Bản án số 43/2024/HNGĐ-ST ngày 12/11/2024 của TAND huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 43/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 43/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 43/2024/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 43/2024/HNGĐ-ST ngày 12/11/2024 của TAND huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Lộc Bình (TAND tỉnh Lạng Sơn) |
Số hiệu: | 43/2024/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 12/11/2024 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | 1. Về quan hệ hôn nhân |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN LỘC BÌNH
TỈNH LẠNG SƠN
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập –Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 43/2024/HNGĐ-ST
Ngày 12-11-2024
V/v Ly hôn, tranh chấp về
nuôi con khi ly hôn
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỘC BÌNH, TỈNH LẠNG SƠN
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Nguyễn Thúy Huyền.
Các Hội thẩm nhân dân: Bà Lý Thị Phẩm và bà Đặng Thị Phương.
- Thư ký phiên toà: Bà Hoàng Thị Nhưỡng - Thư ký Tòa án nhân dân huyện
Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn tham
gia phiên toà: Bà Hoàng Phương Thảo - Kiểm sát viên.
Ngày 12 tháng 11 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lộc Bình,
tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số:
92/2024/TLST-HNGĐ, ngày 01 tháng 10 năm 2024 về việc "Ly hôn, tranh chấp
về nuôi con khi ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:
41/2024/QĐXXST-HNGĐ, ngày 23 tháng 10 năm 2024; Quyết định hoãn phiên
toà số: 25/2024/QĐST-HNGĐ ngày 08/11/2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Vi Thị B, sinh năm 1999; nơi cư trú: Thôn N, xã T,
huyện L, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.
- Bị đơn: Anh Nông Văn C, sinh năm 1999; nơi cư trú: Thôn N, xã T, huyện
L, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.
- Người làm chứng: Bà Hà Thị P; nơi cư trú: Thôn N, xã T, huyện L, tỉnh
Lạng Sơn; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo nội dung đơn khởi kiện ngày 07/8/2024, bản khai ngày 07/10/2024, ý
kiến tại phiên họp ngày 22/10/2024, nguyên đơn chị Vi Thị B trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Vi Thị B tự nguyện kết hôn với anh Nông Văn
C năm 2019. Trước khi kết hôn cả hai có thời gian tự tìm hiểu, yêu nhau được 01
năm, được hai gia đình tổ chức cưới cho theo phong tục tập quán, có đăng ký kết
hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện L, tỉnh Lạng Sơn ngày 08/7/2019.
Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống cùng nhà với bố mẹ chồng, tình cảm
vợ chồng chung sống bình thường, đến năm 2022 vợ chồng cùng nhau đi làm
công nhân, sống cùng phòng trọ, nhưng đến tháng 8/2022 thì vợ chồng phát sinh
mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do anh Nông Văn C không phụ giúp vợ
việc nhà, không quan tâm đến gia đình con cái. Mâu thuẫn này chị cũng đã khuyên
bảo anh Nông Văn C nhưng anh không sửa đổi được. Từ đó trở đi vợ chồng sống
mà không có tiếng nói chung, không có tình cảm, cả hai không còn quan tâm đến
nhau, không nói chuyện với nhau, đến tháng 12/2022 vợ chồng chị đã sống ly
thân, cả hai đi ở trọ riêng và không còn quan tâm đến nhau, khi về nhà thì chị về
nhà ngoại sinh sống, anh Nông Văn C sống cùng với bà nội, từ khi sống ly thân
cả hai không còn quan tâm, chăm sóc đến nhau, không liên lạc hỏi thăm nhau nữa.
Mâu thuẫn vợ chồng, hai bên gia đình nội ngoại đều biết và có khuyên giải nhưng
không được. Đến nay xác định tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được chị đề
nghị Toà án giải quyết cho ly hôn với anh Nông Văn C.
Về con chung: Vợ chồng chị có 01 con chung là Nông Trường K, sinh ngày
27/01/2019. Khi ly hôn chị yêu cầu anh Nông Văn C có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi
dưỡng giáo dục con chung đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi). Chị tự nguyện cấp
dưỡng nuôi con với số tiền 2.000.000 đồng/tháng cho đến khi con đủ 18 tuổi. Thời
điểm cấp dưỡng kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, cấp dưỡng trước ngày 30
hàng tháng và chị không phải chịu lãi suất do chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
Hiện tại con đang chung sống cùng với bố và bà nội (mẹ chồng). Từ khi ly thân
chị thỉnh thoảng có về thăm con và gửi tiền cho bà nội để chăm sóc con chung.
Anh Nông Văn C đi làm có thu nhập, vẫn về nhà thăm con, chu cấp tiền cho bà
nội nuôi con. Anh Nông Văn C hiện sống cùng bà nội, khi anh Nông Văn C đi
làm bà nội sẽ hỗ trợ giúp đỡ để chăm sóc, đưa đón cháu đi học.
Về tài sản chung, nợ chung: Không có. Do bận công việc, chị Vi Thị B có
đơn đề nghị Tòa án nhân dân huyện Lộc Bình giải quyết, xét xử vắng mặt.
Quá trình Tòa án thụ lý và giải quyết vụ án, bị đơn anh Nông Văn C đều
vắng mặt theo Giấy triệu tập của Tòa án.
Người làm chứng: Bà Hoàng Thị P1 vắng mặt tại phiên toà, lời khai trong
hồ sơ thể hiện: Bà là mẹ đẻ của Nông Văn C, là mẹ chồng của Vi Thị B . Giữa bà
với Nông Văn C, Vi Thị B không có mâu thuẫn gì với nhau. Nông Văn C đã biết
việc Vi Thị B đã làm đơn ly hôn. Về quan hệ hôn nhân: Vợ chồng trước khi kết
hôn có thời gian tự tìm hiểu, yêu nhau, được hai gia đình tổ chức cưới hỏi theo
phong tục địa phương, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện L,
tỉnh Lạng Sơn. Quá trình chung sống thời gian đầu hạnh phúc, sau đó phát sinh
mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là gì bà không nắm được vì hai con đi làm
chung cùng nhau, sau đó cả hai có mâu thuẫn thì khác người khác làm, cả hai đã
sống ly thân được 02 năm nay, đến nay bà thấy vợ chồng khó có thể hàn gắn với
nhau được, Nông Văn C đã biết Vi Thị B làm đơn ly hôn và có nói lại với bà đồng
ý ly hôn. Về con chung: Vợ chồng có 01 người con chung đang sống cùng bố và
bà nội, trường hợp ly hôn Nông Văn C có nói với bà là con do Nông Văn C nuôi
và Vi Thị B cấp dưỡng số tiền 2.000.000 đồng/tháng cho đến khi con đủ 18 tuổi.
Nông Văn C đi làm ăn xa nhưng vẫn thường xuyên về nhà thăm con, thăm gia
đình, hỗ trợ, chu cấp tiền để bà nội nuôi con và khi Nông Văn C nuôi con bà sẽ
hỗ trợ giúp đỡ, chăm sóc, nuôi con giúp Nông Văn C khi Nông Văn C đi làm ăn
xa. Về tài sản chung và nợ chung: Không có. Các văn bản tố tụng của Nông Văn
C bà tiếp tục nhận và cam kết giao lại cho Nông Văn C. Hiện nay Nông Văn C
chưa cắt khẩu đi đâu, bà đề nghị Toà án xem xét giải quyết vắng mặt bà.
Theo Công văn số 107/CAX, ngày 04/10/2024 của Công an xã T, huyện L,
tỉnh Lạng Sơn cung cấp: Tại địa bàn thôn N, xã T, huyện L, tỉnh Lạng Sơn có
công dân tên Nông Văn C, sinh ngày 05/01/1999 sinh sống và đăng ký Hộ khẩu
thường trú. Tại thời điểm xác minh qua công tác kiểm tra thông tin trên hệ thống
quản lý dữ liệu Quốc gia về dân sự xác định công dân Nông Văn C hiện nay vẫn
có thông tin và cư trú tại địa phương. Hiện chưa có thay đổi về thường trú và cư
trú.
Toà án đã mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng
cứ, tại phiên họp vắng mặt anh Nông Văn C, chị Vi Thị B đã có đơn đề nghị Toà
án không tiến hành hoà giải.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng
Sơn:
Việc chấp hành pháp luật tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án và trong quá trình
giải quyết vụ án, tại phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa
án thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực
hiện đúng quy định tại các Điều 70, Điều 71 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn không
thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự. Người
làm chứng đã thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình quy định tại Điều 78 Bộ luật
Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa nguyên đơn chị Vi Thị B vắng mặt tại phiên tòa
nhưng đã có lời khai và có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Bị đơn anh Nông
Văn C đã được triệu tập hợp lệ đến phiên toà xét xử lần thứ hai nhưng vắng mặt
không có lý do. Người làm chứng bà Hà Thị P vắng mặt tại phiên toà nhưng đã
có lời khai, có ý kiến đề nghị giải quyết vắng mặt. Hội đồng xét xử vẫn tiến hành
xét xử vụ án là đúng quy định tại Điều 227, Điều 228, Điều 229, Điều 238 của Bộ
luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: Chị Vi Thị B và anh Nông Văn C kết hôn trên cơ sở tự
nguyện có đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện L, tỉnh Lạng Sơn ngày
08/7/2019. Do đó, hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Vợ chồng anh chị chung
sống một thời gian ngắn thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do không cùng quan điểm
sống, đến tháng 8/2022 vợ chồng đã sống ly thân đến nay, trong thời gian ly thân
cả hai không ai quan tâm hỏi han nhau. Xét thấy cuộc hôn nhân của anh chị đến
nay không còn tình cảm, không có sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau, mục đích hôn
nhân không đạt được nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật
Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, xử cho chị Vi Thị B
được ly hôn với anh Nông Văn C.
Về con chung: Vợ chồng anh chị có 01 con chung là cháu Nông Trường K,
sinh ngày 27/01/2019. Khi ly hôn chị Vi Thị B yêu cầu anh Nông Văn C trực tiếp
nuôi dưỡng và chăm sóc con chung, chị nguyện cấp dưỡng nuôi con 2.000.000
đồng/tháng. Hiện cháu Nông Trường K đang sống cùng bố và bà nội. Bố đi làm
thì có bà nội hỗ trợ chăm sóc và đưa đón cháu. Anh Nông Văn C có yêu cầu được
nuôi dưỡng con chung. Căn cứ Điều 81, Điều 82, Điều 83, 110, 116, 117 Luật
Hôn nhân và gia đình đề nghị giao cháu Nông T Khoa cho anh Nông Văn C nuôi
dưỡng, chăm sóc và giáo dục đến khi con đủ 18 tuổi. Về tài sản chung và nợ
chung: Không đề nghị xem xét giải quyết. Về án phí: Nguyên đơn chị Vi Thị B
phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm và án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn chị Vi Thị B vắng mặt tại phiên tòa, hồ
sơ thể hiện đã có lời khai, có đơn xin xét xử vắng mặt. Bị đơn anh Nông Văn C
đã được Toà án triệu tập hợp lệ đến phiên toà xét xử lần thứ hai nhưng vắng mặt
không có lý do. Người làm chứng bà Hà Thị P đã có lời khai, đề nghị xem xét giải
quyết vắng mặt. Căn cứ các Điều 227, Điều 228, Điều 229, Điều 238 của Bộ luật
Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vụ án vắng mặt các
đương sự nêu trên.
[2] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn khởi kiện
yêu cầu giải quyết ly hôn, tranh chấp nuôi con vì vậy quan hệ pháp luật là "Ly
hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn". Bị đơn anh Nông Văn C, cư trú tại: Thôn
N, xã T, huyện L, tỉnh Lạng Sơn. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều
35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, thẩm quyền giải quyết thuộc
Tòa án nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn.
[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Vi Thị B và anh Nông Văn C tự nguyện kết
hôn, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện L, tỉnh Lạng Sơn ngày
08/7/2019. Như vậy, quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Quá trình chung
sống, vợ chồng có mâu thuẫn từ tháng 8 năm 2022 đến nay do bất đồng quan điểm
sống, không quan tâm, yêu thương, chăm sóc lẫn nhau, anh Nông Văn C không
phụ giúp việc nhà, không quan tâm đến gia đình. Cả hai đã sống ly thân từ tháng
12/2022 đến nay, từ khi sống ly thân cả hai không còn liên lạc, không yêu thương,
quan tâm nhau nữa khiến cho tình cảm vợ chồng lạnh nhạt, mâu thuẫn vợ chồng
không thể hàn gắn được. Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân của chị Vi
Thị B và anh Nông Văn C đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, mâu
thuẫn vợ chồng không còn khả năng hàn gắn. Do đó, yêu cầu ly hôn của chị Vi
Thị B là có căn cứ nên được chấp nhận.
[4] Về con chung: Chị Vi Thị B và anh Nông Văn C có 01 con chung là
cháu Nông Trường K, sinh ngày 27/01/2019. Xét thấy, từ tháng 12 năm 2022 đến
nay, cháu Nông Trường K đang sống cùng với bố đẻ và bà nội. Anh Nông Văn C
đi làm xa, đã có ý kiến yêu cầu được nuôi con và có ý kiến về cấp dưỡng nuôi
con, anh đi làm có thu nhập, thường xuyên về thăm con và gia đình, vẫn chu cấp
tiền cho bà nội nuôi con. Để tránh xáo trộn cuộc sống của con, đảm bảo sự phát
triển đầy đủ về mọi mặt cho trẻ em, xét điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng con chung
và sự hỗ trợ của bà nội, tiếp tục giao cháu Nông T Khoa cho anh Nông Văn C
nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục đến khi con đủ 18 tuổi. Về cấp dưỡng nuôi con:
Chị Vi Thị B tự N cấp dưỡng nuôi con chung định kỳ hàng tháng là
2.000.000/tháng (hai triệu đồng/tháng), kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật đến
khi con đủ 18 tuổi, thời điểm cấp dưỡng trước ngày 30 hàng tháng. Chị không
phải chịu lãi suất do chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Việc tự nguyện cấp
dưỡng nuôi con của chị Vi Thị B là phù hợp với quy định của pháp luật, được Hội
đồng xét xử chấp nhận. Chị Vi Thị B có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung,
không ai được cản trở chị Vi Thị B thực hiện quyền này.
[5] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Vi Thị B trình bày trong thời gian
chung sống vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ chung nên Hội đồng
xét xử không xem xét.
[6] Về án phí và quyền kháng cáo: Chị Vi Thị B phải chịu án phí ly hôn và
án phí cấp dưỡng theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 của Nghị quyết
số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và
lệ phí Toà án. Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều
271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[7] Đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Bình là có căn
cứ, phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào các Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều
83, Điều 107, Điều 110, Điều 116, Điều 117 của Luật Hôn nhân và gia đình;
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 229, Điều 238, Điều 271, khoản
1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều
27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý
và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Vi Thị B được ly hôn với anh Nông
Văn C. (Giấy chứng nhận kết hôn số 33, đăng ký ngày 08/7/2019 tại Ủy ban nhân
dân xã T, huyện L, tỉnh Lạng Sơn).
2. Về con chung: Giao con chung là cháu Nông Trường K, sinh ngày
27/01/2019 cho anh Nông Văn C trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục cho
đến khi con đủ 18 tuổi. Chị Vi Thị B có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con định kỳ
hàng tháng là 2.000.000/tháng (hai triệu đồng/tháng) kể từ khi bản án có hiệu lực
pháp luật cho đến khi con đủ 18 tuổi, thời điểm cấp dưỡng trước ngày 30 hàng
tháng. Chị Vi Thị B không phải chịu lãi suất do chậm thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng. Chị Vi Thị B có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản
trở chị Vi Thị B thực hiện quyền này.
3. Về án phí: Nguyên đơn chị Vi Thị B phải chịu 300.000 đồng (ba trăm
nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm ly hôn và 300.000 đồng (ba trăm nghìn
đồng) tiền án phí cấp dưỡng. Tổng số tiền án phí chị Vi Thị B phải nộp là 600.000
đồng (sáu trăm nghìn đồng) để nộp vào Ngân sách Nhà nước. Xác nhận chị Vi
Thị B đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số
0002350, ngày 01/10/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện L, tỉnh Lạng
Sơn, chị Vi Thị B phải nộp tiếp số tiền án phí là 300.000 đồng (ba trăm nghìn
đồng).
4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án
trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được
niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành
án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Lạng Sơn;
- VKSND tỉnh Lạng Sơn;
- VKSND huyện Lộc Bình;
- Chi cục THADS huyện L;
- UBND xã T, huyện L;
- Các đương sự;
- Lưu: Hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Nguyễn Thúy Huyền
Tải về
Bản án số 43/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 43/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 27/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 27/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 14/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Bản án số 175/2024/HNGĐ-PT ngày 12/12/2024 của TAND TP. Hà Nội về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm