẩm bác yêu cầu này của bị đơn là đúng.
[3.6] Đối với yêu cầu tiền cọc nhà là 45.000.000 đồng, yêu cầu bồi thường
gấp đôi tiền cọc 90.000.000 đồng thấy rằng các chứng cứ thể hiện bị đơn ch
đặt cọc 30.000.000 đồng, nguyên đơn không lỗi trong chấm dứt hợp đồng,
nguyên đơn cũng đồng ý hoàn trả số tiền này nên ghi nhận.
26
Đối với các trình bày của bị đơn về yêu cầu định giá tài sản bị thiệt hại: Bị
đơn xác nhận tài sản hiện nay không còn để tiến hành định giá. Ngày
16/01/2024, Công ty T4 cũng văn bản phúc đáp cho Tòa án nhân dân quận
Bình Thạnh là không thể tiến hành định giá tài sản.
Không căn cứ chứng minh biên bản xem xét thẩm định tại chỗ bị làm
sai lệch, sửa chữa biên bản như bị đơn trình bày để hủy án thẩm như yêu cầu
kháng cáo của bị đơn.
[4] Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét
xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án thẩm
là có căn cứ nên chấp nhận.
[5] Những quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị Hội đồng xét xử không giải quyết, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời
hạn kháng cáo, kháng nghị.
[6] Án phí dân sự thẩm: Nguyên đơn ông Bùi Quốc T phải chịu án phí
thẩm 2.076.500 đồng, nhưng được cấn trừ vào số tiền tạm ứng án phí
nguyên đơn đã nộp 5.612.000 đồng theo Biên lai số AA/2023/0027859 ngày
22/05/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Thạnh. H1 lại cho ông T
số tiền là 3.535.500 đồng.
Bị đơn bà Nguyễn Thị Ngọc T1 phải chịu án phí dân sự thầm trên yêu
cầu của nguyên đơn được chấp nhận trên số tiền 392.436.526 đồng
19.621.826 đồng yêu cầu phản tcủa bị đơn không được chấp nhận trên số
tiền 1.670.670.000 đồng 62.120.100 đồng. Tổng số tiền án phí bị đơn
phải nộp 81.741.926 đồng (T3 mươi một triệu bảy trăm bốn ơi mốt nghìn
chín trăm hai mươi sáu đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí
34.462.500 đồng theo biên lai số AA/2023/0028580 ngày 16/10/2023 của Chi
cục Thi hành án dân sự quận Bình Thạnh. T1 còn phải đóng thêm số tiền án
phí 47.279.426 đồng (Bốn mươi bảy triệu hai trăm bảy mươi chín nghìn bốn
trăm hai mươi sáu đồng).
[7] Án phí dân sự phúc thẩm: Do không chấp nhận kháng cáo nên người
kháng cáo là bà Nguyễn Thị Ngọc T1 phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
27
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn Nguyễn Thị Ngọc T1.
Giữ nguyên Bản án dân sự thẩm số 2110/2024/DS-ST ngày 25 tháng 9 năm
2024 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh.
Căn cứ vào Khoản 3 Điều 26, điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1
Điều 39, Khoản 1 Điều 147, Khoản 1 Điều 148, Điều 227, Khoản 1 Điều 273
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ vào các Điều 116, 117, 118, 156, 328, 472, 473, 474, 481 của B
luật Dân sự năm 2015;
Căn cứ vào các Điều 118, 119, 122; 132 Luật Nhà ở năm 2014;
Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án
phí và lệ phí Tòa án; Luật thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi năm 2014.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Bùi Quốc T:
1.1. Tuyên bố Hợp đồng thuê nhà ngày 20/4/2021 giữa Nguyễn Lệ D
và bà Nguyễn Thị Ngọc T1 chấm dứt kể từ ngày 16/07/2024.
1.2. Buộc bà Nguyễn Thị Ngọc T1 phải thanh toán cho ông Bùi Quốc T
số tiền thuê nhà còn nợ tiền lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền thuê nhà
tổng cộng 392.436.526 đồng (Ba trăm chín mươi hai triệu bốn trăm ba mươi
sáu nghìn năm trăm hai mươi sáu đồng).
1.3. Đình ch đối với yêu cầu của ông Bùi Quốc T về việc buộc
Nguyễn Thị Ngọc T1 phải dọn hết đồ đạc trong nhà và bàn giao lại nhà cho ông
Bùi Quốc T.
1.4. Ghi nhận ý kiến của ông Bùi Quốc T vviệc yêu cầu Nguyễn Thị
Ngọc T1 phải đến tháo dỡ toàn bộ những tài sản của bà còn lại trong nhà thuê tại
số C B, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh trong thời hạn 30 ngày, k
từ ngày bản án hiệu lực pháp luật. Hết thời hạn 30 ngày trên, mà Nguyễn
Thị Ngọc T1 không đến tháo dỡ thì ông Bùi Quốc T không trách nhiệm đối
với các tài sản này.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn Nguyễn Thị Ngọc
T1:
2.1. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn về việc buộc nguyên
đơn trả tiền sửa nhà do mưa làm thấm dột với tổng số tiền 11.530.000 đồng
(mười một triệu năm trăm ba mươi nghìn đồng).
28
2.2. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn về việc buộc nguyên
đơn trả lại tiền cọc đã đóng là 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng).
3. Không chấp nhận một phần yêu cầu phản tố đối với các yêu cầu sau:
3.1. Thanh toán toàn bộ số tiền sửa chữa nhà mà bị đơn đã bỏ ra sửa chữa
sau khi hợp đồng thuê nhà do nhà bị thấm dột khi mưa là: 30.970.000 đồng
(ba mươi triệu chín trăm bảy mươi nghìn đồng).
3.2. Thanh toán toàn bộ số tiên những vật dụng hư, bề do mưa bão làm
tốc mái gồm 03 máy giặt, 02 máy sây, 01 ghê sofa, võng, bóng đèn điện, cửa
kính cường lực bị bể, đèn chớp một số vật dụng ước tính 170.000.000 đồng
(một trăm bảy mươi triệu đồng);
3.3. Thanh toán tiền lắp đặt nội thất sa, thay cửa nhôm kính trang bị
vật dụng cho thuê phòng trợ bản 130.000.000 đồng (một trăm ba mươi
triệu đồng);
3.4. Thanh toán chi phí thiết lập, trang trí (S) quán phê 480.000.000
đồng (bốn trăm tám mươi triệu đồng) bao gồm tất cả trang thiết bị vật dụng
dành cho quán cà phê võng 24h và điểm tâm nhẹ.
3.5. Thanh toán lại số tiền 799.700.000 đồng (bảy trăm chín mươi chín
triệu bảy trăm nghìn đồng) chi pthiệt hại về quyền và lợi ích kinh doanh,
buôn bán từ ngày 16/07/2024 đến ngày 20/04/2026
3.6. Thanh toán tiền cọc nhà 45.000.000 đồng (bốn mươi lăm triệu
đồng), bồi thường gấp đôi tiền cọc 90.000.000 đồng (chín mươi triệu đồng).
4. Phương thức thanh toán:
Thanh toán làm một lần ngay sau khi bản án hiệu lực pháp luật. Thi
hành tại Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.
K t ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người
phải thi hành án chưa thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ khon tin trên
thì hàng tháng người phải thi hành án còn phi tr cho người được thi hành án s
tiền lãi theo quy đnh ti khoản 2 Điều 468 ca B lut dân s năm 2015 tương
ng vi thời gian chưa thi hành án.
5. Án phí dân sthẩm: Nguyên đơn ông Bùi Quốc T phải chịu án phí
thẩm 2.076.500 đồng, nhưng được cấn trừ vào số tiền tạm ứng án phí
nguyên đơn đã nộp 5.612.000 đồng theo Biên lai số AA/2023/0027859 ngày
22/05/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Thạnh. H1 lại cho ông T
29
số tiền là 3.535.500 đồng (ba triệu năm trăm ba mươi lăm nghìn năm trăm
đồng).
Bị đơn Nguyễn Thị Ngọc T1 phải chịu án pdân sự thầm trên yêu
cầu của nguyên đơn được chấp nhận trên số tiền 392.436.526 đồng
19.621.826 đồng yêu cầu phản tcủa bị đơn không được chấp nhận trên số
tiền 1.670.670.000 đồng 62.120.100 đồng. Tổng số tiền án phí bị đơn
phải nộp 81.741.926 (tám mươi mốt triệu bảy trăm bốn mươi mốt nghìn chín
trăm hai mươi sáu đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí là
34.462.500 đồng theo biên lai số AA/2023/0028580 ngày 16/10/2023 của Chi
cục Thi hành án dân sự quận Bình Thạnh. T1 còn phải đóng thêm số tiền án
phí 47.279.426 đồng (bốn mươi bảy triệu hai trăm bảy mươi chín nghìn bốn
trăm hai mươi sáu đồng).
6. Án phí dân sự phúc thẩm:
Nguyễn Thị Ngọc T1 phải chịu án phí phúc thẩm 300.000 đồng (ba
trăm nghìn đồng) được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí theo Biên lai thu số
0029232 ngày 15/10/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Thạnh.
7. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
8. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều
9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định
tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- Tòa án nhân dân cấp cao tại TP.Hồ Chí Minh;
- Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại TP.Hồ Chí
Minh;
- Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh;
- Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh;
- Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Thạnh;
- Đương sự;
- Lưu (T20).
Tải về
Bản án số 433/2025/DS-PT Bản án số 433/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 433/2025/DS-PT Bản án số 433/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất